Ai
chỉ định
anh là thi sĩ?
Thứ
Sáu, ngày 8 tháng 3 năm 1996, vào lúc 5 giờ chiều, buổi
tưởng niệm thi sĩ Joseph Brodsky (tháng Năm 24, 1940 - tháng Giêng 28,
1996),
Nobel văn chương 1987, tại nhà thờ St. John the Divine, New York, có lẽ
đã đúng
như ý nguyện của ông. Thay vì cuộc sống vị kỷ, những người bạn của ông
đã nhắc
nhở nhau về những chu toàn, the achievements, ngôn ngữ - the language -
của
người quá cố:
Death
will come and will find a body
whose
silent peace will reflect death's approach
like
any woman's face
[Tĩnh
vật, trong Phần Lời, Part of Speech]
(Chết
sẽ tới và sẽ thấy một xác thân
mà
sự bình an lặng lẽ sẽ phản chiếu cái chết tới gần
như
gương mặt của bất cứ một người đàn bà nào).
Tuy
sống lưu vong gần như suốt đời, ông được coi là nhà thơ
vĩ đại của cả nửa thế kỷ, và chỉ cầu mong ông sống thêm 4 năm nữa là
"thế
kỷ của chúng ta" có được sự tận cùng vẹn toàn. Ông rời Nga-xô đã hai
chục
năm, cái chết của ông khiến cho căn nhà Nga bây giờ mới thực sự trống
rỗng.
Ông
sang Mỹ, nhập tịch Mỹ, yêu nước Mỹ, làm thơ, viết khảo
luận bằng tiếng Anh. Nhưng nước Nga là một xứ đáo để (Chắc đáo để cũng
chẳng
thua gì quê hương của mi...): Anh càng rẫy ra, nó càng bám chặt lấy anh
cho tới
hơi thở chót.
-Bao
giờ ông về?.
-Có
thể, tôi không biết. Có lẽ. Nhưng năm nay thì không. Tôi
nên về. Tôi sẽ không về. Đâu có ai cần tôi ở đó.
-Đừng
nói bậy, họ sẽ không để ông một mình đâu. Họ sẽ công
kênh ông trên đường phố... tới tận Moscow... Tới Petersburg... Ông sẽ
cưỡi ngựa
trắng, nếu ông muốn.
-Đó
là điều khiến tôi không muốn về. Tôi đâu cần ai ở đó.
*
Theo
Tatyana Tolstaya, nhà văn nữ người Nga hiện đang giảng
dạy môn văn chương Nga và viết văn, creative writing, tại Skidmore
College,
thoạt đầu, ông rất muốn về, ít nhất cũng như vậy. Ông đã từng nổi giận
về những
lời trách cứ. "Họ không cho phép tôi về dự đám tang ông già. Bà già
chết
không có tôi ở bên. Tôi hỏi xin nhưng họ từ chối". Cho dù vậy, lý do,
theo
Tolstaya, là ông không thể về. Ông sợ quá khứ, kỷ niệm, hồi nhớ, những
ngôi mộ
bị đào bới. Sợ sự yếu đuối của ông. Sợ hủy diệt những gì ông đã làm
được, với
quá khứ của ông, trong thi ca của ông. Ông sợ mất nó như Orpheus đã
từng vĩnh
viễn mất Eurydice, khi ngoái cổ nhìn lại.
Mỗi
lần từ Nga trở về, hành trang của Tolstaya chật cứng
những bản thảo của những thi sĩ, văn sĩ trẻ. "Cũng không nặng gì lắm
đâu.
Xin trao tận tay thi sĩ. Nói ông ta đọc. Tôi chỉ cần ông ta đọc". Ông
đã
đọc, đã nhớ và đã nói, thơ của họ tốt... Và ca ngợi điều may mắn. Và
những nhà
thơ trẻ của chúng ta đã hất hất cái đầu, ra vẻ: "Thực sự, chỉ có hai
nhà
thơ thứ thiệt tại Nga, Brodsky và chính tôi". Ông tạo nên một cảm tưởng
giả, ông là một thứ ‘Bố già văn nghệ’. Nhưng chỉ một số ít ỏi thi sĩ
trẻ đã
từng nghe ông rên rỉ: Sau cái thứ này, tôi biết anh ta vẫn tiếp tục
viết, nhưng
làm sao anh ta tiếp tục sống!
Ông
không tới với nước Nga, nhưng nước Nga đến với ông. Nhà
thơ Nga kỳ cục không muốn bám rễ vào đất Nga.
Kỳ
cục thật, bởi vì đã từ lâu, thế hệ lạc loài được
Hemingway mô tả trong Mặt Trời Vẫn Mọc, The Sun Also Rises vẫn luôn
luôn là một
ám ảnh đối với những kẻ bị bứng ra khỏi đất. Nếu không trở nên điên
điên, khùng
khùng thì cũng bị thương tật, (bất lực như nhân vật chính trong Mặt
Trời Vẫn
Mọc), bị bệnh kín (La Mort dans l'Âme: Chết trong Tâm hồn), và chỉ là
những kẻ
thất bại. Đám Cộng sản trong nước chẳng vẫn thường dè bỉu một nền văn
chương
hải ngoại?
Nhưng
Brodsky là một ngoại lệ. Nước Nga đã đến với ông. Thơ
ông được xuất bản, đăng tải trên hầu hết các báo chí tại Nga. Trong một
cuộc
thăm dò dư luận tại đường phố Moscow: "Ông có mong ước, hy vọng gì liên
quan đến cuộc bầu cử?", một người thợ mộc đã trả lời: "Tôi chỉ mong
sống một cuộc đời riêng tư. Như Joseph Brodsky".
-Ai
chỉ định anh là thi sĩ?
Đám
Cộng sản Liên-xô đã từng hét vào mặt ông như vậy tại
phiên tòa. Họ chẳng thèm để ý đến những tài liệu, giấy tờ chứng minh
từng đồng
kopech ông có được qua việc sáng tác, dịch thuật thi ca.
-Tôi
nghĩ có lẽ ông Trời.
Được
thôi. Và tù đầy, lưu vong.
Neither
country nor churchyard will I choose
I'll
come to Vasilevsky Island to die
(Xứ
sở làm chi, phần mộ làm gì
Ta
sẽ tới đảo kia để chết)
In
the dark I won't find your deep blue facade
I'll
fall on the asphalt between the crossed lines.
(Trong
đêm tối thấy đâu, gương mặt em thăm thẳm xanh, xưa
Ta
gục xuống nhựa đường đen, giữa những lằn đan chéo).
Những
lằn đan chéo, the crossed lines, hay rõ hơn, bờ ranh
Nga Mỹ phân biệt số phận hai mặt của một kẻ ăn đậu ở nhờ.
*
-Này
thi sĩ, nếu ông muốn về không ngựa trắng mà cũng chẳng
cần đám đông reo hò, ngưỡng mộ, tại sao ông không về theo kiểu giấu mặt?
-Giấu
mặt?
Đột
nhiên thi sĩ hết tức giận, và cũng bỏ lối nói chuyện
khôi hài. Ông chăm chú nghe.
-Thì
cứ dán lên một bộ râu, một hàng ria mép, đại khái như
vậy. Cần nhất, đừng nói cho bất cứ một người nào. Và rồi ông sẽ dạo
chơi giữa
phố, giữa người, thảnh thơi và chẳng ai nhận ra ông. Nếu thích thú, ông
có thể
gọi điện thoại cho một người bạn từ một trạm công cộng, như thể ông từ
Mỹ gọi
về. Hoặc gõ cửa nhà bạn: "Tớ đây này, nhớ cậu quá!"
Giấu
mặt, tuyệt vời thật!
****
Joseph Huỳnh Văn là
một thi sĩ. Chúng tôi quen nhau những ngày làm Tập san Văn chương. Có
Nguyễn Tử
Lộc, đã chết vì bệnh tại Sài-gòn ít lâu sau 75. Phạm Hoán, Phạm Kiều
Tùng,
Nguyễn Đạt, Nguyễn Tường Giang... Huỳnh Văn là Thư ký Tòa soạn. Không
có Phạm
Kiều Tùng, tập san không có một ấn loát tuyệt hảo. Nguyễn Đông Ngạc khi
còn
sống vẫn tự hào về cuốn Những Truyện Ngắn Hay Nhất Của Quê Hương Chúng
Ta (Hai
Mươi Năm Văn Học Miền Nam) do anh xuất bản, Phạm Kiều Tùng, Phạm Hoán
lo in ấn,
trình bày. Bạn lấy đầu một cây kim chấm một đầu trang. Dấu chấm đó sẽ
xuyên
suốt mọi đầu trang thường của cuốn sách. Không có Nguyễn Tường Giang
thì không
đào đâu ra tiền và mối thiện cảm, độc giả, thân hữu quảng cáo dành cho
tập san.
Những bài khảo luận của Nguyễn Tử Lộc và sở học của anh chiết ra từ
những dòng
thác ngầm của nhân loại - dòng văn chương Anglo-Saxon - làm ngỡ ngàng
đám chúng
tôi, những đứa chỉ mê đọc sách Tây, một căn bệnh ấu trĩ nhằm tỏ sự khó
chịu vì
sự có mặt của những quân nhân Hoa-kỳ tại Miền Nam.
Huỳnh
Văn với lối nói mi mi tau tau là chất keo mà một người
Thư ký Tòa soạn cần để kết hợp anh em. Bây giờ nghĩ lại chính thơ anh
mới là
tinh thần Tập San Văn Chương. Đó là nơi xuất hiện Cầm Dương Xanh ,
những bài
thơ đầu mà có lẽ cũng là cuối của anh. Bởi vì sau đó, anh không đăng
thơ nữa,
tuy chắc chắn vẫn làm thơ, hoặc tìm thấy thơ trên những vân gỗ, khi anh
làm
nghề thợ mộc, những ngày sau 75, thay cho nghề bán cháo phổi, những
ngày trước
đó.
"Mỗi
thời đại, con người tự chọn mình khi đứng trước
tha nhân, tình yêu, và cái chết." (Sartre, Situations). Trong thơ
Nguyễn
Bắc Sơn, tha nhân là những người ở bên kia bờ địa ngục, và chiến tranh
chỉ là
một cuộc rong chơi. Nguyễn Đức Sơn tìm thấy Cửa Thiền ở một nơi khác, ở
Đêm
Nguyệt Động chẳng hạn. Thanh Tâm Tuyền muốn trút cơn đau của thơ vào
thiên
nhiên:
Mùa
này gió biển thổi
điên lên lục địa...
Còn
Huỳnh Văn, có vẻ như anh chẳng màng chi đến cuộc chiến,
hoặc cuộc chiến tránh né anh. Tinh thần mắt bão của thiên nhiên thời
tiết, hay
tinh thần mắt nghe, l'oeil qui écoute, của Maurice Blanchot?
Ôi
khúc Cầm Dương sầu quí phái
Đàn
ai xanh ngát Trời Tây Phương.
Thơ
anh là một ngạc nhiên, hồi đó.
Và
tôi vẫn còn ngạc nhiên, bây giờ, khi được tin anh mất. (1)
Khi
liên tưởng đến câu thơ của một người bạn:
Hồn
Đông Phương thất lạc buồn Phương Tây
(thơ
TKA)
Tôi
không biết có phải Trời Tây Phương của anh lấy từ ý thơ
cổ:
Vọng
Mỹ Nhân hề, thiên nhất phương
(Có
thể mượn ý niệm "con người hoàn toàn" (l'homme
total), hay giấc đại mộng của Marx, làm nhịp cầu liên tưởng, để thấy
rằng những
Mỹ Nhân, Đấng Quân Vương, Thánh Chúa... trong thi ca Đông Phương không
hẳn chỉ
là những giấc mộng điên cuồng của thi sĩ):
Vọng
Mỹ nhân hề, thiên nhất phương
Vọng
Mỹ nhân hề, vị lai
Đọc
trong nước, có vẻ như Thơ đang trên đường đi tìm một Mỹ
nhân cho cả ngôn ngữ lẫn cuộc đời.
Và
Buồn Phương Tây, có thể từ ý thơ Quang Dũng:
Mắt
em dìu dịu buồn Tây Phương
(Tây
Phương trong thơ Quang Dũng là Tây Phương Cực Lạc của
một cõi Chùa Thầy, Sơn Tây, và cũng còn là vẻ đẹp của các cô thiếu nữ
vùng
này).
Hay
Tây Phương là cõi lưu đầy của lũ chúng tôi mà Joseph
Huỳnh Văn đã nhìn thấy từ bao năm trước:
Khuya
nức nở những cõi lòng không ngủ
Đợi
vì sao dậy sớm tiễn người đi.
*
-Tau
đây này. Nhớ mi quá!
Nguyễn
Quốc Trụ
(1)
Joseph Huỳnh Văn Hiến mất ngày 20/2/1995 tại Sài Gòn.
|