J. D
Salinger mất, 91 tuổi
JD Salinger dies, aged 91
Catcher
in the Rye
author JD Salinger has died of
natural causes at his home in New Hampshire
JD Salinger, tác giả Catcher
in the Rye,
mất, thọ 91 tuổi
Ở Miền Nam,
Catcher được Phùng Thăng dịch là Bắt
Trẻ Đồng Xanh.
Nhưng còn một tác
phẩm trứ danh khác nữa, cũng có tên là Bắt Trẻ Đồng Xanh, nội dung 'mô
phỏng' cái
tít trên.
Đó là một bài viết của Võ Phiến, về cuộc vơ vét con nít Miền Nam
[đồng bằng
sông Cửu Long] cho vượt Trường Sơn ra Bắc học,
sau trở về tiếp tục cuộc Trường Kỳ Kháng Chiến Chống Mỹ cứu nước.
Còn một Bắt
Trẻ Đồng Xanh, nữa, là cuộc di tản trẻ con lai Mẽo, vào những ngày 30
Tháng Tư
1975. Vì lòng nhân đạo, tất nhiên, nhưng còn là do lo xa: Mấy anh Mẽo
sợ VC sau
này, dùng lũ trẻ bắt bí phải xùy tiền ransom ra mới cho chuộc!
Chán mớ đời!
Gấu
thực sự không đọc
Salinger, những ngày mới lớn. Cái cuốn tiểu thuyết làm tan nát tuổi trẻ
của Gấu
đúng là cuốn Kẻ Xa Lạ của Camus. Nhờ nó mà viết được cái truyện Những
Con Dã
Tràng, nhưng khi được ông anh khen, thì Gấu lại hoảng, bởi vì trong lời
khen của
ông, qua bà cụ của anh, thì hình như là một lời nhắn nhủ, theo cái kiểu
"Tôi không cầu chúc anh thuận buồm xuôi gió", của HNH!
Ông anh nói với bà cụ, nó sẽ
đi xa hơn DNM.
Đi xa hơn?
Muốn đi xa hơn, thì phải...
đọc.
Mà đọc sách Tây cơ!
Đọc, vớ được cuốn La Nausée
thế là đọc tới, đọc tưới cũng được, nghĩa là đọc bừa, từ nào không biết
thì bỏ,
để đó, tính sau!
Và cái câu văn trong Buồn Nôn
làm Gấu cầm viết được trở lại,
đọc trong lúc chờ BHD tại một quán cà phê Tầu, cà phê vợt, cà phê túi,
đó là
cái câu, nhớ đại khái, tôi tự hỏi tại sao lại sợ hãi một thế giới bình
thường
như vầy, tôi nghĩ là tôi đã khỏi bệnh.
Bệnh, là do cú đánh của
Camus.
Đúng ra, là do ăn mấy phát đạn của
Meursault mà không chết!
Nhưng chỉ đến khi đọc
Faulkner, mà phải đọc đúng cuốn Absalon,
Absalon!, thì Gấu biết ngay, đây là tác
phẩm, đây là ông Thầy mà thằng cu Gấu Bắc Kít cần!
Gấu nhận ra ngay, Colonel
Sutpen là bà con của Gấu!
Có thể nói, tất cả cái phần đầu
của Absalon, Absalon!, khi
anh chàng sinh viên Nam Bộ khăn gói quả mướp ra Hà
Nội học Đại học, và được một bà cô kêu lại gặp bà, để nghe bà kể chuyện
về Miền
Nam, những chuyện kể của Cô Tư thoát thai từ đó, dù Cô Tư chưa từng đọc
Sartre,
chẳng biết gì về hiện sinh, lại càng không biết gì về Faulkner!
Có thể
nói, chính cuốn
Absalon, Absalon! và tác giả của nó, mò đi kiếm Gấu, chứ không
phải ngược
lại!
*
January 29, 2010
Remembering Salinger: Joshua
Ferris
Last night in Philadelphia, my friends
and I were having dinner at
Radicchio, a restaurant on the border of Old
City and Northern Liberty, discussing the sudden news of
J.D. Salinger’s death. We
talked about “The Catcher in the Rye”
and wondered what book, if any, coming in its wake, had been as
galvanizing,
controversial, wildly popular, and accomplished. “Iconic” was the word.
“Catch-22”? “Portnoy’s Complaint”? Perhaps, maybe—but in the last
twenty or
thirty years? Any book of real literary chops that everyone had read
the way
everyone read “Catcher,” as everyone still reads “Catcher”? We agreed
there
probably wasn’t, and wondered further, Was that a failing of book
writers, or a
further sign of the faltering literary temple? The three of us being
book
writers, we preferred to blame anything but the book writers: the
withering
audience for serious novels, the dissipation of a centralized critical
apparatus, the era’s technological trammeling. The allure of sunny
days, for
that matter. Anything but the book writers.
Soon Michael Buscio, a waiter
at Radicchio, brought out our food, cautioned us that the plates were
hot, and
spotted “The Catcher in the Rye”
sitting on the table. Buscio is a tall man with a thin, angel-fish-type
face
who talks with the swaggering cadences of a Goodfella. “I see you got
‘The
Catcher in the Rye’
there,” he said. “That’s a good book.” He hadn’t heard about Salinger’s
death.
“He died today? Oh, too bad. That’s a good book.” He’d read it first in
high
school, and then a second time when, he said, “I got more of what it’s
about.
First time was for school, and I never liked to read what I had to
read.” The
book spoke to him, as it seems to do nearly unfailingly to everyone, in
a
personal way. But he wasn’t unaware of the ambiguity of interpretation.
“I
mean, it also turned people into assassins, you know?” he said, in
reference to
Mark David Chapman’s murder of John Lennon.
These days it’s hard to
imagine a novel cited as motivation for murder, but such was the power
of
Salinger’s book. What accounts for that power is tricky to parse, but
it
probably doesn’t have much to do with all the qualities that make
it—and “Nine
Stories,” and “Franny and Zooey”—so goddam good to a writer, like the
unspooling of one limpid and effortless word after another, and a lot
more to
do with the truth-to-power vibe, the calling-out of all the phonies and
so
forth, touching a nerve that first appears, with puberty, at
adolescence, and
whose dark magic is to remain raw and accessible forever, so that the
“message”
of the book, that loaded and loathsome term, is as gut-punching now as
it was
sixty years ago. It’s the genuine article of what the back of books
call, time
and time again, timeless.
Salinger’s narrator in “For
Esme—With Love and Squalor,” declares his intention to tell his
particular
story without worrying about any discomfort he might cause, because
“Nobody’s
trying to please, here. More, really, to edify, to instruct.”
Salinger’s genius
is how well he did both at once. “Storyteller, teacher, enchanter” is
how
Vladimir Nabokov taxonomies the major writer, placing special emphasis
on the
enchanter. Salinger was an enchanter of the first order, and of a
particularly
rare breed. He put enchantment at the service of instruction, and vice
versa,
palatably. He was the American enchanter of the disenchanted.
The conversation with
Buscio ended with a discussion of the Apple iPad. He was excited about
it:
finally something cool to hold that would store a lot of books. “For a
single
guy, I got a big library at home,” he said. ” ‘The Catcher in the Rye,’
‘Fahrenheit 451,’
Sun Tze’s ‘The Art of War.’ I’ve read them all. But now I can have them
all
right there, you know?” That
would be
a shame in its way, because our conversation was the result of a
paperback
sitting on a table. But I hope Buscio gets his iPad, and I hope the
first
download he buys is “The Catcher in the Rye.”
A guy could do a lot worse than reread Salinger, in whatever medium. He
was a
helluva writer.
The New Yorker
Như vậy
là tay này không nhắc
đến Kẻ Xa Lạ của Camus.
Nhưng câu hỏi ở đây, là:
Vào cái
tuổi “Nổi loạn không Duyên cớ” [Rebel without a Cause, xin để ý đến từ
Rebel ở
đây. NQT] đó, nếu bạn vớ phải Kẻ Xa Lạ, thì liệu bạn có thể đọc luôn cả
Catcher, cùng với nó, như tay này tưởng tượng ra, vào cái thời iPad?
Và đây
là một câu trả lời,
một cái còm, của độc giả The New Yorker:
This article was terrible.
You decided to end your remembrance of J.D. Salinger by hoping you
waiter gets
an I-pad? Look even working class guys who hated school like Salinger!
You sir
sound like a phony snob.
Posted 1/29/2010, 12:31:31pm
by Dylaangell12345678
Look
even working class guys who hated school like
Salinger!
Coi kìa, mấy anh thợ thuyền
thì cũng ghét trường học như Salinger!
(1)
(1)
This article was terrible.
You decided to end your remembrance of J.D. Salinger by hoping you
waiter gets
an I-pad? Look even working class guys who hated school like Salinger!
Theo K , cau nay thieu mot
dau phay : Look, even working class guys who hated school like
Salinger
(Coi do, ngay ca may dan tho thuyen ghet truong hoc thay mo ma
cung thich Salinger )
(ps. Salinger tuyet voi nhu
vay, co lam sao ma viet bai tuong niem ve ong ay lai chuc ten boi ban
mua duoc
cai i-pad, hu ??? )
Tks K.
Ui chao. Dịch nhảm quá! NQT
A guy could
do a
lot worse than reread Salinger, in whatever medium. He was a helluva
writer.
Một thằng chả có thể làm đủ
thứ chuyện xấu xa tệ hại, chứ cái việc đọc lại Salinger thì nhằm nhò
gì!
Như
vậy, đã đọc Camus, thì bye bye Salinger!
*
Câu trên cũng dịch sai!
Chán thiệt!
Lý do là đang lo đọc Camus, Orwell, thì gặp cái cú Salinger ra đi, dịch
đại,
chẳng hiểu cái từ helluva nghĩa là gì nữa. (1)
Cám ơn K, và xin lỗi độc giả
TV.
NQT
Gấu gặp đúng tình trạng tẩu
hoả nhập ma như vầy, lần dịch một bài về một ông Tây cho talawas. Lúc
đó, đang đọc
mê đọc mẩn Joseph Roth! (2)
*
A guy could do a lot worse
than reread Salinger, in whatever medium. He was a helluva writer.
(Anh ta) đáng ra đã có thể
làm nhiều chuyện tệ hơn là đọc lại Salinger chứ, dù là đọc trên phương
tiện nào
cũng vậy ( sách in, mạng ảo, i-pad ....) . Ông ấy (Salinger) thật là
một nhà
văn tuyệt vời .
K
Câu ni chẳng ăn nhằm chi đến
so sánh các nhà văn, anh Gấu đưa Camus vào làm chi vậy . Thiệt là tẩu
hỏa nhập
ma quá chừng rồi .
helluva : ( hell of a )
(1) Hell
of a (viết tắt, văn nói helluva) có nghĩa là tuyệt, nói theo tiếng Huế
"dễ
sợ" , nói theo tiếng Bắc "kinh" , "khủng" . Helluva
writer : Nhà văn viết hay dễ sợ, hay khủng, hay kinh hồn!
Tks. NQT
(2)
Bu
Đa, Bu Đa
Viết về ông Phật mũi lõ này, là phải cho độc giả thấy cả hai nguồn
thông tin.
Cứ lo thổi ống đu đủ không thôi, là tự sỉ nhục mình và coi thường độc
giả.
Chứng cớ: Xin xem Blog Tin Văn
*
Gấu có một kỷ niệm khá thương đau, về ông Phật VC mũi lõ, lần talawas
nhờ dịch
một bài, nhân khi Phật qua đời.
Gấu lúc đó đang mê mẩn đọc
Joseph Roth, bèn ngó sơ, thấy cũng ngon cơm, bèn OK, bèn dịch như
máy, bèn
gửi. Kết quả, bản dịch đầy lỗi, khiến talawas phải xin lỗi độc giả, và
đưa một
bản dịch khác thay thế!
*
Jean-Claude Pomonti
Georges Boudarel: «Tôi
chỉ là
một thằng ngu»
Nguyễn Quốc Trụ dịch
Nguồn
Bắt trẻ đồng xanh
Quán Như
Bắt Trẻ
Đồng Xanh và Câu
Chuyện Của Dòng Sông được Phùng Khánh và Phùng Thăng dịch và do nhà
xuất bản Lá
Bối phát hành khoảng năm 1964-65. Hai tác phẩm này một sớm một chiều
được thanh
niên sinh viên thời bấy giờ chào đón nồng nhiệt và, cùng với một số tác
phẩm
của Nhất Hạnh, đã tạo ra một không khí hứng khởi cho phòng trào về
nguồn, trở
lại nghiên cứu các giá trị tinh thần của dân tộc Việt Nam, nhất là Phật
Giáo.
Nguyên tác của Bắt Trẻ Đồng
Xanh là quyển
The Catcher in the Rye của J.D. Salinger đã được xuất bản lần đầu từ
năm 1951,
nghĩa là hơn một thập niên trước khi bản việt dịch xuất hiện. Tác phẩm
được các
nhà phê bình văn học trên New York Times, San Francisco Chronicle,
Philadelphia
Enquirer và Times khen ngợi như là một tác phẩm nổi bật nhất trong năm
và nhân
vật Holden Caulfield dần dần trở thành thần tượng của thanh niên Mỹ
trong nhiều
thế hệ. Vì Holden Caulfield chửi thề luôn miệng và có khuynh hướng
chống đối
lại các giá trị cổ truyền như Ki-Tô giáo, tờ báo The Christian Science
Monitor
và The Catholic World chỉ trích Salinger
cố tình cổ động cho một lối sống “thiếu đạo đức”. Tuy nhiên những lời
chống đối
yếu ớt, dựa trên tiêu chuẩn luân lý sắp sửa bị thanh niên Mỹ ruồng bỏ,
không
làm giảm mức độ hấp dẫn và chinh phục độc giả của The Catcher in the
Rye trong
một thời đại mà bị hấp lực của phong trào hướng về Đông Phương “Go East
Young
Men” vào các năm cuối thập niên 50. Trong vòng 3 tháng, The Catcher đã
trở
thành một tác phẩm bán chạy nhất trong danh sách của tờ Times và tiếp
tục qua
mặt của các tác giả cổ điển tài danh khác như James Jones, tác giả From
Here to
Eternity. The Catcher đồng thời được xuất bản ở Anh và cũng được các
nhà phê
bình Anh khen ngợi, mặc dù trước đó nhà xuất bản lo ngại độc giả Anh có
thể có
phản ứng tiêu cực vì lối văn “nói” và phương ngữ của Mỹ. Ba năm sau khi
bản
dịch tiếng Việt của Phùng Khánh ra đời (1965), tức là vào năm 1968, the
Catcher
in the Rye được xem như là một trong năm tác phẩm bán chạy nhất trong
lịch sử
văn chương Mỹ kể từ năm 1895. Hiện nay mỗi năm vẫn còn 250 ngàn độc giả
bỏ tiền
ra mua các ấn bản mới. The Catcher hiện nay được đưa vào danh sách các
tác phẩm
giáo khoa dành cho học sinh trung học nghiên cứu. Năm ngoái khi đứa con
trai
của tôi mới học lớp 9 được cô giáo bảo đọc và phê bình The Catcher, tôi
có hơi
ghen tỵ với nó một chút. Cũng như các thanh niên thời đó, tôi chỉ được
đọc The
Catcher sau khi đã học xong đại học, qua bản dịch của Phùng Khánh. Tôi
cho đứa
con mượn toàn bộ tác phẩm của Salinger, cùng với các tác phẩm phê bình
và hồi
ký của đứa con gái Salinger, bà Margaret. Tôi thú nhận là hể có ấn bản
mới của
The Catcher phát hành là tôi mua để trên kệ sách và hiện có ít nhất là
bốn ấn
bản The Catcher khác nhau. Đứa con tôi hạ một câu “You are crazy, Dad!”
Nó
không hiểu được mức say mê của thế hệ trẻ chúng tôi bấy giờ đối với
Holden và
Phoebe, và riêng tôi, tôi cám ơn Phùng Khánh rất nhiều.
Nhân vật chính, Holden Caulfield,
lấy từ
tên của một cô đào chiếu bóng sau thế chiến thứ hai, Joan Caulfiel, mà
Salinger
xem như là người “trong mộng”. Holden
Caulfield, mới 16 tuổi, cũng như các thanh thiếu niên khác, đang trải
qua cơn
khủng hoảng tâm linh. Anh vừa biết tin bị đuổi khỏi trường vì thi rớt
tất cả
mọi môn, trừ môn Anh ngữ. Ông Hiệu Trưởng sẽ gởi thư báo tin cho cha mẹ
anh vào
ngày thứ Tư, ngày cuối niên khóa. Tuy nhiên Holden quyết định rời
trường vào chiều
thứ Bảy và lấy xe lửa về New
York.
Anh không thể về nhà ngay được vì sợ cha mẹ khám phá anh lại bị đuổi.
Holden
cảm thấy bất an, khủng hoảng và cô đơn giữa đám người mà anh gọi là
những phony
bastards, giả dối, kệch cỡm, lố bịch, đạo đức giả. Lang thang giữa
thành phố New York, anh chợt nhớ đến
mấy con vịt trong hồ Central Park vào
mùa Ðông. Anh tìm cách gợi chuyện với
nhiều người lạ, với người tài xế tắc-xi, lục sổ điện thoại để rủ một
người mà
anh mới biết đi uống rượu. Vào quán rượu với một cô bạn gáí, gây gỗ
nặng lời và
say lướt khướt. Tựa The Catcher in the Rye
lấy từ một câu trong bài hát của Robert Burns “Nếu một người nào bắt
được một
người nào chạy ra từng cánh đồng lúa”.
Tôi tưởng tượng có nhiều đứa
trẻ đang chơi
một trò chơi nào đó trên một cánh đồng
lúa lớn. Hàng ngàn em, hàng ngàn em đều nhỏ như nhau, không có một
người lớn
nào ở gần đó - trừ tôi. Công việc duy nhất của tôi là chờ sẵn ở đó và
hễ khi có
một em nào vô ý sẩy chân và sắp sửa rơi xuống từ vách đá, tôi đứng sẵn
ở đó và
dơ tay đón bắt từng em. Cả ngày tôi chỉ làm chừng nấy công việc. Tôi
chỉ làm
công việc bắt trẻ đồng xanh. Tôi biết đó là một điều điên rồ, nhưng đó
là công
việc duy nhất mà tôi thích làm!
Bảo vệ các em khỏi ngã xuống
vách đá có
nghĩa là bảo vệ sự ngây thơ thuần khiết để các em, để khi “lớn lên” các
em đừng
biến thành phonies như biết bao người mà Holden đã gặp. Holden rất cô
đơn mặc
dù sống ngay giữa thành phố không bao giờ ngủ, New York. Holden
không có người nào khả dĩ gọi là bạn thân
trên đời. Khi cô em gái
Phoebe thách thức Holden, yêu cầu anh cho biết tên một người mà anh
thích nhất.
Holden ấp a ấp úng, cuối cùng nhắc tới một người em trai đã qua đời.
Khi Phoebe
hỏi lớn lên anh thích làm nghề gì, Holden nhắc tới công việc điên rồ là
bắt trẻ
đồng xanh. ****
Cũng như thế hệ hippies vào
các năm 60,
Holden không phải là người lạnh nhạt, quay mặt lại với đời sống. Trái
lại anh
yêu vô cùng đời sống, trang trọng và nhạy cảm đối với người khác, yêu
tuổi thơ
và muốn sống vô tư, tự nhiên và trung thực. Anh chống đối các hình thức
trói
buộc về luân lý và xã hội do chính những phonies đặt ra. Cả một thế hệ
yêu
cuồng sống vội, váy ngắn tóc dài không phải là một thế hệ thiếu lý
tưởng hay
thấy đời sống vô nghĩa, đó chỉ là một thái độ phản kháng quyết liệt lại
những
phonies mà họ kinh tỡm. Chính ra thế hệ hippies là những người vô cùng
nhạy
cảm, nhất là đối với những khổ đau của người khác. Họ bắt đầu thấy thấp
thoáng
anh sáng Châu Á và kỳ lạ thay, họ sống như những Phật Tử, bởi không ai
có thể
tự gọi mình là Phật Từ nếu không nhạy cảm với những khổ đau của người
khác. Nếu
không nhạy cảm với người khác, làm sao các thanh niên Mỹ vào thập niên
60 và 70
dám hy sinh chuyện học hành, sự nghiệp, cả đến mạng sống, xuống đường
biểu tình
chống chiến tranh, đem hoa cài trên đầu họng súng, thách thức các toán
Vệ Binh
Quốc Gia “Make Love, Not War”.
Có tới ba lần trong The
Catcher, Holden tỏ
ý ‘lo lắng’ cho mấy con vịt trong hồ ở công viên Central
New York. Lần thứ nhất trong khi ông giáo dạy Sử, già lụ
khụ giảng
luân lý, Holden lơ đãng và trong lòng băn khoăn không biết khi mặt hồ
bị đóng
băng, mấy con vịt đi về đâu. Không biết có ai đem xe chở mấy con vịt về
một chỗ
trú ẩn nào khác hay chúng phải tự bay đi như các loài di điểu khác! Hai
lần sau
Holden nhắc mấy con vịt với hai người tài xế tắc xi. Người tài xế thứ
nhất nghi
ngờ cậu bé tâm thần bất thường, xẳng giọng: “Cậu nói nhăng nói cuội gì
vậy? Bộ
giỡn hả?” Người tài xế thứ hai tử tế hơn, tuy nhiên lúng túng vì câu
hỏi ngớ
ngẩn: “Ai? Đi đâu? Ai để ý làm gì mấy chuyện lẩm cẩm như vậy!” Tuy
nhiên người
tài xế này sau đó bàn luận với Holden về một chuyện ngớ ngẩn khác: mấy
con cá
trong hồ làm gì trong mấy tháng mùa Ðông. “Chúng không đi đâu cả, chúng
bị đông
cứng và ở yên một chỗ cho đến hết mùa Ðông!” Câu đối thoại của hai
người điên?
Trên đời này mấy người có thì giờ quan tâm tới số phận của mấy con vịt
và mấy
con cá trong hồ vào mấy tháng mùa Ðông như Holden!
Lúc còn trẻ luôn hăm hở xông
vào con đường
công danh sự nghiệp, hay mơ tưởng mấy người đẹp da trắng tóc dài, tôi
cũng có
kết luận tương tự khi đọc các bài thơ Đường, như bài Xuân Hiểu của Mạnh
Hạo
Nhiên:
Dạ lai
phong vũ thanh
Hoa lạc
tri đa thiểu
Đêm qua
mưa gió tơi bời
Biết
rằng hoa cũng có rơi ít
nhiều.
(Trần
Trọng Kim dịch)
Mấy ông thi sĩ đời Đường
không có chuyện
gì làm sao lại lo cho mấy chùm hoa rụng đêm qua?
Ai cũng biết các đệ tử
của Phật lúc đi
khất thực phải cúi nhìn xuống đất để tránh dẫm lên các côn trùng. Trong
mùa mưa
họ phải ở lại tịnh thất vừa để tu tập, vừa tránh đi ra ngoài đường mấy
tháng
mưa, mùa côn trùng bò lên sống ngổn ngang trên mặt đất. Nếu ai nghĩ Đức
Phật lo
lắng thái quá cho các loài côn trùng sâu bọ, sẽ còn bị “sốc” hơn nữa
khi Đức
Phật dạy các đệ tử trước khi uống một ly nước lạnh, phải niệm chú vãng
sinh cho
64 ngàn vi sinh vật sống trong đó. Holden và người tài xế tắc-xi chỉ lo
lắng
cho mấy con vịt và con cá xem ra còn đở “lẩm cẩm” hơn Đức Phật! Chừng
nào chưa
hiểu đức “hiếu sinh’ của tư tưởng Đông Phương, hay vẫn còn đem tâm để
hình hài
sai khiến, nhiều người vẫn còn xem mấy chuyện này là mấy chuyện lẩm cẩm!
Holden dĩ nhiên không những
nhạy cảm với
mấy con vịt, anh cực kỳ nhạy cảm với những người chung quanh, dù biết
họ là
những phonies. Anh lúc nào cũng rộng rãi với bạn bè, sẵn sàng cho họ
mượn những
vật dụng riêng tư của mình, kể cả Stradlater, người bạn cùng phòng mà
anh đã
đánh lộn. Sở dĩ anh đánh nhau với tên này chỉ vì anh nghi ngờ y dở trò
chim
chuột sở khanh với một cô láng giềng cũ. Và cô ngày chỉ là một cô láng
giềng,
chớ không phải bồ bịch gì của anh.
Khi gặp hai bà sơ ở gần nhà
ga, anh đề
nghị tặng hai bà sơ 10 đồng (hơn nửa số tiền mà anh có trong túi) mặc
dù hai bà
sơ chỉ đi nhận nhiệm sở dạy học, chớ không có đi quyên tiền. Sau đó
Holden cứ
ân hận mãi về chuyện anh hổn láo phà khói thuốc vào mặt hai bà sơ.
Đêm Chủ Nhật, sau khi lẻn về
thăm Phoebe,
Holden gọi điện thoại cho một thầy cũ để xin ngủ nhờ một đêm. Ông là
người duy
nhất trong cuốn truyện mà Holden thích và kính trọng. Holden trước đó
chứng
kiến cảnh ông thầy săn sóc một học sinh bị một nhóm học sinh du đảng
khác uy
hiếp, đến nổi phải nhảy xuống lầu. Chính ông này đã tự cởi áo đắp lên
người nạn
nhân và mang em đến bịnh xá cấp cứu, trong khi các người khác cố tình
lảng
tránh. Nửa đêm khi Holden giật mình tỉnh dậy, anh cảm thấy bàn tay của
ông thầy
mà anh kính mến đang mân mê trán mình. Có thể ông thấy là một thứ
bi-sexual
pervert thứ thiệt, nhưng Holden cứ băn khoăn sợ mình có hiểu lầm thái
độ của
thầy không.
Trong The Catcher, anh đã
châm biếm, chế
diễu, chửi thề những phonies này. Thế nhưng Holden không hề ghét bỏ mà
chỉ
thương hại họ. Đến cuối quyển sách, Holden hối tiếc việc anh đã kể một
câu
chuyện dính líu tới nhiều người. Anh còn cảm thấy “nhớ” tất cả mọi
người mà anh
nhắc tới trong chuyện, kể cả tên ma cô Maurice.
Một nhà văn khác cũng nhắc
đến sự thanh
khiết của trẻ em là Saint-Exupéry trong The Little Prince. Tuy nhiên
Hoàng Tử
Bé của Saint-Exupéry đến từ một tinh cầu khác. Sự tương phản giữa hồn
nhiên và
“ người lớn” của Saint-Exupéry có tánh cách triết lý hơn. Đó là sự khác
nhau
giữa những gì cao cả và tầm thường của đời sống. “Người lớn” bị đời
sống điều
kiện hóa, không còn có cái nhìn trong sáng như trẻ con, mà chỉ thấy
toàn những
con số. Khi trẻ con mô tả một căn nhà gạch hồng, với giàn hoa phong lữ
đỏ thẫm
trên khung cửa sổ, có các con bồ câu đang gật gù trên mái nhà, người
lớn chỉ
quan tâm xem căn nhà đó trị giá bao nhiêu tiền. “Người lớn” là một
người chưa
bao giờ ngữi thấy mùi hoa bưởi hoa cau, chưa hề “thấy” trăng sao, chưa
bao giờ
nhìn rõ khuôn mặt người thân. “Người lớn” là những người mù vì không
bao giờ
chịu nhìn người khác và sự vật bằng tâm hồn của mình. Saint-Exupéry
cũng cho
Hoàng Tử Bé về quê nhà ở một tinh cầu xa bằng ẩn dụ con rắn trong vườn
địa
đàng, khi con người đánh mất hồn nhiên.
Salinger, hay Holden, trái
lại đang sống
trong cõi ta bà, giữa thành phố New York, một thành phố tự hào là
không bao giờ biết ngủ.
Nhưng Holden cũng cô đơn không kém gì Saint-Exupéry trong sa mạc Sahara, nếu không muốn nói là còn cô đơn hơn.
Holden hầu
như không kết thân được với ai, kẻ cả cha mẹ và ngưói anh cả. Trong đời
này nếu
còn có người nào mà anh còn có thể thân cận được, đó là cô em Phoebe và
có lẽ
một người nữa, Allie, đứa em trai đã mất. Hai người đó là hy vọng cuối
cùng của
Holden ở cõi ta bà này.
Phoebe
là người duy nhất dám thách đố Holden
và Holden phải chịu khó trả lời. Khi bị Phoebe căn vặn yêu cầu Holden
cho cô
biết tên một người hay một việc nào anh thích, Holden không nghĩ ra
được một
người nào. Cuối cùng anh phải chống chế, nhắc đến Allie, và Phoebe. Khi
có ý
định muốn bỏ đi một nơi thật xa, Phoebe là người duy nhất mà Holden
muốn đến từ
giã trước khi lên đường đi tìm giấc mộng. Và Phoebe cũng là người duy
nhất làm
anh khóc sướt mướt khi cô bé đưa cho anh “mượn’ tất cả tiền mà cô được
cha mẹ
cho trong dịp lễ giáng sinh. Có lẽ cô bé đếm tiền từng xu, từng ngày.
Cô nói:
“Đây, tám đồng tám mươi lăm xu”. Nhưng Phoebe đính chánh ngay: “Tám
đồng sáu
mưới lăm xu! Em có tiêu một ít rồi!”
Thình lình tôi bật khóc làm
nhỏ Phoebe sợ
quá. Nhỏ Phoebe choàng tay và dỗ dành cho tôi nín, nhưng một khi bắt
đầu khóc,
không ai có thể ngừng được. Phoebe choàng tay ôm tôi và tôi cũng choàng
tay ôm
cô bé và một lúc lâu sau tôi mới nín khóc được.
Người thứ hai Holden có thể
“nói chuyện”
được là Allie, đứa em đã qua đời. Sau khi ngủ một đêm ở nhà ga, Holden
đi dọc
theo đại lộ Thứ Năm, để đến bảo tàng viện chờ em. Holden có thể đã bị
trãi qua
quá nhiều biến cố trong hai ngày, tinh thần của anh như một dây đàn
căng thẳng
quá độ. Khi băng qua đường anh có một ảo giác là anh sẽ không bao gìờ
đến được
lề bên kia. Anh có cảm tưởng anh càng ngày càng lún dần, lún dần và
cuối cùng
biến mất không còn ai thấy anh nữa. Gate, gate, para samgate. Và anh đã
làm một
chuyện mà từ trước tới giờ anh chưa hề làm. Khi gần tới bờ bên kia, anh
“khẩn
cầu” Allie: “Allie đừng để anh biến mất. Allie đừng để anh biến mất”.
Và khi
đến bờ bên kia, Holden nói: “Cám ơn em, Allie”. Bodhi-sattva. Khi qua
được bờ
bên kia, Holden ngồi xuống một băng đá và quyết định sẽ không về nhà
nữa, sẽ bỏ
đi một nơi thật xa, một nơi không có ai biết anh. Anh sẽ giả làm một
người vừa
câm vừa điếc và như thế anh sẽ không cần phải nói chuyện với bất cứ một
người
nào khác. Anh sẽ dành dụm tiền để xây một căn nhà gỗ ven rừng, và nếu
có muốn
lập gia đình, anh sẽ lấy một người đàn bà đẹp, cũng vừa câm vừa điếc
khác. Và
trong lúc đó chỉ có một người duy nhất trên đời mà anh muốn đến từ biệt
là
Phoebe.
Đoạn cuối tả cô bé Phoebe
xách va-li cũ
cồng kềnh để đi theo anh về miền rừng núi Colorado là một đoạn văn
tuyệt đẹp,
theo tôi, còn xúc động hơn đoạn văn tả cảnh biệt ly giữa Saint-Exupéry
và Hoàng
Tử Bé. Phoebe giận anh vì lần đầu tiên bị Holden mắng “câm miệng lại”.
Phoebe
đi bên kia đường trong khi Holden đi bên này đường, hướng về phía sở
thú. Nhưng
hai người luôn trông chừng nhau vì sợ lạc. Khi
đến chổ có trò chơi cỡi mấy con ngựa gỗ, Phoebe
hết giận anh và lên
cưỡi ngựa. Trời bỗng đổ mưa như trút nước. Holden ngồi trên băng đá
“Người tôi
ướt đầm đìa. Nhưng tôi bất cần. Thình lình tôi cảm thấy vô cùng hạnh
phúc. Như trong lời hát của một bản
nhạc phản
chiến vào các năm 60 “It’s Happening Now”. Giả sử như một người chợt
ngộ, họ có
cảm giác như thế nào? Tôi nhớ trận mưa rừng Nhất Hạnh đã tả trong Nẻo
Về Của Ý.
Phùng Khánh dịch tác phẩm
Câu Chuyện Của
Dòng Sông của Herman Hess là điều dễ hiểu. Nhưng Bắt Trẻ Đồng Xanh?
Trong câu
chuyện, Holden cũng như các thanh thiếu niên mới lớn khác văng tục
“không ngừng
da non”, nghịch ngợm phá phách đủ mọi cách, đánh nhau. Trong hai ngày ở
New York,
Holden giả
“người lớn” vào quán rượu, say sưa, kêu một cô gái giang hồ lên phòng
vân vân…
Tôi tưởng tượng nỗi bối rối của Phùng Khánh khi phải tìm một chữ để
dịch các
tiếng chửi thề “goddamn” “Phony bastards” “my ass”…Tôi không nghĩ Phùng
Khánh
chỉ muốn dịch một tác phẩm ăn khách. Bắt Trẻ Đồng Xanh không phải chỉ
phản ảnh
sự khủng hoảng của một thanh niên mới lớn như Holden nhưng còn phản ảnh
tâm
trạng bất an của thanh thiếu niên Mỹ (và Âu Châu) lúc bấy giờ. Họ dần
dần đánh
mất niềm tin vào những giá trị cố hữu. Giữa thập niên 50 nhờ các công
trình của
D.T. Suzuki, nhất là bộ Thiền Luận và các hoạt động của American Zen
Centre,
Phật giáo đã bắt đầu ảnh hưởng khá nhiều đến thành phần thanh niên, trí
thức,
khao khát đi tìm ánh sáng Phương Đông. Tác phẩm On the Road của Jack
Kerouac
phản ảnh phong trào thanh niên lên đường thời đó: một ba-lô trên vai,
một ít
tiền, đưa ngón tay cái chỉ lên trời xin quá giang đi khắp nước Mỹ, đi
qua biên
cương nước Mỹ, tới Ấn Độ, Tây Tạng, Sri Lanka, Nepal, Nhật và Đại Hàn
để “tầm
đạo và học đạo.” (Nhà văn Lưu Nhơn Nghĩa có nhắc đến một nhà sư người
Đức đến
Việt Nam)
Đó là các thế hệ mà chúng ta quen gọi là Hippies, “Đông Du Ký”, sống
hình như
không có ngày mai. Đó là những “tân tăng” phản đối những qui thức xã
hội Tây
Phương, chống đối chú trọng quá nhiều tư hữu, kể cả tư hữu tình ái. Họ
sống
trong lục hoà Make Love, Not War. Trong số những “tân tăng” này, có
người thọ
giới, rồi cởi áo, lập gia đình, lập thiền viện, sáng tác, nghiên cứu và
sau 20
năm, họ đã trở thành những nhà văn lớn, nhà thơ nổi tiếng, xuất bản
những công
trình nghiên cứu qui mô về đạo Phật. Họ thuộc về thế hệ thường được gọi
là Beat
Generation. Họ đã trở thành những sa- môn hộ pháp đắc lực trong việc
truyền bá
Đạo Phật trên đất Mỹ và Tây Phương. The Catcher
in the Rye không những phản ảnh cái tâm bất
an của thanh niên
mới lớn như Holden nhưng cũng phản ảnh cho mối bất an chung của một thế
hệ bắt
đầu nghi ngờ và thẩm định lại một số các giá trị Tây Phương, nhất là
các tôn
giáo tổ chức cổ truyền, như Ki-Tô và Do Thái giáo. Không ai lấy làm lạ
khi thấy
thanh niên Mỹ mê Holden, mê Salinger, mê Kerouac và mê … James Dean. Đó
là thời
mà Tổ Đạt-Ma xuất hiện trong các bồ tát hoá thân, đã hỏi thanh niên Mỹ:
“Các
cậu đưa tâm ra đây để tao an cho.”
Salinger là một nhà văn có
cuộc đời bí
hiểm và khó hiểu nhất, so với những nhà văn Mỹ khác. Sau The Catcher
ông viết
thêm một tuyển tập truyện ngắn và một chuyện dài khác, Seymour, An
Introduction
và khi danh vọng đang lên như diều và tác phẩm bán chạy nhất trong lịch
sử văn
chương Mỹ, ông đã không xuất bản thêm một tác phẩm nào khác, hoàn toàn
cắt đứt
liên lạc với thế giới bên ngoài. Có lẽ ông theo gương Tổ Đạt-Ma, ngồi
diện bích
từ hơn 40 năm nay trong một trang trại ở Cornish, Colorado.
Con gái của Salinger, bà
Margaret, trong
Dream Catcher, gần đây đã hé lộ một vài quan niệm về sáng tác và đời
sống cuả
ông. Đối với ông, “viết văn là một cuộc hành trình đi tìm giác ngộ?” và
ông
muốn dành cả cuộc đời để thực hiện một tác phẩm lớn, và tác phẩm này
không gì
khác hơn là chính cuộc đời của ông. Như Rilke hay Holderlin, viết văn
và làm
thơ là một cách sống, một cách ở đời, không phải là một trò nhai văn
nhá chữ,
kể lể nhảm nhí. Và nói theo thuật ngữ của Phật Giáo, đó là một “pháp
môn”.
Margaret cũng tiết lộ là Salinger có lần dự định “xuất gia” thành một
tỳ-kheo,
đã từng làm bạn với D.T. Suzuki, từng ngồi thiền nhiều lần có lẽ dưới
sự hướng
dẫn của Suzuki tại thiền thất Thousand Islands. Tuy nhiên, Margaret kể,
Salinger bổng nhiên đổi cách tu tập, theo một pháp môn Ấn giáo Vedanta,
dưới sự
hướng dẫn của tu sĩ Bà-La-Môn, Swami Nikhilananda. Trong khi Phật giáo
khuyến
khích sa-môn nên dành cả cuộc đời tu tập bằng cách “cát ái từ thân”,
tuy nhiên
không có thái độ quyết liệt về tình dục như giáo lý Vedanta. Đạo Phật
cũng kính
trọng phụ nữ (Ma Đằng Gia Nữ sau này cũng thành một đệ tử của Phật và
là sư đệ
của A Nan!), trong khi phái Vedanta xem “vàng và phụ nữ” là những trở
ngại lớn
lao cho việc giác ngộ. Có lẽ vì thế các nhân vật của Salinger ít “phóng
túng” hơn
các nghệ sĩ trong Thiền Beat sau này.
Salinger từ nhỏ nghĩ
mình gốc Do Thái,
nhưng sau đó khám phá bên mẹ thuộc di dân Ái Nhỉ Lan Thiên Chúa giáo.
Sau thế
chiến thứ hai, di dân Do Thái và Ái Nhỉ Lan ở Mỹ vẫn còn bị kỳ thị nặng
nề.
Trong một vài khu thương mại ở Brooklyn New York, trên cửa sổ của các
cửa hiệu
vẫn còn trưng bày những thông báo “cấm dân Do Thái và Thiên Chúa” không
được
vào. Trong The Catcher, Holden nhiều lần lo lắng bị người khám phá anh
không
phải là người Thiên Chúa giáo. Khi anh gặp hai bà sơ, anh lo sợ hai bà
sẽ hỏi
về tôn giáo của anh. Ảnh hưởng của ánh sáng Ðông Phương, nhất là Phật
giáo,
trong các năm đầu thập niên 50 (Bắt Trẻ Đồng Xanh phát hành lần đầu năm
1951)
mở cửa cho một thời kỳ mà nhiều học giả gọi là thời chuyển pháp luân
lần thứ
Tư, phần lớn ở Tây Phương, nhờ những nhà văn hippies này. Đây là thời
kỳ Phật
giáo không còn được xem như những công trình nghiên cứu kinh viện của
các học
giả già lụ khụ. Phật giáo hiển hiện như một đoá hoa nhiều mầu sắc rực
rỡ, đầy
thách thức và có sức hấp dẫn mời gọi. Các hộ pháp thường không phải là
các nhà
sư nghiêm trang trong chiếc áo tràng, mà là các văn nghệ sĩ On the
Road. Các
học giả Beat sau này đã trở thành những giáo thọ hay học giả Phật giáo
nổi
tiếng, như Robert Aiken và Philip Kapleau. Nhưng nhóm văn nghệ sĩ chịu
ảnh
hưởng của Thiền trong sáng tác đã định tính cho mối liên hệ giữa văn
nghệ và
Phật giáo. Các văn nghệ sĩ Beat đã mở cửa cho một nhân sinh quan mới,
một lối
sống ngông cuồng kiểu Hippies, nổi loạn và phá vỡ những khuôn khổ ước
lệ “đạo
đức giả” cùng một lối sáng tác cực kỳ phóng túng. Ba người khai sáng
phong trào
Beat sau này đã trở thành những nhà văn, nhà thơ nổi tiếng cũng như là
những vị
chuyển luân pháp vương thời đại của nước Mỹ. Jack Kerouac, sau On The
Road, biểu
trưng “cho thế hệ thanh niên Mỹ vào thập niên 50 sống loạn cuồng trong
âm nhạc
và tình dục, thách đố các khuôn mẫu cũ kỷ”. Thế hệ Hippies chủ trương
“Make
Love, Not War” sau này cũng là thành phần chủ lực của phòng trào sinh
viên phản
chiến Mỹ. Đây là những Dharma Bums, tạm dịch là những Phật Tử hippies,
cà
nhõng, lờ quờ (chữ của sinh viên trong phong trào tranh đấu 63-66 hay
dùng để
đùa với nhau). Gary Snyder chủ trương vừa thực tập thiền quán vừa làm
tình tập
thể, sau đó cặm cụi ngồi dịch thơ Hàn San, ông sư đã khắc các bài thơ
trên vách
núi để vượn và khỉ đọc! Cô Tô thành ngoại Hàn Sơn Tự. Dạ bán chung
thanh đáo
khách thuyền. Khi đến tuổi tri thiên mệnh, Snyder tổ chức một thiền
thất, vẫn
tiếp tục dịch thơ Hàn San và được trao giải Pulitzer về thơ năm 1974.
Thi sĩ
Ellen Ginsberg được xem như một Walt Witman. So với các tác phẫm của
Beat, Bắt
Trẻ Đồng Xanh còn quá hiền lành. Khi làm việc ở Vạn Hạnh, tôi thấy có
một quảng
cáo Thiền Beat, Thiền Square trên tập san Tư Tưởng. Tuy nhiên quảng cáo
này
biến mất ngay số sau đó và không bao giờ xuất hiện cả. Các tăng già
Việt Nam ở
thập niên 60, tuy “cấp tiến” về mặt hành động, nhưng cũng giống như các
thiền
sư dòng Thiền Square chính thống, tâm tư chưa
đủ chín mùi để chấp nhận các bồ tát hippies.
Ngay cả một học giả
“lão thành” của Thiền
Square,
Alan Watts, chỉ trích các văn nghệ sĩ Beat là quá phóng túng. So với
các phẩm
“mặn” như Dharma Bums, The Catcher “chay’ hơn nhiều. Holden Caulfield
tuy chửi
thề luôn miệng, tuy lòng có bất an, nhưng lúc nào cũng thương cảm người
khác,
luôn cố gắng bảo vệ chân tâm hồn nhiên trong trắng. Đến nay vẫn còn
nhiều thiền
sư Square, chưa chấp nhận Holden, tảng lờ như không biết đến dịch phẩm
Bắt Trẻ
Đồng Xanh trong sự nghiệp của Phùng Khánh. Dám bỏ công dịch tác phẩm
này, Phùng
Khánh ngày xưa (1965?) cũng đã “gồng” mình lắm rồi.
Tình trạng tinh thần của thế
hệ thanh niên
Việt Nam vào thập niên 60, theo tôi, cũng tương tự như tâm trạng các
thanh niên
Mỹ mười năm trước đó. Sau khi chánh phủ Diệm bị lật đổ, phong trào đọc
Thiền,
nghiên cứu triết lý Thiền, thực tập Thiền, làm thơ Thiền được phát động
rầm rộ.
Phật Tử, nhất là những người thuộc phong trào sinh viên, văn nghệ sĩ và
trí
thức, rủ bỏ được một gánh nặng ngàn cân của các hình ảnh ảnh tiêu cực
về Phật
giáo, những nghi lễ nặng nề, những cách tu tập mê tín. Tình trạng này
một phần
do ý đồ của các thế lực thân thực dân, một phần do chính những người
hoằng pháp
không dám “đổi mới” để đủ khế cơ thu phục lòng tin của thế hệ thanh
niên lúc
bấy giờ. Thoát nhiên những tác phẩm với cái nhìn “đợt sóng mới” hợp với
tâm
thức những người trẻ, khiến đạo Phật xuất hiện như cành hoa thược dược
“mỉm nụ
nhiệm mầu”. Nụ nhiệm mầu đã hiện diện từ khi Ca Diếp “niêm hoa vi tiếu”
nhưng
chưa đủ khế thời để nở rộ trong đám thanh niên tân học. Các văn nghệ sĩ
Phật Tử
tụ họp trên các tờ Hải Triều Âm, Giữ Thơm Quê Mẹ, các nhà nghiên cứu
trẻ trên
tờ Tư Tưởng Vạn Hạnh, đó là chưa kể đến những nhà thơ đánh võ “vô
chiêu” như
Bùi Giáng, nói pháp mà không hề dùng pháp ngữ và pháp thoại của đạo
Phật. Hay
những bài thơ “hữu chiêu” của Phạm Thiên Thư nồng nàn không thua gì các
bài thơ
của Tô Man Sự. Trụ Vũ đã nhận xét “Hòn sỏi nào cũng thuyết Pháp Hoa
Kinh”, hay
như Phạm Duy “một cành củi to, một tờ lá uá, một hạt bụi mờ” cũng là
Pháp. Đó
là Beat Generation của Việt Nam,
tuy không có loạn cuồng như các người đồng thời ở Tây Phương.
Chị Phùng Khánh ơi, tôi không muốn
kêu chị
là Sư Bà, là Ni Trưởng, chỉ muốn kêu chị bằng chị Phùng Khánh. Tôi nhỏ
hơn chị
vài tuồi và là bạn của Phùng Thăng. Tôi rất vừa ý với lời phân ưu trên
Chuyển
Luân do anh Hoàng Nguyên Nhuận thảo ra. Anh Nhuận bày tỏ sự thương tiếc
một
người chị của thế hệ 63. Những danh xưng Sư Bà, Ni Trưởng, Hòa Thượng,
Pháp Sư
hay Thượng Thủ nặng nề quá, chị mang theo làm chi cho mệt. Hơn nữa một
Bồ Tát
hoá thân như chị không nên lẫn lộn với một số Hoà Thượng, Hội Chủ,
Thượng Thủ
hay Pháp Sư phonies làm gì. Để chỉ thảnh thơi, nhẹ nhàng bắt trẻ đồng
xanh với
cái tâm không phân biệt. Trong đời hành đạo, tôi nghĩ chị cũng có lúc
gặp nhiều
phony bastards như Holden đã gặp. Nhưng ai chị cũng bắt, cũng cứu. Bồ
Tát mà
còn phân biệt thì đâu còn Bồ Tát nữa. Đối với chị ai cũng là trẻ đồng
xanh, cần
bắt khi họ rơi khỏi vách đá. Chúng sanh vô biên thề nguyện độ.
Tôi nghĩ đó là công việc duy
nhất mà chị
cũng như Holden muốn làm, ở bên này bờ, cũng như ở bên kia bờ. Happy
Catching,
chị Phùng Khánh.
Quán Như
Sách
đọc trước khi viết:
-R.
Fields. How the Swans
Came to the Lake. Shambala, Colorado,
1981.
-I. Hamilton. In
Seach of J.D. Salinger.
Heinemann London, 1988.
-C.
Ingram. In The Footsteps
of Gandhi. Parallax Press, California,
1990.
-J.
Kerouac. On the Road.
Penguin Books, ấn bản 1991.
-J.
Kerouac. The Dharma Bums.
Flamingo, 1994.
-A.
Saint-Exupéry. The Little
Prince. Penguin Books, 1998.
-J.D,
Salinger. The Catcher
in the Rye,
Penguin Books, ấn bản 1994.
-M. A.
Salinger. Dream
Catcher. Washington Square
Press, New
York,
2000.
-Tricycle,
The Buddhist
Review, Fall 1995. Fourth Anniversary edition.
Mấy
ngày Chapman đứng chờ để
bắn Lennon trong cặp tay lúc nào cũng có quyển Catcher in the rye là
sách của
JD Salinger. Catcher in the rye, đã dịch ra tiếng Việt xuất bản ở Sài
Gòn thời
trước giải phóng tên Việt là Bắt trẻ đồng xanh, xuất bản lần đầu năm
1951 nói
về một cậu trai tên Holden Caufield là một nhân vật đang cố đi tìm vai
kịch của
mình trong thủa hỗn mang. Thủa hỗn mang là lúc các giá trị đang chà đạp
nhau
cái này lộn ngửa lên cái khác, cái khác lại úp mặt vào cái sau.
Caufield là mai
đang vùng vẫy để giữ dáng, là tuyết cố che chắn để khỏi vấy bùn.
Salinger
ba chục năm nay sống
cuộc sống ẩn dật không xuất bản gì thêm nữa. Catcher in the rye thì đã
được
dịch ra đủ các thứ tiếng và bán được hơn 60 triệu bản. Cái sự người ta
yêu quý
Catcher giờ nhiều người phải giấu diếm vì quyển sách này hay bị các
nhân vật ưa
phản kháng chống hiện tại êm đềm giả dối quy ra làm tuyên ngôn cho tinh
thần
của mình. Salinger là cha đẻ của Caufield, Caufield là cha đẻ của một
thế hệ
hippy ở Mỹ ở châu Âu là những người tiên phong trong phép thử vượt qua
các quy
tắc có sẵn những mặc định tốt đẹp bên ngoài hay được xã hội các nơi coi
là bản
lề nguyên tắc. Nhưng mà những mặc định này lấy sự tiện ích làm chủ đạo,
sự áp
dụng của chúng mang tính hai mặt, ép lên người khác để được yên bình
cho mình.
Khả dĩ nguời khác quay mặt về phía mặt trời thì thật tiện cho ta đứng
sau làm
mọi việc trong bóng tối.
Lennon
là một đại diện xuất
sắc trong cái thế hệ lúng túng con đẻ của Caufield, on the road và
leaves of
grass. Hippy là một thế hệ tiến hóa về tư tưởng nhưng tha hóa về phương
pháp,
sự tiến hóa về tư tưởng của thế hệ này chưa chắc người đời hôm nay đã
nhận ra
được hết, sự tha hóa về phương pháp của họ chỉ vượt được qua những mặc
định hai
mặt của thời đại chứ chưa ra khỏi vòng tiền lệ của khả năng tha hóa của
con
người. Nói ngắn gọn lại thì cái được về tinh thần bù đắp thừa ra cái hư
về
phương pháp, cái net gain trong lợi ích đang tính có được là nhờ công
những
người như Lennon.
Khi thế
hệ hippy xuống núi để
về nhà để lại đằng sau những bữa tiệc đầy hoan lạc nơi mà sự thăng hoa
của tư
tưởng thường được khởi động bằng thuốc độc và năng lượng thô lấy từ cơ
thể
người khác thì cũng là lúc mà phương pháp quay lại thời tiến hóa còn tư
tưởng
bắt đầu xuống dốc. Lennon cũng bám lấy cô Ono và bắt đầu hát những bài
ca ca
ngợi chính mình. Sự hợp lưu của những dòng chảy tuy phát xuất cùng nơi
nhưng
luôn đi thành nhiều khung đối nghịch với cái dòng chảy chính chứa đựng
nhiều
phù sa tuy màu mỡ nhưng hạt nhân là bùn đen là không thể tránh khỏi.
Chapman
bắn Lennon là việc xấu tồi xấu tệ nhưng hạt tuyết trắng Lennon cũng nhờ
Chapman
mà cứ ngưng đọng mãi trong dòng sông tiểu ngạch đầy ước vọng của một
thời quá
khứ, chẳng bao giờ xấu đi mà còn mỗi ngày lại đẹp thêm lên trong tư
tưởng của
những thế hệ hippy phi truyền thống về sau này.
Bây giờ
có mấy ai thèm để ý
đến Paul McCartney với tiền bạc và danh xưng quý tộc đâu? Nếu có cũng
chỉ khi
làm nền cho Lennon, người qua cái chết bỗng hóa thành bất tử.
---
Tớ đọc
Catcher in the rye lúc
đấy chắc khoảng 17 tuổi, đến bây giờ vẫn còn say say. Có những cuốn
sách có ảnh
hưởng sâu sắc đến tư tưởng mình đến nỗi mà nếu chưa từng đọc chúng mình
ngờ là
cuộc đời có thể đã đi vòng sang hướng khác. Catcher in the rye là một
trong
những quyển lày. Catcher tuy lấy chủ đề lạc lối và thiên thần gẫy cánh
nhưng
nội dung lại hướng thiện và cầu toàn ngang với những tấm lòng cao cả,
lãng mạn
như cánh buồm đỏ thắm, trắc ẩn như những người khốn khổ, phiêu lưu như
trên sa
mạc và trong rừng thẳm hay hành trình ngày thơ ấu. Catcher chẳng dậy
cho tớ
được cái gì ngoài việc đánh thức một phần tư tưởng lúc đó còn đang ngủ
không
biết là có nên chui ra khỏi vỏ hay không. Có tiền lệ rồi nên nhắm mắt
rồi lại
mở ra ngay.
Tên
catcher in the rye lấy từ
chi tiết trong truyện khi Holden Caufield, kẻ vô kỷ luật làm gì cũng
hỏng không
được thầy cô nào chịu nổi doomed to live a life of failure nếu cứ theo
các giá
trị được xã hội công nhận mà xét, được hỏi là mong làm gì nhất trên
đời, nghĩ
mãi thì trả lời là mong được đứng ở bãi cỏ xanh bên bờ vực thẳm để giữ
không
cho bọn trẻ con bị rơi xuống đó.
Salinger
có thể không định
nói thế nhưng cứ theo hoàn cảnh của chú caufield mà xét rất có thể chú
ta lúc
đó đang mắc chứng hoang tưởng chúa trời..(God’s complex) . Khi người ta
có
nhiều bất an trong lòng, khi người ta không thật sự tin vào mình, khi
người ta
e ngại khả năng của mình có hạn, khi cuộc sống dồn đẩy người ta vào
chân tường
thì người ta có thể làm những việc vá trời cứu thế giới hay nói những
lời đại
ngôn tốt đẹp. Dù có ý thức được hay không thì những điều vĩ đại kia
cũng giúp
làm đối trọng giữ cho tinh thần sa sút khỏi chìm thêm hay may mắn hơn
cho thế
giới và nhân loại là rút tuột cái tinh thần sa sút kia lên gần với
những điều
tốt đẹp…Mother Theresa, Jane Goodall..chỉ là hai ví dụ về sự sợ hãi vực
thẳm
đẩy người ta lên chỗ cống hiến cả đời cho số đông. Cái dở hơi của cả
Chapman và
Caufield là đi tin rằng nếu không có bàn tay bên ngoài níu kéo lại thì
tất cả
con người ta sẽ đều rơi xuống hố. Về thống kê mà nói, nếu cứ để người
ta vượt
qua bãi cỏ đi về phía vực thẳm rồi sa chân xuống đó thì khoảng một nửa
sẽ rơi
xuống đó nhưng nửa còn lại sẽ vỗ cánh bay lên.
---
Lennon
chẳng bao giờ bay lên
hay rơi xuống mà dù có xuất sắc cũng sẽ mãi chỉ là đứa trẻ chạy đùa
trên bãi
cỏ. Giống như một vai kịch được phân, Lennon đã nói xong những lời
thoại của
mình. Nếu ý tưởng có gì đáng học thì chỉ cần nhớ ý tưởng, tên Lennon
chỉ có vai
trò label và bao gói những ý tưởng và lợi ích của một thử nghiệm tư
tưởng xã
hội bất thành. Bao giờ quên được tên Lennon là đã nhớ được ý tưởng thời
đại mà
Lennon tổng hợp lại và mang vác hộ.
---
Em đã
đứng ở chỗ góc phố New
York có biển tưởng niệm nơi Lennon bị bắn và cảm thấy lạ là chỗ đó ở
ngay bên
Tây công viên Central Park chẳng cách xa mấy chỗ cái ao thả vịt mà
holden
caufield trong catcher in the rye hay hỏi là mùa đông khi mặt ao đóng
băng thì
bọn vịt sẽ đi đâu. Lennon và Caufield và tớ với Chapman và Salinger và
ấy thế
là được nối vào nhau bằng những mối dây kỳ quặc. Cái ao vịt kia như là
thế giới
thu nhỏ nơi mấy người nói trên là những con vịt cứ bơi lội tung tăng
trong mùa
hè ấm áp và mùa thu lá vàng lá đỏ rơi ngập tràn những lối sỏi công
viên. Đêm
nay đọc truyện hay dả vờ của trung quốc có những nhân vật được ép vào
các mặc
định xã hội chính diện một cách dễ dãi, nơi cuộc sống có những kết cục
có hậu
giả tạo cháu không thể không hỏi là cũng như chúng ta đây, khi mùa đông
đến và
mặt ao đóng băng chật cứng thì những con vịt trung quốc kia sẽ đi về
đâu?
I can still
see him, a man of late middle age,
hunched over a magazine at night, looking strangely out of place. I
hope he's
in a happier place
now.
Watching
Salinger from a distance (1)
Ở Miền Nam, Catcher được Phùng Khánh và Phùng Thăng
dịch là Bắt
Trẻ Đồng Xanh.
*
"Tôi
tưởng tượng có
nhiều đứa trẻ đang chơi một trò chơi nào đó trên
một cánh đồng lúa lớn. Hàng ngàn em, hàng ngàn
em đều nhỏ như nhau,
không có một người lớn nào ở gần đó - trừ tôi. Công việc duy nhất của
tôi là
chờ sẵn ở đó và hễ khi có một em nào vô ý sẩy chân và sắp sửa rơi xuống
từ vách
đá, tôi đứng sẵn ở đó và dơ tay đón bắt từng em. Cả ngày tôi chỉ làm
chừng nấy công
việc. Tôi chỉ làm công việc bắt trẻ đồng xanh. Tôi biết đó là một điều
điên rồ,
nhưng đó là công việc duy nhất mà tôi thích làm!"
Salinger
có thể không định nói thế nhưng cứ theo hoàn
cảnh của chú Caufield mà xét rất có thể chú ta lúc đó đang mắc chứng
hoang
tưởng chúa trời (God’s complex). Khi người ta có nhiều bất an trong
lòng, khi
người ta không thật sự tin vào mình, khi người ta e ngại khả năng của
mình có
hạn, khi cuộc sống dồn đẩy người ta vào chân tường thì người ta có thể
làm
những việc vá trời, cứu thế giới hay nói những lời đại ngôn tốt đẹp. Dù
có ý
thức được hay không thì những điều vĩ đại kia cũng giúp làm đối trọng
giữ cho
tinh thần sa sút khỏi chìm thêm hay may mắn hơn cho thế giới và nhân
loại là
rút tuột cái tinh thần sa sút kia lên gần với những điều tốt đẹp…
Mother
Theresa, Jane Goodall.... chỉ là hai ví dụ về sự sợ hãi vực thẳm đẩy
người ta lên
chỗ cống hiến cả đời cho số đông. Cái dở hơi của cả Chapman và Caufield
là đi
tin rằng nếu không có bàn tay bên ngoài níu kéo lại thì tất cả con
người ta sẽ
đều rơi xuống hố. Về thống
kê mà nói, nếu cứ để người ta vượt qua bãi cỏ đi về
phía vực thẳm rồi sa chân xuống đó thì khoảng một nửa sẽ rơi xuống đó
nhưng nửa
còn lại sẽ vỗ cánh bay lên.
Quán Như đọc Catcher
Còn một tác
phẩm trứ danh khác nữa, cũng có tên là Bắt Trẻ Đồng Xanh, nội dung 'mô
phỏng' cái
tít trên.
Đó là một bài viết của Võ Phiến, về cuộc vơ vét con nít Miền Nam
[đồng bằng
sông Cửu Long] cho vượt Trường Sơn ra Bắc học,
sau trở về tiếp tục cuộc Trường Kỳ Kháng Chiến Chống Mỹ cứu nước.
Còn một Bắt
Trẻ Đồng Xanh, nữa, là cuộc di tản trẻ con lai Mẽo, vào những ngày 30
Tháng Tư
1975. Vì lòng nhân đạo, tất nhiên, nhưng còn là do lo xa: Mấy anh Mẽo
sợ VC sau
này, dùng lũ trẻ bắt bí phải xùy tiền ransom ra mới cho chuộc!
Chán mớ đời!
*
L'auteur de «l'Attrape-cœurs»
avait 91 ans
La mort de Jerome David
Salinger
Par David Caviglioli
« Je vais émettre une
opinion qui risque de paraître
suspecte : l'anonymat de l'obscurité, ou, si l'on préfère,
l'obscurité de
l'anonymat, constitue pour un écrivain l'un des dépôts les plus
précieux qui
soient confiés à sa garde pendant ses années productives. »
[Tôi sẽ phán một điều xem ra
thật đáng ngờ: cái ẩn danh của sự tối tăm -
hay, nếu bạn thích, cái tối tăm của sự ẩn danh - nó đem đến cho nhà văn
một
trong những vốn liếng quí báu nhất, được giao phó cho nhà văn, trong
những năm
tháng phì nhiêu của người đó].
Cái
sự ở ẩn, lánh đời ở Salinger xem chừng do ông đụng
vào cái đề tài cấm kỵ, tuổi thơ ‘nổi loạn, giết người, ăn cướp, ăn
trộm, du thủ
du thực, du đãng…”. Beidegger, tác
giả Phong Thần Bảng
cho thấy, như rất nhiều nhà văn khác, thí dụ như Lewis Carroll,
Saint-Exupéry
thuộc thứ tác giả không chịu già: vài tháng sau khi Ông Hoàng Nhỏ được
xuất bản,
tác giả của nó, lúc đó 44 tuổi, bèn lên máy bay, làm một phi vụ thám
sát
[mission de reconnaissance] bên trên vùng trời Địa Trung Hải, và biến
mất như
nhân vật của mình…
Camus, [Kẻ Xa Lạ] Alain-Fournier
[Le Grand Maulnes] tất cả đều chết trẻ
*
L'attrape-Salinger,
par Beidegger
*
Sous
des dehors légers et
frivoles, seriez-vous un pessimiste ?
-Il paraît que Kafka riait en
écrivant ses livres, pourtant très noirs. Moi, je m’amuse à écrire les
miens,
et on me dit qu’ils sont très tristes. C’est peut-être l’époque qui
veut ça :
on rit pour se protéger.
Beigbeder
[Với cái vẻ bề ngoài nhè nhẹ,
têu tếu, ông là một gã bi quan?
-Hình như Kafka cười trong khi
viết những cuốn sách của ông, mặc dù đen thui. Tôi tự nhủ mình ‘dzui
thôi mà’ (1)
khi viết những cuốn của tôi, và người ta nói là chúng rất buồn. Có lẽ
thời của
chúng ta nó muốn thế: người ta cười để tự bảo vệ]
…
Ngoài
những trang viết về
BHD, còn lại thì đen thui!
… Đọc còn thấy vui vui, và
tửng tửng, độc giả đọc xong còn muốn tìm đọc lại
Độc giả TV
Tks again.
And Happy New Year to All of U
NQT
(1)
What If… ?
Đọc cái ký mới toanh của Mr. TV, tình
cờ, cùng
lúc, vớ một số báo NYRB cũ, 19 July 2007, trong có bài của Anita Desai
đọc A
Tranquil Star: Unpublished Stories, [Ngôi sao trầm lặng: Những
chuyện chưa xb],
của Primo Levi, dịch từ tiếng Ý.
Anita Desai tự
hỏi, liệu có thể dùng từ "playful" để nói về những tác phẩm của Primo
Levi, như Sống sót Lò Thiêu, Liệu đây có phải một người ? Về
cuộc đời mà
ông đã trải qua, nhưng không thể nào, chẳng bao giờ bỏ lại phía sau
mình.
Và bà trả lời, đúng là cái tính từ "ấn tượng", "chót",
playful, mà một nhà phê bình có thể nghĩ ra được, khi "đọc" Lò Thiêu,
khi đang đi trên Đại Lộ Kinh Hoàng, nhưng oái oăm thay, đọc tập truyện,
quả là
bà chỉ nghĩ đến "một góc trời chỉ biết rong chơi", của TCS!
Tất cả những truyện ngắn trong đó đều gợi nên cái sự rong chơi, vui
đùa, cười
cợt!
Ấn tượng thật!
Liệu, nếu, giả như, chú chuột giảo thử tối nay đi dự dạ tiệc? Liệu,
nếu, giả
như cuộc vui tối nay là một cuộc tử chiến giữa người và xe hơi?
Viết như không viết
Note: Cụm
từ này,
"viết như không viết", là của nhà văn Nhật Tiến, khi đọc Thảo Trần, Những Dòng
Sông Chẩy Về Phía Nam, ban cho:
Nhà văn Nhật Tiến,
khi đọc
xong cuốn truyện ngắn Nơi Dòng Sông
Chảy Về Phía Nam, mà Gấu hân hạnh thay mặt Gấu
Cái, viết lời đề tặng, phán, văn như thế này, viết tự nhiên như… không
viết,
chữ cứ thế tà tà chảy về phiá Nam như những dòng kênh dòng lạch của
Miền Nam
chảy ra biển cả, mở ra giống dân lưu vong có tên là thuyền nhân sau
này, thì
cần gì phải ăn ké tiếng tăm của thằng cha Bắc Kỳ di cư 1954, thằng cha
Gấu, nhà
văn?
Nguồn
*
(1) Ui chao, lại nhớ đến Mít, với những bài, thí dụ, nhìn Tô Hoài
từ một khoảng hơi gần gần và rất gần, hay bài của “bạn thân quí của
Gấu”, là thi sĩ DT Táo, viết về nhà thơ đàn em NTN, "không thích" nhân
gian đành "siêu ở ẩn", tại một
chốn hạnh phúc hơn! (2)
Và nhớ Brodsky, khi ông phán, cái chết là thuốc thử mầu tuyệt vời nhất,
để nhận ra ‘mùi đạo đức’ ở cái đám viết lách, nhà văn nhà viếc, bạn quí
bạn kiếc, bạc giả, bạn giả....
(2) siêu ở ẩn:
Nhà hài hước John Hodgman nói sau khi nghe tin Salinger qua đời: “Tôi
cứ nghĩ
J.D. Salinger chỉ quyết định trở nên siêu-lánh-đời.” [theo NY
Times]
Da
Mầu
Nhà hài hước John
Hodgman nói sau khi nghe tin Salinger qua đời: “Tôi cứ nghĩ J.D.
Salinger chỉ
quyết định trở nên siêu-lánh-đời.”
[theo NY Times] [Trích lại từ Da Mầu]
Happy Catching, chị Phùng Khánh. Quán Như
TLS, Tháng Hai 5, J.C. người giữ mục Sổ Tay, viết về sự ra đi của nhà
văn J.D.
Salinger vào ngày 27 Tháng Giêng, thọ 91 tuổi, với cái tít ‘vỗ một bàn
tay’.
[Báo giấy].
Còn trên net:
Steiner
dùng hình ảnh 'vỗ một bàn tay' để nói
về cái sự rút lui của từ.
*
obituary: j.d. salinger
From The
Economist print edition
SALINGER'S
SPOILED CHILDREN
But he does not owe us anything more in death than he did in life
A guy could do a
lot worse than reread Salinger, in whatever medium. He was a helluva
writer.
(Anh ta) đáng ra đã có thể làm nhiều chuyện tệ hơn là đọc lại Salinger
chứ, dù
là đọc trên phương tiện nào cũng vậy ( sách in, mạng ảo, i-pad ....) .
Ông ấy
(Salinger) thật là một nhà văn tuyệt vời.
K
Câu ni chẳng ăn nhằm chi đến so sánh các nhà văn, anh Gấu đưa Camus vào
làm chi
vậy . Thiệt là tẩu hỏa nhập ma quá chừng rồi.
K
Tks
Câu văn chẳng ăn
nhằm chi đến so sánh… nhưng giữa Camus và
Salinger quả có quá nhiều liên hệ.
Trên tờ Le Point,
4 Janvier, 2010 có một bài của Fréderic Beigbeder, với cái tít thật lạ,
Le Misanthrope égoiste [Kẻ ghét người ích
kỷ, chỉ biết có cái tôi], trong có những câu:
Người ta so sánh chưa đủ, giữa
Salinger và Camus.
Sinh cách nhau sáu
năm, Camus 1931, Salinger 1919, cả hai cùng đạt tới đỉnh cao về sự nổi
tiếng, được
nhiều người biết tới. Bắt Trẻ Đồng Xanh, 1951; Kẻ Xa Lạ, 1942. Khi
Camus tử nạn
xe hơi thì Salinger đã ẩn cư lánh đời tại Cornish được 7 năm: Ôm thân
cây mà chết
trong chiếc xe nát bấy, thì cũng đâu khác náu mình ở trong một cánh
rừng: tự vắng
mặt để được hiểu, s’absenter pour être compris.
Tại sao Salinger
không được Nobel? Bởi vì mấy ông Hàn biết tỏng, cho nó, nó cũng đếch
thèm nhận!
Ta hãy thử tưởng tượng Salinger khăn đóng áo dài, xuất hiện trên bục
cao nơi Viện
Hàn Lâm Thụy Điển, để nhận Nobel?
Salinger đúng là
một tên Camus của Mẽo!
Cùng biến mất vào
năm 46 tuổi, cả hai đều nói, đời là phi lý, phải nổi loạn để tìm lại sự
ngây thơ
đã mất! Những cuộc kể của cả hai, về cái cuộc lữ lang thang của họ, thì
cùng một
dòng: đơn giản, giọng văn nói, hình ảnh hóa: “If you
really want to hear about it, maman est morte”.
Sự biến mất chung
cuộc của Salinger vào thứ tư, 27 Tháng Giêng 2010 là bằng chứng cho
thấy thế kỷ 20 đã thực sự chấm dứt.
Le
misanthrope égoiste
PAR FREDERIC
BEIGBEDER*
En
2007, avec Jean-Marie Périer,
l'écrivain était parti sur les traces de Salinger, son « contraire ».
“If you really want to hear about it... »
“Si vous voulez
vraiment que
je vous dise à quoi je pensais quand je marchais dans la forêt de
Cornish, New
Hampshire, à la recherche de J. D. Salinger en mai 2007, alors surement
la
première chose, c'est« mais bon sang qu'est-ce que je fous là?» et
toutes ces
conneries à la Albert Camus, mais j'ai pas envie de raconter ca et tout
(hommage au début de
«L'attrape-coeurs », NDLR).
(Après avoir traversé le pont
couvert au-dessus de la rivière Connecticut,
il fallait tourner à droite et rouler jusqu'au cimetière. Ensuite
gravir à
gauche des chemins de terre au milieu des sapins géants en sachant
qu'au bout
de cette route barrée de troncs d'arbres, en haut de la colline,
derrière des
clotures aux panneaux «No trespassing»,
dans une ferme rouge, vivait l'écrivain le plus mystérieux, le plus
secret du
monde.
Derrière moi la camera de
Jean-Marie Perier enregistrait ma quête vaine; je savais bien que je me
dégonflerais
au bout du compte. D'abord parce que Salinger était un ancien
militaire,
peut-être armé ... Mais surtout parce que jamais je n'aurais osé
déranger l'auteur
de mes romans préférés. Je voulais seulement connaitre l'homme qui se
cachait derrière
Holden Caulfield et Seymour Glass. Je voulais savoir si Salinger était
heureux
dans sa tour d'ivoire
au fond des bois; en vérite j'étais attiré par mon contraire.)
On ne compare pas assez
Jerome David Salinger à Albert Camus. Pourtant, les deux auteurs sont
nés à six
ans d'écart (Camus en 1913, Salinger en 1919) et ont atteint chacun des
sommets
de popularité. « L'attrape-coeurs»
(1951) est sorti neuf ans après «L'étranger»
(1942), ce qui fait de Holden Caulfield un petit
frère de Meursault.
Quand
Camus meurt d'un accident de voiture, Salinger est déjà reclus à
Cornish depuis sept ans. Embrasser un platane ou s'enfermer dans une
forêt, le
geste
revient à peu près au même : s'absenter pour être compris. Pourquoi
Salinger n'a-t-il
jamais eu le Nobel? Parce que les jurés suédois savaient qu'il ne
viendrait
jamais le chercher! Salinger est le Camus américain: disparus tous deux
à 46
ans (comme Baudelaire et Musset), ils nous disent que la vie est
absurde, qu'il
faut se révolter afin de retrouver 1'innocence perdue; leurs narrateurs
racontent leur errance dans une langue simple, orale, imagée: «If you really want to hear about it,
maman est morte. »
La disparition définitive de
Salinger mercredi 27 janvier 2010 est la preuve que le XXe siècle est
bien terminé.....
*
The
author (reading Catcher in the Rye) in 1952
BY RICHARD LACAYO
TAKE THE LITTLE PAPERBACKS
down from the shelf, and you can hold the collected works of J.D.
Salinger-one
novel, three volumes of stories-in the palm of one hand. Like some of
his
favorite writers the Greek poet Sappho, whom we know only from ancient
fragments, or the Japanese writers of 17-syllable haiku Salinger was an
author
whose large reputation pivots on very little. The first of his
published
stories that he thought good enough to preserve in a book appeared in
the New Yorker in 1948. Seventeen years
later, he placed one last story there and drew down the shades.
From that day until his death
on Jan. 27 at age 91 at his home in Cornish, N.H., Salinger was the
hermit crab
of American letters. When he emerged, it was usually to complain that
somebody
was poking at his shell.
Salinger's
only novel, The Catcher in the Rye,
was published in 1951 and gradually achieved a status that made him
cringe. For
decades, the book was a universal rite of passage for adolescents, the
manifesto of disenchanted youth. (Sometimes lethally so: after he
killed John
Lennon in 1980, Mark David Chapman said he had done it to promote the
reading
of Salinger's book.) Holden Caulfield, Salinger's petulant, yearning
young
hero, was the original angry young man, created at the very moment that
American teenage culture was being born. A whole generation of
rebellious
youths discharged themselves into him.
Jerome
David Salinger was born in New
York City on Jan. 1, 1919, to a Scottish-born
mother and a
Jewish food importer father. He flunked out of or ran away from a
series of
private schools, graduating from Valley Forge
Military Academy
outside Philadelphia-later the model for Caulfield's despised Pencey
Prep -
before drifting back to Manhattan
with the general idea of becoming a writer. A promising career would be
briefly
derailed by a grueling slog through wartime Europe with the U.S. infantry, but by 1946 he was back
in Manhattan
and soon
writing regularly m the New Yorker.
By
the time The Catcher in the Rye was
published, to generally exultant reviews and a seven-month stint on the
New
York Times best-seller list, Salinger had already moved past adolescent
angst
and on to dissatisfaction with a world he found increasingly irrelevant
and
intrusive. In 1953 he bought a small, Spartan house in Cornish; by the
fall of
that year, he had built a high wall around it.
But
while Salinger lived as a recluse, he was never inclined to be a
hermit. He
married a 19-year-old Radcliffe student named Claire Douglas in 1955;
they had
two children together before divorcing in 1967. Salinger soon enticed
another
young woman, a Yale freshman named Joyce Maynard, to join him in exile.
Her
memoir, At Home in the World,
provides a picture of Salinger in later life as a man preoccupied with
homeopathic
medicine and old Hollywood movies who
wrote
every day but then stored the unpublished works in a giant vault. After
10
rocky months, Salinger abruptly called things off.
Is
that surprising? A long time ago, he called things off with the entire
world. Salinger
struggled all his long life with the contradiction between his gifts as
a
writer and his impulse to refuse them. It's customary to assume that
the Glass
children of his short stories-an intricate hybrid of show biz and
spirituality,
the family was his other enduring creation-make up a kind of group
portrait of
Salinger, each a different reflection of his character: the writer and
the
actor, the searcher and the researcher, the spiritual adept and the
profiling
schmuck. That may very well be true. He made sure we could never be
sure. But
here's Fanny Glass outlining the dilemma of someone like Salinger who
wants to
abandon the ego, the will to "succeed":
"Just
because I'm so horribly conditioned to accept everybody else's values,
and just
because I like applause and people to rave about me, doesn't make it
right. I'm
ashamed of it. I'm sick of it. I'm sick of not having the courage to be
an
absolute nobody. I'm sick of myself and everybody else that wants to
make some
kind of a splash."
That's
one time you know it's Salinger talking. •
TIME
February 15, 2010
V/v Tin
Van : Dung roi, nen
thay doi , keo khong nhu O noi, ba tram nam sau (hihi), co nguoi di tim
tac
pham cua NQT chi thay toan "kit" voi "deo", "nhu
kit" v.v.... thi khong biet se xep tac pham vao loai van
chuong
gi . Hihi .
K
[V/v Tin Văn: Đúng rồi, nên
thay đổi [dẹp cái mục “Dọn” đi, cấm chửi lộn, chửi bậy, không được sử
dụng những
từ thô tục…] kẻo không, như O. nói, ba trăm năm sau có người đi tìm tác
phẩm của
NQT, chỉ thấy toàn ‘…. ', thì không biết sẽ xếp tác phẩm vào loại văn
chương gì.]
V/v Bắt
Trẻ Đồng Xanh.
Tờ TLS
đặt vấn đề, và đề nghị độc giả giúp sức, liệu bản tiếng Anh, xb tại
Anh, đã được
lược bỏ những tiếng thô tục, dơ dáy…
Số TLS tuần lễ liền sau đó, Feb 12, 2010, đích
thân tay biên tập ấn bản Penguin Classics, Tim Bates, phụ trách coi
lại, overseeing,
lần tái bản năm 1993, từ nguyên tác Mẽo: Bản hiện có của The Catcher in
the Rye
đã được biên tập nặng nề bởi Hamish Hamilton, vào thập niên 1950; những
từ thô
tục, chửi thề đã bị kiểm duyệt, và cách ăn nói theo kiểu địa phương của
Mẽo của nhân
vật chính trong truyện cũng được sửa cho hợp với người Anh.
Và bây giờ Penguin
muốn sửa chữa tình trạng này…
“Fuck
you” mà bị thiến còn “… you’, thì làm sao
fuck!
Nhưng
chưa ghê bằng trường hợp
Céline. Ông này khủng khiếp hơn Salinger nhiều. Trên cùng số báo có bài
của
Steiner: Bây giờ lại là giờ của Céline [Once again, Céline’s hour]. Đọc
loáng
thoáng, thấy Steiner nhắc tới một câu của Sartre, phán không lâu, khi
sắp sửa
đi chơi xa: Chỉ có mỗi một tên trong lũ chúng ta là sống nhăn: Céline
[only one
of us will endure: Céline].
Sinh thời, Céline chửi Sartre
như chửi… chó:
Ta tởm mi, một tên chính trị cơ hội, một tên triết
gia dởm, [second-hand philosophy].
Ui chao
chửi như Mít chửi
NHL!
Le
Grand Macabre
The constant voice of a
pivotal writer in the history of the modern novel, who pours out
inhuman tracts
GEORGE STEINER
Céline
LETTRES
Edited by Henri Godard and
Jean-Paul Louis
2,034pp. Gallimard. €66.50.
9782070116041
*
Voyage
au
bout de la nuit
Uncovering
Céline
Note:
Bạn bè, thân hữu xử ép Gấu quá!