*





[13.3.1936 - 22.3.2006]
*
Giỗ đầu
5 năm
1
2
3
4

Thơ dịch





















5 năm TTT ra đi
(22.3.2006-22.3.2010)

*

 

Tôi là kẻ sống sót, nhưng tôi chẳng muốn làm nhà văn nữa, như đã từng mong muốn.

Thi sĩ phải thôi đi sao? Trong một thời đại mà con người bị khiến phải thổi kèn đồng [hãy nhớ những dòng thơ xưng tụng Stalin của Tố Hữu, chẳng hạn], hoặc tru tréo nỗi khổ đau của mình như sâu bọ, như lũ chuột, tiếng nói văn chương, thứ tiếng mang tính người nhất trong tất cả mọi thứ: liệu có còn được không?"
(Should the poet cease? In a time when men are made to pipe or squeak their sufferings like beetles and mice, is literate speech, of all things the most human, still possible?)

*
Hai từ thôi sao, là của Nguyễn Tiến Văn.
Hình ảnh Tố Hữu thổi kèn đồng, thay vì thổi ống đu đủ, cũng của anh.
Anh là người giúp đỡ Gấu rất nhiều, thời gian dịch Steiner.
Gấu tập tành dịch tiếng Anh qua tiếng Việt, bằng cách dịch Steiner và Borges.

Ui chao, chỉ nội hai chữ đó, là đủ thấy, bản tiếng Việt, bảnh hơn rất nhiều, so với nguyên tác. Nguyên tác hàm chứa trong nó, câu thơ của Holderlin: Tại sao thi sĩ trong thời điêu đứng?
Nhưng hai chữ thôi sao lại qui chiếu về một giai thoại tuyệt vời, về một thời đại hoàng kim của thơ, thời thơ Đường, và, về một thi sĩ, Giả Đảo.
*
Gấu đã từng lèm bèm nhiều lần về cái duyên nợ Steiner.
Nếu không gặp ông, chắc chẳng có trang Tin Văn.
*

Và, nhận xét của D.M. Thomas, trong cuốn tiểu sử nhà văn Solzhenitsyn, ["Alexander Solzhenitsyn: A Century in his Life" By D. M. Thomas, St. Martin's Press], về sự ra đi của nhà thơ Pasternak, có thể áp dụng vào trường hợp nhà thơ Thanh Tâm Tuyền, nếu chúng ta nhớ lại, tình cảm sửng sốt, bàng hoàng của đồng bào hải ngoại, khi được tin ông mất: 

Nỗi đau của dân Nga khi nhà thơ Pasternak qua đời vào năm 1960 đánh dấu bước ngoặt của lịch sử Xô Viết.”
The explosion of grief and celebration at Pasternak's funeral in 1960 marked a turning point in Soviet history.

Một độc giả VOA nhận xét:
Phạm Lời (Sydney, Úc)

"The explosion of grief and celebration at Pasternak's funeral in 1960 marked a turning point in Soviet history" được dịch bởi Google Translate như sau: "Sự bùng nổ của đau buồn và lễ kỷ niệm tại lễ tang Pasternak của năm 1960 đánh dấu một bước ngoặt trong lịch sử Liên Xô".

Câu tiếng Việt chỉ lấy một phần, nỗi đau, bỏ đi phần, sự ngợi ca. Người viết trích nguyên văn, để độc giả biết rõ nguồn, và không có ý dịch toàn câu văn.
Tks. NQT

Câu tiếng Anh, nếu dịch hết (1), thì không thể áp dụng vào trường hợp của TTT được. D.M. Thomas viết:
Đây là một cách rất Nga, để nói lời giã biệt với một thi sĩ lớn. Có vẻ như, một sự tưởng nhớ như thế chỉ có thể xẩy ra ở một xã hội mà sự đàn áp quá dữ dằn, khốc liệt; tuy nhiên điều này cũng không phải tuyệt đối. Dưới chế độ Stalin, không thể xẩy ra một trường hợp như thế. Trong những chế độ dân chủ tiêu thụ êm ả của Tây Phương, dân chúng chắc là chẳng muốn như thế, và cũng chẳng cần như thế, và cũng chẳng cảm thấy cực kỳ cần thiết như thế. (2)

(1) The explosion of grief and celebration at Pasternak's funeral in 1960 marked a turning point in Soviet history": Sự bùng nổ của nỗi đau [về sự ra đi của nhà thơ], và của ngợi ca [thơ ca của ông], tại đám tang Paternak vào năm 1960 đánh dấu bước ngoặt trong lịch sử Liên Xô.

Nhưng có lẽ chúng ta phải đọc cả chương sách Cái chết của một thi sĩ, trong cuốn Solzhenitsyn, thế kỷ ở trong ông ta thì mới có một cái nhìn tổng quát vấn đề.
Pasternak đã từng bị nhà nước Liên Xô hành hạ đủ điều, khi ông được Nobel. Và đây là cách trả lời của dân chúng Nga, đối với nhà nước CS của họ.

(2) Đâu phải tự nhiên khi TCS mất đi, cả thành phố Sài Gòn [lập lại, thành phố Sài Gòn] đổ xô ra đường tiễn đưa ông.

V/v cái sự ngợi ca thơ TTT: Khó mà có sự bùng nổ được! Đó là sự thực. Thơ của ông, một cách nào đó, khó tới với đám đông thưởng ngoạn, chẳng thế mà Đặng Tiến còn tiên đoán, ông không có truyền nhân!

*

Đọc muộn thơ bạn

Bằng chứng là sau năm 75 khi có dịp vào Sài Gòn thăm chị gái, ông cũng chỉ ở rịt trong nhà chẳng đi ra đến ngoài. Duy nhất có một lần bà chị gái ép Quang Dũng đi chơi phố thì ông nhất định đòi phải cải trang ăn mặc thành một tay chơi đất Sài Gòn rồi mới chịu bước chân ra đường. Ấy thế mà vẫn có người nhận ra.
Lần đó Quang Dũng đứng chọn sách trong một tiệm bán văn hóa phẩm, một người đàn ông trung niên đi ra bỗng vỗ vai ông hỏi: “Ông có phải Quang Dũng - tác giả Tây tiến không, tôi nhìn giống bức ảnh trong cuốn sách ở nhà lắm”. Ông Vĩnh kể, không hiểu cha tôi học tiếng Nam khi nào mà ông trả lời ngay: “Ông nhầm rồi, tôi ở Bạc Liêu mới zô”.


Về Quang Dũng vô Sài Gòn, không đúng như ông con viết. Chứng cớ là nhà thơ đã đi tìm gặp một số nhà thơ nhà văn Nguỵ, trong có những người cùng quê với ông. Gấu có thấy hình Quang Dũng ngồi với Thái Tuấn, Đinh Cường, Thanh Tâm Tuyền, Trần Lê Nguyễn, trong một tuyển tập thơ, tại nhà một người quen, lần ghé Tiểu Sài Gòn.


*

*Bạc Liêu thì phải mới lên chứ sao lại dzô?
Riêng về cái vụ tiền, nếu đúng như thế, thì sợ rằng không hẳn như thế. Nên nhớ Tản Đà đã từng vô Nam, gặp một tay chủ báo [Gấu quên tên], hào phóng, móc bóp biếu hai ngàn, tiền thời còn Tây thuộc, lớn lắm. Tản Đà thản nhiên bỏ túi.
Trong trường hợp Quang Dũng, tôi sợ có gì hiểu lầm giữa hai bên, hoặc do Quang Dũng rét!
Nhận, tụi nó bắt viết tự kiểm thì cũng phiền!
*
Gấu tin rằng, ông con viết sai hoàn toàn về ông bố.
Bức hình trên chứng tỏ điều Gấu nói.
Quang Dũng phơi phới ngồi giữa một đám đại phản động, biệt kích văn hoá, như TTT, TLN,  DQS, thì làm sao mà lạnh cẳng được!
*
Về cái vụ việc Miền Nam trước 1975 mê thơ Quang Dũng, và câu Quang Dũng nói, đừng nói với ai chuyện đó nhé, Gấu chắc không có. Bức hình trên chứng minh.
Nhà thơ chắc phải cảm động lắm, và khi có dịp vào Nam, mới đi tìm mấy ông đại phản động, để mà ngồi chung một chiếu, chẳng những ngồi chung, mà còn chụp hình kỷ niệm!
Brodsky cũng đã từng nói lên cái tâm trạng của ông, khi Volkov hỏi, cảm tưởng của ông, khi biết Tây Phương in thơ của mình.
Cái tập thơ đó được in ở Mẽo, dưới bảng hiệu Inter-Language Literary Associates. Lúc đó tôi đang bị đi đầy. Tôi nhớ là, khi được thả, có người chìa cho tôi coi. Tôi nhìn nó, mà cảm thấy ngỡ ngàng. [It was a sensation of utter nonsense]. Bạn biết không, nó gây cái cảm giác, như thể những bài thơ in ở trong đó, bị nhà nước tịch thu, trong một lần xét nhà, rồi được xuất bản!
*

Every poem in time becomes an elegy
Borges
Câu thơ, không phải bài thơ, “Ôm em trong tay mà đã nhớ em những ngày sắp tới” của TTT, trở thành lời ai điếu, khi ông nằm xuống tại một nghĩa trang Huê Kỳ.
Mai Thảo chẳng nói lên ý đó sao, khi sắp đi xa, hỏi cậu Ngọc Dũng, về tới Ký Con chưa?
Ký Con là con phố nơi có tòa soạn Sáng Tạo
*

PASTERNAK AUTOBIOGRAPHIQUE
PAR HÉLÈNE HENRY

Tout sera là: ma propre histoire
Et ce qui vit encore en moi,
Tous mes élans et mes amarres,
Ce que j'ai vu, ce que je vois.
«Les Vagues ", Seconde naissance, 1932

Pour être conséquent, il faudrait parler, dans cette suite d'années et de circonstances, de gens et de destinées que réunit le cadre de la révolution. [ ... ] II faudrait [les] décrire de telle façon que le cœur se serre et que les cheveux se dressent sur la tête. Postface à Hommes et positions, 1957

Phải viết làm sao cho trái tim quặn xoắn lại, và tóc thì dựng đứng hết cả lên!
*
Ui chao làm sao viết được như thế, về quê hương, những ngày sau 1975?
Những ngày ở Phạm văn Cội, Củ Chi?
Những ngày ở Đỗ Hòa, Nhà Bè? 

Tout sera là: ma propre histoire
Et ce qui vit encore en moi,
Tất cả câu chuyện của riêng Gấu,
Vẫn còn sống trong Gấu.
NQT
*
It seems that the voice we humans own
Will never sound, never celebrate,
Only a wind from the age of stone
Keeps on knocking at the black gate.
And it seems to me that under the sun
I alone remain-this honor's mine,
Simply because I was the first
Who wanted to drink the deadly wine.
1917
Akhmatova

Có vẻ như cái thứ tiếng người mà chúng ta có đó
Nó sẽ chẳng bao giờ kêu lên
Chẳng bao giờ ăn mừng
Chỉ là tiếng gió từ thời kỳ đồ đá
Liên tục gõ lên chiếc cổng đen
Và hình như chỉ còn tôi, đơn độc dưới ánh mặt trời
Và đây là niềm vinh quang của tôi
Giản dị, ấy là vì tôi là người đầu tiên
Muốn uống ly rượu độc

Ai là Holderlin, kẻ có thể được tạo nên, để nói, nhân danh cả hai, một, quá khứ đã mất, và một, tương lai Quốc Xã?
Coetzee viết về nhà thơ Holderlin: Thi sĩ trong Tháp Ngà.
Who was Holderlin, who could be made to speak for both a lost past and a National Socialist future?

Ai là TTT, kẻ được tạo nên, để nói, nhân danh cả hai, một, quá khứ đã mất Miền Nam Sâu Thẳm, và, một, tương lai một nước Mít VC sau 30 Tháng Tư 1975?

Câu thơ “Ôm em trong tay mà đã nhớ Em những ngày sắp tới”, Gấu “phát hiện”, khi quá nhớ BHD, nhưng, chỉ đến khi ra hải ngoại, quá nhớ Sài Gòn, thì mới nhận ra, nhà thơ đã tiên tri ra được những ngày sắp tới không còn Sài Gòn!

Có một sự tương phản thật rõ nét, giữa một, TCS và một, TTT, như hai nhân vật được Borges viện ra, dưới đây, trong bài viết trứ danh, Những tiền thân của Kafka:

Những ghi nhận của tôi còn hai câu chuyện. Một là từ Chuyện không vui (Histoires Déobligeantes), của Léon Bloy, về một vài người sở hữu đủ thứ trái địa cầu, bản đồ thế giới, chỉ dẫn đường xe lửa và những tuyến đường lớn, nhưng chết mà chưa từng toan tính một lần rời xa tỉnh nhà.
Câu chuyện kia nhan đề "Carcassonne" và là tác phẩm của Lord Dunsany. Một quân đội bách chiến bách thắng, gồm những chiến sĩ, rời tòa lâu đài vô định, chinh phục những vương quốc, nhìn thấy những quái vật, vét kiệt những sa mạc, những núi non, nhưng họ chẳng bao giờ tới được Carcassonne, mặc dù có lần họ đã thoáng nhìn thấy, từ xa. (Câu chuyện này, như người ta dễ dàng nhận ra, là đảo ngược triệt để của câu chuyện trên; trong câu chuyện thứ nhất, là thành phố không thể bị bứng khỏi, còn trong chuyện thứ nhì, chẳng bao giờ tới được.)

Ôi ôm em trong tay mà đã nhớ em những ngày sắp tới.
Quả thế thật.

Nhà văn Doãn Dân, sĩ quan VNCH, sau tử trận, (1) khi đọc tập truyện Những ngày ở Sài Gòn của Gấu, qua một anh bạn của Gấu cho mượn, đã than, thằng cha này quá sợ hãi hạnh phúc, và, đây là một tập truyện ngắn, nhưng thực ra, là một truyện dài.
Nghe nhận xét của anh, qua người bạn kể lại, Gấu nhớ ngay ra, tại làm sao anh ta phán, thằng cha GNV này quá sợ hãi hạnh phúc:

Lần hẹn nhau trong thành phố lạnh và xa, Đà Lạt, nàng thi đậu Tú Tài phần thứ nhất, và đã lên đó trước, chàng là công chức nên còn ở Sài Gòn làm việc, chiều thứ bẩy, chàng ra bến xe đò, vượt khoảng đường mấy trăm cây số, chàng bỗng nhiên có cảm tưởng, nàng đang ở trong Hà Nội, nàng đã trở về Hà Nội trước chàng, và chiến tranh đã hết, chàng đang trở về thành phố thời ấu thơ, nay đang gìn giữ hạnh phúc của đời chàng. Khi nhìn thấy bóng dáng nàng từ đầu phố tất tả vội vã chạy lại (nàng dến trễ, vì còn phải tìm cách nói dối Vi, Vi nhất định đòi đi cùng), chàng bỗng run lên vì sợ. Chàng run lên vì sợ hãi, vì sung sướng, vì hạnh phúc, chàng sợ thực sự, sợ nàng, sợ hạnh phúc, sợ khổ sở, sợ cô đơn, sợ tất cả...
Thời gian
(1)
Doãn Dân: Tên Trần Doãn Dân, sinh năm 1938 tại Nam Định. Sĩ quan. Tử trận tại Quảng Trị ngày 29.4.1972
Tác phẩm: Chỗ của Huệ, 1968; Tiếng gọi thầm, 1972
Võ Phiến VHTQ

*
Ngay từ tập thơ đầu tay, Tôi không còn cô độc, TTT đã nhìn rõ số phận của mình và bạn bè, và có vẻ như ông còn tự hào, khi hạ những dòng, chúng nó làm phát xít, chúng nó làm CS, chúng ta làm tù nhân; và những gì gì, anh yêu quê hương vô cùng, ràng buộc với nó phải là máu mủ, ruột thịt, ôm em trong tay mà đã nhớ em những này sắp tới, là một số phận khác, mà ông dành cho đất nước, khi ông đi tù, khi ông ra hải ngoại.
Cuốn tiểu thuyết độc nhất của ông, không còn một tí mắc mớ gì tới Đất Bắc [hai cuốn kia, Bếp Lửa, và Tôi Không Còn Cô Độc, cái nền của chúng là xứ Bắc Kít], Một Chủ Nhật Khác, cũng một dạng tiên tri, dành cho những kẻ bỏ chạy không thể bợ đít VC, thay vì chọn số phận Do Thái lang thang, đành trở về, chết một cái chết lãng nhách.
Có vẻ như cuốn truyện còn tiên tri ra được số phận khốn nạn của cái đám Miền Nam bỏ chạy bợ đít VC này, đã từng có thời bị VC cấm không cho về, dù đã làm tôi mọi, làm chó săn cho chúng.

*

ONE DAY IN THIS EPOCH, THE MID-FIFTIES, OLGA IVINSKAYA received a phone call from her lover, Pasternak. His voice sounded shaken and he began to speak in a voice choked by tears. 'What's wrong?" she asked in alarm. "He's dead, he's dead, I say!" he groaned several times over.
He was speaking about Yuri Zhivago. The harrowing chapter in which he suffers a fatal heart attack on a tram (not far from where later a so Pasternak would die at his car wheel) was now finished; and soon the whole novel would be completed.
Art, he wrote, is always meditating upon death and thereby creating life.
D.M. Thomas: Solzhenitsyn

Một bữa, trong cái thời kỳ này, vào giữa thập niên 1950, OLGA IVINSKAYA nhận được cú điện thoại của người yêu là Pasternak. Giọng ông run rẩy, như sắp bật khóc.
-Chuyện gì thế anh?
Nàng hoảng hốt hỏi.
-Ông ta chết, ông ta chết rồi.
Nhà thơ muốn nói tới nhân vật của mình là Bác sĩ Zhivago. Chương sách viết về cái cú đau tim quật ngã ông trên chiếc xe điện (cũng không xa nơi sau này đứa con trai của Pasternak bị xe cán chết), vào lúc này, kể như xong.
Nghệ thuật, Pasternak viết, luôn là suy tư về cái chết để sáng tạo ra đời sống.
*
Sau này, nếu có ai còn nhớ cái đám Miền Nam bỏ chạy bợ đít VC, chắc chắn là sẽ qua hình ảnh của Kiệt, trong Một Chủ Nhật Khác, bỏ chạy thoát cuộc chiến, nhưng lại mò về để chết lãng nhách vì bị lầm là Cộng Quân.
Và như thế, chắc chắn là hậu thế sẽ tha thứ cho chúng!
Bởi vì sẽ chẳng ai còn nhớ, thí dụ một tên chó săn, ”người của chúng ta ở Paris”, đệ tử của bạn của Gấu, là Cao Bồi!
Hà, hà!
*
The explosion of grief and celebration at Pasternak's funeral in 1960 marked a turning point in Soviet history"
Sự bùng nổ của nỗi đau [về sự ra đi của nhà thơ], và của ngợi ca [thơ ca của ông], tại đám tang Paternak vào năm 1960 đánh dấu bước ngoặt trong lịch sử Liên Xô.

Đây là một cách rất Nga, để nói lời giã biệt với một thi sĩ lớn. Có vẻ như, một sự tưởng nhớ như thế chỉ có thể xẩy ra ở một xã hội mà sự đàn áp quá dữ dằn, khốc liệt; tuy nhiên điều này cũng không phải tuyệt đối. Dưới chế độ Stalin, không thể xẩy ra một trường hợp như thế. Trong những chế độ dân chủ tiêu thụ êm ả của Tây Phương, dân chúng chắc là chẳng muốn như thế, và cũng chẳng cần như thế, và cũng chẳng cảm thấy cực kỳ cần thiết như thế.
Nhưng có lẽ chúng ta phải đọc cả chương sách Cái chết của một thi sĩ, trong cuốn Solzhenitsyn, thế kỷ ở trong ông ta thì mới có một cái nhìn tổng quát vấn đề.
Pasternak đã từng bị nhà nước Liên Xô hành hạ đủ điều, khi ông được Nobel. Và đây là cách trả lời của dân chúng Nga, đối với nhà nước CS của họ.
Đâu phải tự nhiên khi TCS mất đi, cả thành phố Sài Gòn [lập lại, thành phố Sài Gòn] đổ xô ra đường tiễn đưa ông.

Philip Roth once contrasted, slightly enviously, the American writer, who can say anything he wishes but is usually ignored, with his Eastern Bloc counterpart, who, since nothing is permitted to him, receives respectful attention for everything he writes.
Roth có lần lầu bầu, giả như mình là nhà văn Mít nhỉ!
Bởi vì theo ông, nhà văn Mẽo tha hồ viết, cái gì cũng được, nhưng đếch ai thèm để ý tới, còn Mít ư, viết cái chó gì cũng xúm lại đọc!
Chứng cớ?
Chợ Cá đó!
Hà, hà!
*
“Cái chết của Lucien de Rubempré là một bi kịch lớn, the great drama, trong đời tôi”, Oscar Wilde nhận xét về một trong những nhân vật của Balzac. Tôi luôn coi lời phán này, this statement, là thực, literally true. Một dúm nhân vật giả tưởng đã ghi dấu thật đậm lên đời tôi hơn những con người bằng xuơng bằng thịt, bằng máu bằng mủ mà tôi đã từng quen biết.

Llosa mở ra cuốn tiểu luận của mình The Perpetual Orgy, Đốt đuốc chơi Em, như trên. Cả một cuốn tiểu luận, dành cho Em Bovary, chưa đủ, sau ông còn viết cả một cuốn tiểu thuyết, Gái Hư, The Bad Girl, để vinh danh Em! (1)

(1) Sự thực, là để vinh danh Flaubert, và cuốn Giáo dục Tình cảm:
At one point, as if aware of something missing in the substantiation of his heroine's allegedly irresistible charm, Vargas Llosa comes up with a Vietnamese orphan, unable to talk since his traumatic childhood. The mute boy meets the bad girl and lo, he speaks. It is a moment of unforgivable schmaltz that merely makes Otilia seem more improbable than ever.
The name "Mme Arnoux", Otilia's third alias, is also that of the object of Frederic Moreau's infatuation in Flaubert's Sentimental Education. Vargas Llosa has written extensively of his love of Flaubert, and The Bad Girl is in part an homage to Sentimental Education. Some elements, such as the tenuously incorporated running commentary on Peruvian politics, really only make sense if understood as allusions to the original - in this case the backdrop of French political turmoil. Stylistically, however, the book couldn't be less like Flaubert, whose injunctions against cliche, generic description, idees recues, it flouts with apparent glee, tossing out such lines as "He was the incarnation of the careless, absent-minded intellectual" by way of characterisation, and off-the-peg accessories (high-end, of course) - Guerlain toothbrush, Vuitton dressing case - by way of furnishings.
Source 

Nhân vật Kiệt, trong Một Chủ Nhật Khác, chắc chắn sẽ còn sống mãi với độc giả Mít, như một tay Bắc Kít di cư, bỏ chạy Đất Bắc một lần, rồi bỏ chạy cuộc chiến, rồi trở về, để chết cùng với Miền Nam mà anh ta đã chọn.
Liệu có thể viết như thế, về Kiệt?
*
Kiệt và Thuỳ gặp nhau ở Âu Châu trong năm học cuối cùng của Thùy. Thùy bị gia đình gọi về khi bà mẹ ngã bệnh nặng hấp hối. Bà cụ qua khỏi nhưng lại bị bán thân bất toại và giữ Thùy ở nhà. Thùy gọi Kiệt về. Kiệt chần chừ: về để làm gì? Làm gì ở đấy? Em nhìn chung quanh em xem? Sang với anh. Thùy đáp: Em không thể bỏ má; anh không thể bỏ em; không phải anh chọn lý tưởng hay tổ quốc hay bất cứ thứ gì, anh chỉ chọn em, một mình em và đứa con sắp chào đời của chúng ta. Anh không nghe tiếng kêu xốn xang của em sao?

Kiệt nghe tiếng kêu xốn xang của Thùy. Chàng trở về.
Một Chủ Nhật Khác

Kundera viết: L’Iliade hoàn tất từ lâu, trước khi thành Troie ngã gục, nó hoàn tất vào cái lúc mà cuộc chiến còn chưa ngã ngũ, và con ngựa gỗ thần kỳ chưa nẩy ra ở trong đầu Ulysse. Và đây là đòi hỏi mỹ học của nhà thơ sử thi lớn lao đầu tiên của nhân loại: Mi đừng bao giờ để trùng hợp thời của những số phần cá nhân với thời của những biến động lịch sử. Bài thơ sử thi lớn lao đầu tiên của nhân loại mang nhịp điệu của thời của những số phận cá nhân.
L'Iliade s'achève longtemps avant la chute de Troie, au moment où la guerre est encore indécise et où le fameux cheval en bois n'existe même pas dans la tête d'Ulysse. Car tel était le commandement esthétique stipulé par le premier grand poète épique: tu ne laisseras jamais coïncider le temps des destins individuels avec le temps des événements historiques. Le premier grand poème épique fut rythmé sur le temps des destins individuels.
Kundera: Une rencontre

Câu thơ “Ôm em trong tay mà đã nhớ em những ngày sắp tới”, là cũng nằm trong dòng suy nghĩ của Kundera, trên.

Bếp Lửa kết thúc bằng cái cảnh Tâm xuống Cảng gặp Ngọc, bạn mình, thì bạn đã đi rồi. [Hắn đi thật rồi, như ông Chính đã chết, Đại đã đi].  Và sau đó, là cái "email" của Tâm [Anh yêu quê hương vô cùng và anh yêu em vô cùng] (1) gửi cho Thanh, như vậy là Tâm cũng đã đi rồi.
Cái “email” này nằm trong dòng suy nghĩ của Lukacs, "con đường tận cùng, cuộc hành trình bắt đầu", le chemin est fini, le voyage est commencé; ý thức tiểu thuyết gia vượt ý thức nhân vật, để tìm lại đời sống thực

Họ chỉ trở về qua nhân vật Kiệt, trong Một Chủ Nhật Khác.
Câu thơ là nỗi nhớ quê hương, “ôm em trong tay mà đã nhớ em những ngày sắp tới”, của đám Miền Nam lưu vong, nhớ thiên đường Tara (1) của họ

Mô phỏng Kundera:
Một Chủ Nhật Khác "hoàn tất từ lâu", từ lúc manh nha khởi đầu cuộc chiến lần thứ nhì, với bối cảnh là Hà Nội:
Bếp Lửa miêu tả không khí Hà-nội trước 1954; đi và ở đều là những chọn lựa miễn cưỡng, chia lìa hoặc cái chết. TTT 

Nói một cách khác, Bếp Lửa và Một Chủ Nhật Khác bổ túc cho nhau. Đây là lý do tại sao TTT không cho xb Ung Thư:
Tác phẩm thứ nhì của tôi, Ung Thư (1970) có thể coi như tiếp nối Bếp Lửa. Ung Thư là chấp nhận giữa "vô thường", và chút hơi ấm của nỗi chết [l'existence de notre acceptation entre la vanité et la tièdeur de mort]. Cuốn sách chẳng bao giờ được in ra... TTT
*

(1) Chỉ có ngoại là nhất định không chịu đi, cậu ba phải dựng một cái chòi sát bên căn nhà đổ nát cho ngoại ở. Gia đình ngoại tôi có sáu người con nhưng cuối cùng tan nát, mỗi người mỗi nơi, kẻ theo quốc gia, người theo cộng sản... chỉ còn mình ngoại, già nua, cô độc, thui thủi trong căn nhà đổ nát.
Đến con đường dẫn về nhà ngoại, tôi muốn khóc. Con đường mòn vừa lối trâu đi, hai bên có hai hàng su đũa, ngày xưa tôi vẫn thường được cậu tư dẫn đi thả diều, hoặc hai cậu cháu lang thang khi nắng chiều đã nhạt. Con đường tiêu điều, hàng chục thứ dây leo chằng chịt, quấn quít trên cành cây hai bên đường, tôi chợt thấy trong đám dây leo đó có những sợi mầu vàng. Đây là loại dây leo không rễ, bám vào cây nào thì cây đó sẽ khô héo dần rồi chết. Người ta gọi nó là dây tơ hồng.
Tôi thẫn thờ bước vào nhà ngoại, lặng ngắt đến rợn người. Bước ra sau vườn, mấy gốc dừa đã lão gần hết, ngọn còn cao vút trơ trọi, ngọn bị bom chặt gãy vắt lên gốc. Liếp sầu riêng của ngoại cũng chết gần hết sau trận lụt năm ngoái. Chỉ còn mấy cây ổi sống dai, xanh um, trái chín vàng ối rụng đầy trên cỏ. Thân ổi già, mốc. Ngày xưa tôi và dì út thay phiên nhau hành nó, không ngày nào mà hai dì cháu không trèo cây, hay lấy gậy chọc trái. Bây giờ, trái chín đầy cành, rơi đầy gốc... Tôi chợt nghe tiếng chim, lạc lõng, hốt hoảng, không còn những âm thanh ríu rít như ngày xưa, hay là nó cũng như tôi, đang lần mò trở về gặp lại vườn cũ. Tôi ngồi phịch xuống cỏ, như thấm mệt, cho tới khi nghe tiếng ngoại đánh thức... 

... tôi rất thích truyện ngắn cuả Thảo Trần.
Giọng kể cuả bà thanh thản mà gây buồn da diết, đúng là viết mà như không viết!
Đoạn "Tara" mà tôi mới trích, hay hơn cô Tư đó, vì nó rất tự nhiên. (2)

Tks
TT/NQT
*

(2) Gấu đã có kinh nghiệm này rồi. Lần mê văn Nguyễn Ngọc Tư, thổi lấy thổi để, mang cả ông thầy Faulkner ra, cả thầy lẫn trò xúm lại thổi, một nữ tác giả mail, hỏi, truyện của NNT hay, nhưng truyện của Thảo Trần mà không hay sao. Cùng cái air Nam Bộ, bà Thảo Trần nhà ông có khi còn bảnh hơn, ở một số điểm nào đó. Gấu mail cám ơn, và nói thực, bà Thảo Trần không cho phép Gấu nịnh bà ‘công khai’ như thế.
Để người khác đánh giá, thì hay hơn.

Quả đúng như thế. Khi tập truyện ngắn được xb, có hơn một bạn văn thực tình khen ngợi. Ông nhà văn Nhật Tiến sửa lưng Gấu, ông tài năng thế nào thì thiên hạ biết rồi, tại sao không để cho bà xã một mình một cõi.
Ấy là vì tập truyện ngắn còn kèm thêm mấy cái ‘ký’ của Gấu.
Rồi ông Thảo Trường cũng bực, bà Thảo Trần “viết mà như không viết”, vậy mà ông còn giả đò nhún nhường, để cho bà “tập” viết ư?
Nguồn

Trang Thảo Trần


La poésie entre la guerre et le camp
Thơ giữa chiến tranh và trại tù

Je te serre dans mes bras
or je pense déjà à toi les jours qui viennent

Ôi, ôm Em trong tay,
mà đã nhớ Em những ngày sắp tới
*

 *

"Je serai ta femme". BHD [16.8.1967]

... sự sống sót của chàng là một điều xúc phạm tới tình yêu thiêng liêng: Chàng vẫn sống và nàng đã chẳng tới được nhà thương đêm đó.
 Thời gian

 Hình chụp tại Đài Liên Lạc VTĐ số 5 Phan Đình Phùng Sài Gòn.
Bàn giấy ông trưởng đài, có cái bảng tên của ông: TBT.
*

Cuộc Tình Bỏ Đi  kết thúc không đến nỗi bi thảm như Một Chủ Nhật Khác.
Cô Thùy, tức Nicole của Scott, sau tái giá.
Nàng nói với ông chồng sau:
-Tôi yêu Kiệt và chẳng bao giờ quên anh ấy.
Ông chồng sau trả lời:
-Lẽ dĩ nhiên là như vậy. Làm sao em quên anh ấy? Mà tại làm sao mà em phải quên anh ấy?
Đà lạt

*
Không ai kèn cựa với người đã chết.
Mà em muốn nhắc để cám ơn anh.
Đã rèn luyện em trong cay đắng của đời.
Và đã thương yêu em như một Bà Trời.
Văn Tế

"C'est l'âge où tout le monde avait vingt-six ans," ["Đó là thời mà đứa nào cũng 26 tuổi"], Gertrude Stein diễn tả những năm tháng tuyệt vời của băng đảng Mẽo của bà, những Fitzgerald, Hemingway, Pound... ở Paris.
Gấu cũng thể nói như vậy, về thưở mới lớn của mình, thập niên 1960, và của băng đảng 'tiểu thuyết mới' ở Sài Gòn.
Thời của Stein là 'thế hệ bỏ đi', bị cuộc chiến chê, còn của Gấu, sắp bị cuộc chiến làm thịt.
*
Thế hệ bỏ đi, cuộc tình bỏ đi. (1)
Thế hệ bỏ đi, như Hemingway kể lại, trong Paris là một ngày hội, gốc gác của nó, là của một tay chủ gara, nơi Stein thường sửa xe. Một lần, "em" mang xế tới, thằng thợ trẻ tỏ ra không sốt sắng lắm trong vụ phục vụ người đẹp. Thế là em méc tay chủ. Tay này mắng thằng nhóc.
Stein sử dụng đúng từ này để đập Hemingway, đám viết lách cà chớn như mấy ông là một thế hệ vứt đi, vì đã được thải ra từ cuộc chiến, theo nghĩa:
-Tụi mày cứt quá, nên cuộc chiến đếch thèm giết.
-Tụi mày tuy sống sót cuộc chiến, nhưng thế nào cũng có bộ phận bị thương tổn, không còn hoạt động được nữa.
*
Ui chao, xém một tí, là súng của Gấu cũng bay vào hư vô, trong vụ ăn hai trái mìn claymore ở bờ sông Sài Gòn!
*
Hình như là Fitzgerald, nói về mình và về Hemingway: Ông nổi tiếng vì thành công, còn tôi, vì thất bại.
Hề Charlot cũng đã từng nói tương tự, về ông và Einstein: Ông nổi tiếng vì chẳng ai hiểu ông, còn tôi, ai cũng hiểu.

“a modern Orpheus", Mabel Dodge Luhan ca ngợi F. Scott Fitzgerald, qua cuốn  Cuộc Tình Bỏ Đi. Một Orpheus hiện đại.

Gấu, “đọc lại” những trang Đà Lạt, viết bên lề Một Chủ Nhật Khác, vớ được cụm từ “a modern Orpheus”, bỗng giật mình ‘ơ ra kìa’ một tiếng, và tự hỏi, tại sao không coi anh chàng Kiệt, như là một Orpheus tân thời, trở về Việt Nam [xuống địa ngục là cuộc chiến khi đó]…

Why not?
Tại sao không?
*

Rồi em sẽ hiểu, nên để người ta coi thường mình

Đoạn văn [chạy ra bưu điện đánh điện cầu cứu Oanh] là đoạn độc nhất đăng trên báo Văn, khi Một chủ nhật khác chưa xuất bản. Như để quảng cáo. Chắc vậy. Cuốn sách viết theo đơn đặt hàng của tay Thành, lúc đó là một đầu nậu trả tiền bảnh nhất Sài Gòn, theo như Hai Lúa còn nhớ.
Nhưng với những ai đã từng quen biết tác giả, hoặc thân thiết, đoạn văn trên có một câu thật quan trọng, và tác giả mượn nhân vật Kiệt nói thay cho mình:
-Rồi em sẽ hiểu, nên để người ta coi thường mình.

Ngoài đời ông không làm sao thực hiện được điều này.
Đó là bi kịch, của riêng ông, và có thể, cũng là của "kẻ sĩ Miền Nam".
Một số nào đó thôi!

Thành thử câu văn trên, thuộc loại "ngoài thời", "time-out", "out of time", ngoài context, ngoài mối tình Kiệt và Oanh. Ở ngoài tác phẩm Một Chủ Nhật Khác.

Rồi em sẽ hiểu, nên để cho người ta coi thường cả một lũ Miền Nam thất trận, là lũ chúng mình.
Như vậy dễ sống hơn....

Phải không?
*

Đúng buổi sáng ngày Kiệt bị quật ngã, chàng mới có quyết định đánh bức điện tín cho Oanh. Chàng đội mưa chạy đến Bưu Điện. Cơn sốt đã bập bùng bên lỗ tai như tiếng sấm. Chàng viết bức điện tín, tay run như đuôi con thằn lằn đứt. Chàng viết, chàng nhớ đúng như in chàng đã nói: S.O.S. Au secours. Bớ người ta cứu tôi với. Kiệt. Kiệt nghĩa là hết sạch, chẳng còn gì, chẳng còn tí tẹo nào. Cô nhân viên Bưu Điện vốn quen vì gặp hàng tuần, trợn mắt:
Ông không điên chứ ông Kiệt?
-Tôi điên chớ, rõ ràng là tôi điên đây thôi.
–Ông nhất quyết gửi bức điện này? 
-Chớ sao nữa, còn gì nữa. Tôi đang cần tiền, hết tiền tiêu rồi, phải kêu kiểu đó mới có tiền. Kiệt cười hộc.
Chàng ra khỏi Ty Bưu Điện chạy xuống hồ lại vòng lên xin rút bức điện lại. Chàng ướt còn hơn buổi sáng đưa Oanh đi. Mưa nhòa hết cảnh vật, nhòa hết cảm xúc, ý nghĩ, và quyết định. Oanh cũng bó tay mà thôi.
Một Chủ Nhật Khác

Oanh cũng bó tay mà thôi.

Tuyệt!
*

… vào đúng lúc chàng gặp tai nạn, bị thương nặng, suýt chết, sau khi thoát chết, ra khỏi nhà thương lần đầu tiên, vị bác sĩ hẹn hai tháng sau trở lại để tháo plâtre và giải phẫu thêm một lần nữa, vào đúng dịp sinh nhật của chàng, sinh nhật lần thứ ba mươi mà cũng là sinh nhật lần thứ nhất, nàng nói, "Je serai ta femme."

Một độc giả TV, cũng lâu rồi, đọc mẩu trên, mail, khen GNV, cái ‘ẩn dụ’, “sinh nhật lần thứ ba mươi mà cũng là sinh nhật lần thứ nhất”, tuyệt cú mèo. 

Ui chao, mới lúc nãy, lọ mọ đọc Gulag, thấy me-xừ Solz ‘thuổng’ ẩn dụ trên đây của Gấu, để kết thúc Quần đảo ngục tù [bản rút gọn được phép]:
I am finishing it in the year of a double anniversary (and the two anniversaries are connected): it is fifty years since the revolution which created Gulag, and a hundred since the invention of barbed wire (1867).
This second anniversary will no doubt pass unnoticed.
Ryazan-Ukryvishche
April 27, 1958-February 22, 1967
Tôi viết xong cuốn sách này, đúng trong cái năm kỷ niệm đúp: Kỷ niệm 50 năm cuộc Cách Mạng đã sáng tạo ra Quần đảo ngục tù, và 100 năm sáng tạo ra dây kẽm gai.
Cái cú sáng tạo thứ nhì thì ít khi được kỷ niệm!

Bạn đọc Dọc Đường sau khi đọc Trước Pháp Luật (1) thì thật là tuyệt vời. Cái nọ bổ túc cho cái kia. Có vẻ như, khi Kafka chấm dứt câu chuyện của ông, là bởi vì biết rằng, sau này, sẽ có một người viết tiếp nó!
Theo nghĩa, cái thằng người nhà quê của ông, sau đó, vô được bên trong, nhưng, tới lúc đó, mới ngã ngửa ra là:
-Không phải đây…
-Vậy tía quên hay tía lầm đường rồi. Tiá ráng đợi đây đón xe sau mà về.

Hình như, có lần Phạm Thị Hoài, [vẫn hình như], khi phải giải thích, truyện của bà có hơi hướng Kafka, đã trả lời:
-Kafka là người Việt Nam!
Nguồn

(1) Đây là câu chuyện một người nhà quê ra tỉnh, tới trước "Pháp Luật", tính vô coi cho biết, nhưng bị người lính gác cản lại. "Anh vô được mà, nhưng đợi chút xíu nữa đi". Chờ hoài chở hủy, chút xíu nữa đi hoá ra là cả một cuộc đời. Trước khi chết, anh nhà quê phều phào hỏi, tại sao chỉ có một mình anh tính vô chơi, coi cho biết; người lính gác nói: cửa này chỉ mở ra cho anh, tôi đứng đây, cũng chỉ vì anh; nhưng bây giờ anh đâu cần tới nữa, và tôi cũng xong bổn phận ở đây. Nói xong anh bỏ đi.


*


*

Phép lạ bí ẩn
Jorge Luis Borges

LE MIRACLE SECRET

Et Dieu le fit mourir pendant cent ans, puis il le ranima et lui dit:
- Combien de temps es-tu resté ici?
- Un jour, ou une partie du jour,
répondit-il.
Coran, II, 261.

Và Thượng đế làm anh ta chết đi suốt một trăm năm, và rồi Người cho sống lại và nói:
"Mi ở đây bao lâu rồi?"
"Một ngày, hay một phần của ngày," anh ta trả lời.
Koran, II 261

Lời người dịch: Vào một buổi sáng tháng Tư, có một người, khi nhìn những đoàn quân tiến vào thành phố, đã vui mừng thốt lên, như vậy là ta sẽ chẳng bao giờ phải viết nữa. Trước đó có một người, thay vì đếm những giờ phút cuối cùng của đời mình, mơ Đức Phật trở lại với thế gian này. [HHT]
Đọc Borges, tôi bỗng nhớ đến họ. Và xin tặng bản chuyển ngữ cho những ai đã từng được Thượng Đế ban cho một phép lạ bí ẩn, như nhân vật trong truyện...
NQT

Truyện ngắn này, của Borges, vừa đọc vài hàng, là Gấu bèn nhớ liền đến lần gặp gỡ nhà thơ, liền sau 30 Tháng Tư 1975, khi Gấu vừa ra khỏi một trung tâm “rehab”, bèn lấy cái vespa chạy qua Gia Định, đến con hẻm nhà ông, vô nhà, xin ông một cuốn Một Chủ Nhật Khác. Ông lôi sách ra, viết vài hàng, ký một phát, rồi kéo Gấu tới một quán cà phê trong một con hẻm cũng gần nhà.
Trong khi trò chuyện, ông nói, có vẻ cũng có chút ngậm ngùi, vậy là khỏi phải viết nữa…
Cũng trong lần đó, ông phán, Miền Bắc sẽ bị chấn thương nặng nề vì chiến thắng này!

Vào lúc đó, VC chưa đưa ra cái lệnh 10 ngày học tập cải tạo. Gấu cũng chưa trải qua 3 ngày học tập cải tạo ngay tại cơ quan Bưu Điện.

Truyện ngắn này, quả là thật là tuyệt vời. Nó tiên đoán cả cuộc phần thư liền sau đó.
Và có thể, còn tiên đoán, sự ra đời của GNV, lần thứ nhì, và trang TV.
Hà, hà!
*
Gần rạng đông, anh mơ thấy tự giấu mình, ở một trong những gian, tại thư viện Clementine. Một người thủ thư đeo kính đen hỏi anh: Anh kiếm gì? Hladík trả lời: Thượng Đế. Người thủ thư bảo anh: Thượng Đế ở một trong những con chữ, của một trong những trang, của một trong 400,000 bộ, của [thư viện] Clementine. Cha tôi, và những người cha của những người cha của tôi, đã tìm kiếm con chữ này. Tôi trở nên mù cũng chỉ vì tìm nó. Ông gỡ cặp kính, và Hladík nhìn thấy mắt của ông đã chết. Một độc giả bước vào, mang trả cuốn atlas. Cuốn atlas này vô dụng, ông ta nói, và đưa nó cho Hladík, anh mở ra theo ngẫu nhiên. Trong một thoáng bàng hoàng, anh nhìn thấy bản đồ xứ Ấn độ. Đột nhiên hết sức tự tin về mình, anh chạm vào một trong những con chữ nhỏ bé nhất. Một giọng như có ở khắp nơi, nói: Thời gian cho tác phẩm của mi đã được chấp thuận. Hladík giật mình thức giấc.
Phép lạ bí ẩn

Thời gian cho trang TV của mi, đã được chấp thuận!

Quái, là bây giờ, đọc lại, GNV như lại văng vẳng nghe, âm thanh của bản Exodus, được đài phát thanh Sài Gòn chơi, như nhạc nền, suốt ngày đêm, những ngày Mậu Thân!

5 năm TTT ra đi

Tôi không còn cô độc vì đã tìm thấy cô độc ở nơi không thể cô độc
NL

TTT đề tặng thơ, trong Tôi không còn cô độc, hay Liên Đêm..  là để ‘nói lên’ cái ý 'tôi không còn cô độc'.
Tinh thần của tập thơ là trong bài thơ viết về Cách Mạng Hung, mà ông mong, Việt Nam cũng có một cuộc cách mạng như thế.
Còn trong Thơ ở đâu xa, đề tặng, đa số là bạn tù của ông.

Đâu có ẩu tả như DTL. Ai khen thơ bạn ta, là bạn ta tặng!
Bạn ta đúng là thi sĩ, một thứ thi sĩ tán gái vào loại thầy!

Còn chuyện DTL về VN, thì nhảm quá. Đọc trên blog ông thì biết:

hiennguyen@yahoo.com  Chúng tôi tò mò muốn biết ông đã quen nhà thơ Du Tử Lê như thế nào? Khi nào?

Nguyễn Trọng Tạo: Tôi đọc thơ Du Tử Lê từ trước 1975 do tình cờ có được những tờ báo Sài Gòn in thơ anh, rồi sau là đọc tập thơ anh được giải thưởng. Nhưng mãi đến năm 1993 tôi mới gặp anh (cùng đi với 2 người phụ nữ gốc Huế). Anh từ Mỹ về Huế tìm tôi và Hoàng Phủ Ngọc Tường. Anh nói rằng, định tìm lần trước nhưng ngại, nay liều gõ cửa. Anh đến nhà tôi, và như đã quen từ lâu lắm. Các nhà thơ với nhau vẫn thế. Tôi bày tiệc rượu đón anh, mời cả Hoàng Phủ Ngọc Tường đến. Chúng tôi ngồi với nhau đến khuya mới tiễn khách về bằng xe máy. Anh Tường chở Du Tử Lê, tôi chở 2 cô gái Huế bạn anh. Đến ngã tư cầu Tràng Tiền thì bị công an huýt còi. Nhận ra tôi, một anh công an nhắc vui: Lần sau anh Tạo chỉ nên chở 1 o thôi kẻo xe quá tải cháy máy đó.
Sau đó tôi chuyển ra Hà Nội. Nhiều lần về nước Du Tử Lê thường gọi cho tôi, rồi chúng tôi gặp nhau khi ở nhà tôi, khi ở khách sạn anh ở. Và tôi rất vui khi vẽ bìa “Du Tử Lê Thơ Tình” cho anh. Vợ anh bảo, đó là cái bìa thích nhất trong 40 bìa sách của anh Lê. Tiếc là cuốn sách đó phát hành ở Việt Nam không được suôn sẻ.
Blog DTL

Thú thực, Gấu chẳng thấy ‘vẫn thế’ gì cái chuyện liều gõ cửa cả!
Bạn ta, thân phận nhà thơ, còn thân phận một anh sĩ quan Ngụy. Nghe nói đã từng bị VC hăm làm thịt nữa chứ!
NTT cũng đâu phải thứ thường. Những chi tiết chở đi hai cô gái Huế bạn anh...  coi chừng cháy máy... đểu giả lắm đấy!

Thì cũng 'các nhà thơ với nhau vẫn thế'!
NQT

Hãy cho anh khóc bằng mắt em
Những cuộc tình duyên Budapest

Hãy cho anh khóc bằng mắt em
Những cuộc tình duyên Budapest
Anh một trái tim em một trái tim
Chúng kéo đầy đường chiến xa đại bác
Hãy cho anh giận bằng ngực em
Như chúng bắn lửa thép vào
Môi son họng súng
Mỗi ngã tư mặt anh là hàng rào

Hãy cho anh la bằng cổ em
Trời mai bay rực rỡ
Chúng nó say giết người như gạch ngói
Như lòng chúng ta thèm khát tương lai
Hãy cho anh run bằng má em
Khi chúng đóng mọi đường biên giới
Lùa những ngón tay vào nhau
Thân thể anh chờ đợi
Hãy cho anh ngủ bằng trán em
Ðau dấu đạn
Ðêm không bao giờ không bao giờ đêm
Chúng tấn công hoài những buổi sáng
Hãy cho anh chết bằng da em
Trong dây xích chiến xa tội nghiệp
Anh sẽ sống bằng hơi thở em
Hỡi những người kế tiếp

Hãy cho anh khóc bằng mắt em
Những cuộc tình duyên Budapest
12-56

Nhân loại ngày càng biết ơn cuộc cách mạng Hung, vì nếu không có nó, có thể Châu Âu đã bị nhuộm đỏ. Ngay khi vừa xẩy ra. TTT đã làm thơ chào mừng, đủ biết, tính ‘tiên tri’ của ông!

Miền Bắc sẽ bị chấn thương nặng nề…!
*
Anh từ Mỹ về Huế tìm tôi và Hoàng Phủ Ngọc Tường.

Quái thật! Đọc câu này, Gấu lại nhớ đến Bố Già, lần gặp tên Đường Thổ, từ chối làm business ma tuý, và ông con cả sủa bậy một câu, tiền nhiều lắm đấy; khách vừa ra, là ông bố mắng thằng con, [mắng sao nhỉ?], và ra lệnh cho tên sát thủ số 1 tìm đường lặn vô Ngũ Đại Gia nằm vùng.
Cả cuốn truyện mở ra từ chi tiết này.
Biết đâu đấy, cái cú "thi sĩ của chúng ta" đi gặp đại sát thủ có khi lại hàn gắn được vết thương Mậu Thân!
Mong lắm thay!
Mong cái con khỉ!
Chán quá, thì có!
Chán cả hai thằng!
Thằng đi gặp, và thằng kể lại cái cú “nhà thơ của chúng ta” xin yết kiến đại sát thủ!
*
Mỗi lần Gấu nhớ đến Một chủ nhật khác, là cùng lúc, nhớ đến Dịu dàng như đêm, Tender is the Night, của Fitzgerald.

Quả có một liên hệ tình cảm giữa hai cuốn, thật.
Đoạn sau đây, mà chẳng đúng là câu thơ ‘Ôm em trong tay mà đã nhớ em những ngày sắp tới’ ư?

Chàng nhớ bữa đó cỏ thì ướt. Nàng chạy tới chàng, và đôi dép của nàng ướt đẫm sương. Nàng ôm lấy chàng, tựa trên đôi giầy của chàng, và khuôn mặt nàng mở ra như một trang sách.
"Hãy nghĩ anh yêu em đến là chừng nào. Em không đòi hỏi anh lúc nào cũng yêu em nhiều như lúc này, nhưng em xin anh một điều, hãy nhớ đến em. Cho dù mai sau có như thế nào, thì em vẫn đinh ninh một điều, em có ở trong em, điều em có chiều hôm nay."
F.S. Fitzgerald: La Fêlure [Vết nứt. Nguyên tác tiếng Anh: The Crack-up]

Vết nứt đó, là vết nứt của một người. Của Scott, chính xừ luỷ.
Và của Kiệt!
*
Tôi đọc thơ Du Tử Lê từ trước 1975 do tình cờ có được những tờ báo Sài Gòn in thơ anh…
NTT

Ui chao, một kỷ niệm lý thú như thế này, mà nhà thơ không viết rõ hẳn ra. Báo nào, bài nào, và nó có làm nhà thơ có một ý niệm khác về nhà văn nhà thơ Ngụy ác ôn côn đồ, nợ máu nhân dân..  hay không?

Ấy là vì Gấu cũng có những kỷ niệm thú vị như thế, từ một vài người. Ông cậu của Gấu, chẳng hạn. Ông làm ban tuyên huấn, có dịp đọc báo Ngụy, thấy tên NQT trên tờ nhật báo Điện Tín, đoán ngay ra là thằng cháu, vì từ hồi còn nhỏ, ông đã biết thằng bé có tí mầm văn nghệ văn gừng.
Hay là một nhà văn nổi tiếng ở Miền Bắc, gặp lần đầu trong chuyến lần đầu trở về lại Đất Bắc. Ông cho biết, đọc GNV từ trước 1975, cuốn Những Ngày Ở Sài Gòn.
Nhà văn Thọ Muối, khi Trịnh Công Sơn chết, chẳng đã đi một đường hoài niệm, những ngày nghe lén đài địch, trên đường xẻ dọc Trường Sơn, tình cờ vớ được nhạc Trịnh, phê quá, tính quay đầu ngựa trở về lại Thăng Long, bỏ giấc đại mộng ăn cướp Miền Nam!
Bạn DTL của Gấu hình như càng ngày càng lậm đám nhà văn nhà thơ Bắc Kít. Trên trang net của ông sau cú phỏng vấn ông nhà văn VTH, tới nhà thơ NTT đếch thèm phỏng vấn đám bạn Ngụy cũ của ông!
Hay là cũng đến tuổi ngựa Hồ hí gió Bắc rồi!
Lần phỏng vấn VTH, Gấu tính đi một đường hỏi ông ta, có phải chôm cái tít “Đêm giữa ban ngày” của Koestler?
Cái tay nhà thơ NTT này, có lần trên trang net của ông, ông post một bài về Murakami, cái tay viết bài đi một đường cà chớn, ông nhà văn Nhựt bổn này, vì quá mê văn học Niên Xô, khi còn trẻ đã dịch qua tiếng Nhật, cuốn Ruồi Trâu!
Gấu viết mail, cho biết, đếch phải.
Ông vờ.
NQT
*


Thư tín:
Re: "Những người yêu thơ DTL thì không đọc được Tin Văn, và ngược lại..."
Câu này, là Gấu chọc quê bạn DTL, chứ không thực.
Sorry abt that.
Trên TV có rất nhiều dòng viết về thơ DTL. Gấu có nhiều kỷ niệm về thơ DTL, và về DTL
Kính
NQT
 Trang Thơ DTL

Thanh Xuân

*

Note: Một độc giả, chắc là bạn của nhà thơ, gửi TV.
Mấy dòng thơ TTT viết cho con trai, không biết có phải người đã mất trong một lần vượt biển? (1)
Tks. NQT
(1)
Ít ai biết ông có một người con trai bị mất tích trên đường đi tìm tự do sau 1975.
Nguồn


Họ vẫn còn và Em vẫn còn
và viết cho những ai nữa…

MT
có những đầy vơi trên cốc rượu
có trắng một màu tuyết với đông
có dáng ai ngồi chân chữ ngũ
đậy chặt nút chai rượu với người

CT
có lá rơi đầy không thứ tự
có vàng ươm đẫy những mùa thu
có đôi chân cũ xào xạc cũ
nhốt tiếng dương cầm trong ngón tay

TTT
có hoa có cỏ và lệ đá
có tiếng xuân về gọi vang vang
có ai về gióng hồi chuông mới
khép lại một lần với lưu vong

DT
có đen có trắng không hơn kém
có bóng hạ mềm rũ trên môi
có bàn chân sỏi đều trên cát
ngày tắt trên nền khung vải đen

Và Em
có tháng năm già hơn tất cả
có em độ lượng với thời gian
có bờ ngực dậy cho tôi thở
những biến thiên thầm cõi ba sinh
Đài Sử

Note: Tuyệt cú. Thần cú!
Bài thơ nào ứng với ông nấy. Nhưng tuyệt nhất, là khúc sau cùng:
Có tháng năm già hơn tất cả.
Câu này làm nhớ Brodsky:
Bao thơ tôi, ít nhiều chi, là về cùng một điều - về Thời Gian. Về thời gian làm gì con người.
"All my poems are more or less about the same thing – about Time. About what time does to Man."
Joseph Brodsky.

*

Tác phẩm thành công nhất của Nguyễn Khải, là cuốn Thời gian của người, với nhân vật Quân, mà nguyên mẫu ngoài đời là Cao Bồi, bạn của Gấu: của những buổi uống cà phê buổi sáng tại Quán Chùa, và của một, hoặc hai là cùng, lần cùng ngồi trên chiếu xì tại căn nhà nhà nước phát cho Gấu, tại chung cư 29 Nguyễn Bỉnh Khiêm Sài Gòn.
Gấu quen Cao Bồi, như trí nhớ còn nhớ được, là lần đang ngối uống cà phê sáng tại Quán Chùa [La Pagode], với ông anh nhà thơ, thì anh tới bàn, và tự nhiên kéo ghế ngồi xuống. Đó là sau khi Diệm chết ít lâu, nhờ vậy, báo chí ngoại nở rộ theo mức tăng trưởng của cuộc chiến, và những hứa hẹn khủng khiếp của nó.
Khi còn Diệm, báo chí ngoại bị canh chừng tối đa. Gấu đã từng kể là, chỉ một vài tấm hình đặc biệt, đảo chính đảo chiếc, là hãng tin cũng phải cho người đi máy bay tới Tân Sơn Nhất, theo kiểu quá giang, gặp một người ở Sài Gòn, lấy món hàng, và lên máy bay đi tiếp.
Sau này, khi đất nước lâm cơn băng hoại về đủ thứ, nhất là về đạo đức, nhìn lại Gấu có cảm tưởng, cái giống dân Mít, khi được ông Trời cho ra đời, là chỉ để nhắm tới đỉnh cao 30 Tháng Tư 1975. Mít cứ nghĩ, đuổi giặc, thống nhất đất nước, là xong, là muốn cái chó gì cũng có!
Nói một cách khác, bất cứ một anh Mít nào cũng bị con vi rút Thiên Sứ cắn trúng!
Gấu cũng bị nó cắn trúng ngay khi đi tù VC, thế mới tếu. Bởi vậy, khi đọc cái cảnh hồi đầu Cách Mạng, VC sử trảm mấy anh Việt gian, trước khi chết, Việt gian hô lớn Hồ Chí Minh muôn năm, là chuyện có thiệt!
Ông số 2, Rubachov trong Đêm Giữa Ngọ của Koestler, cũng rứa.