*


Hồ sơ v/v TCS
bị x VC hăm xử tử
1 Ban Mai viết về TCS
2 Ta Lo trả lời Ban Mai



Hàng trăm ngàn hộ dân di cư tới Tây Nguyên

Nguồn BBC
Thì vẫn chân lý Nước Việt Nam Là Một!


Hay là cũng giống như Ngày Lên, "Le Jour Se Lève...."?

Ngày Lên, Le Jour se lève, thực sự không liên can tới chân lý Nước Việt Nam Là Một, mà liên can tới... Trịnh Công Sơn!
Duyên do là như thế này.
Trên tờ TLS số đề ngày 7 Tháng Bẩy, 2006, mục Thư Độc Giả, có một tay viết cho tòa soạn, nói rằng là, trong bài của Philip French, điểm những cuốn sách viết về Phim Đen, Film Noir, số 5 Tháng Năm, có nhận xét, sự kiện, nguyên bản phim Ngày Lên, Le Jour Se Lève, đã được rút ra khỏi thị trường, một vài năm, là để bảo vệ phim mới, làm lại theo phim cũ, a remake, của Hollywood.
Câu chuyện nó khốn nạn hơn nhiều, theo độc giả này. Hãng phim của Mẽo, RKO đã cho những nhân viên của họ tới nước Pháp, lúc đó còn chính quyền Vichy, để thu gom tất cả những phim cũ, và đem đốt bỏ. Sau chiến tranh, may còn sót vài phim, ở những rạp nhỏ tại vùng đồng quê, và chính là một trong những phim này được Pauline Kael đem tới Berkeley chiếu, trong một rạp do bà làm chủ. Muốn biết rõ, thì vô website The New York Film Annex.

Nhưng chuyện này thì có mắc mớ gì đến Trịnh Công Sơn?
Có tí ti. Ấy là do một bài viết về ông, trên talawas.
Người viết bài này, chỉ ra một chi tiết, là TCS, do đã từng coi cuộc kháng chiến thần thánh chống Mẽo cứu nước do Đảng ta lãnh đạo, chỉ là một cuộc nội chiến, cho nên bị một ông VC hăm he, từ những ngày đó, là, nếu chiếm được Miền Nam thì sẽ đem TCS ra làm thịt!

Cái thư của VC Ta Lo có quá nhiều vấn đề. Thử nêu đại khái.
1. Cái tên Ta Lo có vấn đề.
2. Cái trò tán bậy về nhan sắc của tác giả bài viết, về cách xưng hô [Thưa Chị hay không Thưa Chị], văn phong bài viết...  có vấn đề.
3. Tại sao Ta Lo, mà không phải là người hăm làm thịt TCS, lên tiếng?
... vân vân và vân vân.
*
Về vụ tại sao me-xừ VC Lê Hiếu Đằng, người Ban Mai cho rằng, đã hăm he xử tử TCS - theo một bài đã đăng trên tờ Người Việt ở Mẽo, như Ban Mai cho biết -, đã không lên tiếng trả lời, cải chính, duyên do của nó lằng nhằng lắm. Nó làm Gấu nhớ đến ba ngày học tập cải tạo tại chỗ, tại cơ quan Bưu Điện ngày nào.
Anh cán bộ quản giáo bữa đó tỏ ra rất bực, về chuyện, theo như anh ta kể, là, anh ta nghe thấy có dư luận từ đám Nguỵ, 'thằng' Ngô Đình Diệm là bạn của Bác Hồ. 'Thằng' NĐD đã từng nói chuyện với Bác Hồ, nếu Bác đồng ý, thì nó sẽ lên tiếng yêu cầu Mẽo rút quân, hai miền Nam Bắc ôm lấy nhau, thống nhất đất nước, thằng NĐD đã từng vấn an Bác Hồ, mỗi lần sinh nhật Bác...
Anh cán bộ quản giáo bực lắm. Mặt anh ta đỏ gay, phán: Làm sao một thằng bán nước như NĐD lại là bạn của Bác Hồ!

Cái lý do VC Lê Hiếu Đằng không lên tiếng, là cũng y chang: Làm sao tao là VC chính gốc, chính hiệu, lại phải lên tiếng, nói chuyện với một tên Ngụy!
Đây cũng là lý do, khi talawas viết thư ngỏ gửi nhà nước, nhà nước đếch thèm trả lời!
*
Nhưng thảm hơn nữa, là, chính cái đám Nguỵ lưu vong đó, nó cũng cảm thấy như vậy!
Ít ra là ở nhà văn.
Nhà văn Sebald, khi ông cảm tạ nhà nước Đức đã ban cho ông vinh dự, là thành viên của Viện Hàn Lâm, đã nói ra cái cảm giác đó.

Một lần tôi nằm mơ, và cũng như Hebel, tôi có giấc mơ của mình ở trong thành phố Paris, ở đó, tôi bị lột mặt nạ, và trơ ra, là một tên phản bội quê nhà, và một tên lừa đảo. Nhưng, chính vì những nghi hoặc như thế đó, mà việc nhận tôi vô Hàn Lâm Viện thật rất là đáng mừng, nó có vẻ như một nghi thức sửa sai, phục hồi mà tôi chưa từng hy vọng.
Phát biểu khi là ông Hàn
*
Bản thân Gấu cũng đã từng gặp 'vài' trường hợp tương tự!
Cái cảm giác bị lột mặt nạ, trơ ra, là một tên phản bội gì gì đó, Gấu đã từng cảm thấy, những ngày sau ba ngày cải tạo, được thu dụng trở lại, vào ngày thứ bẩy cuối tuần, bị đuổi cổ ra khỏi phòng, để mấy ảnh họp chi bộ.
Gấu cũng đã từng kể lại chuyện này, nhân vụ talawas bị tường lửa.
Talawas bị tường lửa


*
The Archimede Palimpsest
Sự thực nằm trong đó, đó.

Đọc bí kíp viết trên tấm da lừa của Archimede.
Đọc Kim Dung, chắc bạn còn nhớ cảnh Vô Kỵ học bí kíp Càn Khôn Đại Nã Di cùng cô em Tiểu Siêu, ở trong đường hầm đưa lên đỉnh Quang Minh Đỉnh. Mấy dòng chót, đọc không ra, chàng cố tập, bị tẩu hoả nhập ma, xém đi luôn.
 

Bi giờ, nhờ kỹ thuật đọc cái không thể đọc, reading the invisible, đám chuyên gia Đại học Stanford đã đọc được rồi, nhưng, thay vì đọc Càn Khôn Đại Nã Di, họ cố đọc đọc mấy trang chót trên tấm da lừa của thiên tài Archimede để lại.
Archimede of Syracuse được coi như một tổ sư toán của nhân loại, người đã chứng minh ra được bản chất của cái vô cùng, và tính ra được con số "pi". Ông còn là người khám phá ra luật tỉ trọng, và cứ thế, đang tắm, trần truồng chạy ra đường la lên, eureka, kiếm thấy nó rồi. Người ta tin rằng, mấy tay học giả ở Stanford cũng đang chờ để la lên "eureka", như Archimede ngày nào, khi đọc được mấy trang chót của bí kíp Càn Khôn Đại Nã Di của ông tổ sư toán này.

Koestler tin rằng là những nhà khoa học cũng giống như mấy tên mộng du. Họ kiếm thấy những định luật này nọ, trong khi mộng du. Trong tình trạng hoàn toàn tỉnh táo, là không kiếm thấy!
Và ông viết cả một cuốn sách về đề tài này: The Sleepwalkers. Gấu đọc bản tiếng Tây, những ngày ngồi Quán Chùa.
Tuy nhiên, theo Gấu tui, bạn, muốn thấy, thì phải tìm. Tìm sẽ thấy, gõ sẽ mở.
Nói rõ hơn, bạn phải ở trong trạng thái tìm, thì mới kiếm thấy được.
Archimede, như một giai thoại tuyệt vời kể lại, bị ám ảnh bởi một thách đố, đúng ra, một bài toán khó, do nhà vua đưa ra, liên quan tới vương miện bằng vàng, bị ông thợ tráo bạc vô. Nhà vua biết, nhưng không làm sao chứng minh, vì đem cân vương miện vẫn nặng như cũ. Bèn kêu ngài tổ sư toán.
Archimede đang lúc đó, bị đau đầu bởi hai hiện tượng vật lý hoàn toàn chẳng liên quan gì tới nhau: vật bỏ vô nước, nước dềnh lên.
Và ông đã chứng minh bài toán ăn cắp vàng bằng cách:
1. Bỏ vương miện nguyên vàng vô nước, đánh dấu mực nước dềnh lên.
2. Bỏ vương miện có lẫn bạc vô nước, đánh dấu mực nước.
Hai mực nước khác nhau.
Luật tỉ trọng ra đời, nối thành một mạch hai hiện tượng vậy lý: vật bỏ vô nước, bị nước đẩy lên, sức đẩy bằng trọng lượng khối nước bị vật choán chỗ.

Như vậy, bạn phải đau đầu với một cái gì đó, thì mới kiếm thấy nó. Chứ không thể mộng du khơi khơi được.

Gấu tôi tin rằng, bất cứ một tuyệt phẩm nào ở trên đời, đều đã từng hành hạ người sáng tạo ra nó, y hệt như Archimede đã từng bị hành hạ.
Ngày nay, chẳng còn ai nhớ đến những cơn đau đầu của ông. Họ chỉ biết đến cái luật tỉ trọng. Có khi cũng chẳng cần biết ai khám phá ra nó.
Đó là hạnh phúc của nhân loại.
Của hậu thế, đúng hơn.
Sartre chẳng đã từng phán: Đại tác phẩm giống như sỏi đá, cây cỏ. Chúng 'bầy' ra đấy.
Người ta đọc, sướng điên lên, nhưng có ai hỏi, ở đâu, do đâu, mà có?

Ở trên, Gấu có tán nhảm về cái luật tỉ trọng và những cơn đau đầu của Archimede.
Nhạc TCS, là cũng được sáng tác ra, từ những cơn đau đầu do cuộc chiến hành hạ tác giả, theo Gấu
Đây là điều giải thích, tại sao những người đã từng nghe nhạc ông, ngay từ khi nó được hoàn thành, từng bản, từng bản, đã không thể chịu được cái trò, người ta phá nhạc ông, như ở trong nước đã từng làm.
Bạn nghe, và thích, một bản nhạc, của TCS, là vì, bạn đã từng có lần đau đầu, và lần đau đầu đó, sau này, mỗi lần nghe bản nhạc đó, là nhớ ra, là sống lại.

Sử dụng một cái tên giả, để minh xác giùm cho một người bạn có thật, về một sự kiện chết người - bị gán cho cái tội tầy trời là hăm he xử bắn TCS - chỉ có thể chấp nhận, khi viết một cách thật nghiêm túc, chứ không thể bằng một giọng bỡn cợt được.
Cái thư của me xừ VC Talo, đúng ra, nó thực gắn gọn, đại khái như vầy:
Thưa tác giả bài viết...
Tôi, Ta Lo, bạn của LHĐ, được anh nhờ thay mặt, đính chính...
*
Gấu này, sở dĩ phải sử dụng đến cái tên cúng cơm [NQT], ngay từ những ngày nảo ngày nào, là cũng nhắm, sẽ gặp trường hợp như trên, một khi hung hăng con bọ xít, viết ba cái thứ phê bình điểm sách này nọ...
*
Nhưng ghê gớm, khủng khiếp nhất là, lần vượt biển tại Vàm Láng. Vừa ra khỏi Vũng Tầu là bị bão, rạt trở lại, vào sáng sớm hôm sau. Nhìn trên bãi thấy vẫn còn một cái đầu lâu, của người vượt biển chuyến trước. Mấy người công nhân ruộng muối thản nhiên nói: Đâu phải gặp bão, mà bị mấy anh biên phòng bắn chìm tầu. Mấy ảnh biểu, phản quốc là bắn bỏ!
Viết là Khiếp
Phản quốc? Tội của TCS còn quá phản quốc! Dám gọi cuộc kháng chiến thần thánh chống Mỹ cứu nước là cuộc nội chiến!
*
Vả chăng, cái vụ LHĐ không thể nào đích thân viết thư đính chính, nó liên can đến cả một thời: Thời không mặt. Đây là chữ của Akhmatova, nhà thơ Nga, gọi cái thời của bà: Không mặt.
The human face disappeared and also its divine image. In the classical world a slave was called aprosopos, 'faceless'; litteraly, one who cannot to be seen. The Bolsheviks gloried in facelessness.
[Mặt người biến mất và hình ảnh thánh thiện của nó cũng mất theo. Cổ xưa, kẻ nô lệ bị gọi là aprosopos, 'không mặt'; kẻ không thể bị nhìn thấy. Người CS hãnh diện vì không mặt.].
Như một hình ảnh khủng khiếp của Anna Akhmatova, về Cách Mạng:

As though, in night's terrible mirror
Man, raving, denied his image
And tried to disappear
[Như thể, trong tấm gương kinh hoàng của đêm đen
Con người, rồ dại, chối bỏ hình ảnh của mình
Và cố gắng biến mất]

D.M. Thomas: Alexander Solzhenitsyn, Một thế kỷ ở trong ta.
*
Sở dĩ Bùi Tín, công lao như thế, danh thần như thế, mà đành phải bỏ của chạy lấy người, và bị coi là phản quốc, phản bội, là vì 'dám' đứng ra nhận cái vinh quang, tớ là người chấp nhận cho Dương Văn Minh đầu hàng!
Người thông suốt nhất, về thời không mặt, là người không mặt: Tướng tình báo Phạm Xuân Ẩn.
Chứng cớ: Khi nhà báo hỏi, có phải ông là tác giả bức điện mở cửa Miền Nam cho Yankees mũi tẹt vô thay thế Yankees mũi lõ, PXA trả lời, đây là do Trung Ương đánh giá tình hình, và quyết định, chứ tui có công gì đâu!
Khôn khéo, thông suốt đến như thế mà còn xém bị làm thịt, nữa là cắc cé như... LHĐ!
Trong lịch sử Việt Nam, thời không mặt, chỉ có mỗi một cá nhân dám đứng ra nhận, tớ có mặt, tớ là người đã giết người, đó là nhạc sĩ Văn Cao.
Và ông nói thêm, xin tha lỗi cho tớ, vì tớ đói quá!
*


*
Mật thám Tây hỏi cung, đầu thế kỷ 20 ở Đông Dương.
On croyait que le temps avait fait son oeuvre et apaise les souffrances. Pourtant, aujourd'hui, les descendants des peuples opprimés réclament une vraie reconnaissance. SeuI Ie travail objectif des historiens peut y contribuer.
La colonisation: la Mémoire Vive
La Revue pour l'intelligence du mone, 7-8/2006.
Người ta tưởng thời gian làm xong việc của nó, nghĩa là làm dịu những nỗi đau, nhưng, không phải, ngày nay, con cháu của những kẻ bị bách hại, đòi hỏi một sự hiểu biết chân thực. Chỉ  việc làm khách quan của sử gia có thể làm được điều này.
*

Liên Xô, cái nôi của Cách Mạng Vô Sản, chấm dứt Thời Không Mặt bằng phim TV, Tầng Đầu Địa Ngục, chiếu trên toàn nước Nga, y chang như nó đã được Solzhenitsyn mô tả.

Giả như 'Một Mùa Thu Năm Qua Cách Mạng Tiến Ra' mở ra bằng cảnh, Văn Cao, đói lả người, chờ đồng chí Vũ Quí tại Ga Hàng Cỏ, rồi lừng lững bước vào quán cơm bình dân, như ông miêu tả, trong
Tại sao tôi viết Tiến Quân Ca?, một bài viết có tính 'tự thú trước bình minh', một chứng liệu thực về lòng ái quốc thực [chữ của Manea: an authentic testimony to true patriotism], thì thật tuyệt!
Cảnh tiếp theo thì mọi người biết rồi. Nếu chưa, xin đọc Hoàng Phủ Ngọc Tường, viết về một đêm mất ngủ với Văn Cao.

Tại sao kháng chiến chống Pháp, anh vẫn vẽ, vẫn làm thơ, nhưng người ta không nghe anh hát nữa?
-Hồi nhận viết Tiến Quân Ca, tôi không hề chuẩn bị trước để làm một bài hát, mà một đặc nhiệm nguy hiểm của đội biệt động. Tôi là đội viên biệt động vũ trang. Nhiệm vụ của tôi là trong một đêm, cầm một khẩu súng, vào một thành phố, để giết một người. Tôi đã làm xong việc ấy. Đó là chiến tranh, và căm thù, đơn giản thôi. Những ngày đầu sau chiến tranh, tôi đã trở lại căn nhà ấy, thấy còn lại một gia đình mẹ góa con côi. Làm sao tôi có thể nói điều cần thiết nhất đối với tôi trong những bài hát sau đó? Nói về chiến công, hay phải nói một điều gì khác? Nên tôi im lặng, và chỉ viết nhạc không lời.
Mùa Thu, những di dân

Nhưng mở ra thì phải kết thúc. Gấu đề nghị, cảnh đóng lại cuốn phim, cho Hồi I của nó, là cảnh DTH ngồi khóc, bên vệ đường Sài Gòn, hoặc cảnh một anh bộ đội mở cái ba lô, lấy ra cái bát, anh cất công mang từ Miền Bắc vô, tặng đồng bào ruột thịt Miền Nam, nhìn ngắm nó một hồi, tính ném xuống dòng sông Sài Gòn, ngay chỗ bến đò Thủ Thiêm, nơi ngày xưa biệt động thành cho nổ hai trái mìn claymore, suýt nữa thì lấy đi cái mạng của Gấu này, sau nghĩ sao, lại cất vô ba lô!
Sự cứu rỗi cuối cùng hóa ra lại nhờ ở một cái bát vô dụng!
*
Có thể sẽ có người cảnh cáo, thôi, bỏ những chuyện đó đi, nhạc sĩ Văn Cao cũng đã mất rồi. Nhưng, chính trong tinh thần "Không Còn Thời Không Mặt", những dòng trên được viết ra, đúng như mong ước của Văn Cao, khi ông công bố những chuyện đó.

Một lần, cũng đã lâu, khi còn giữ mục Tạp Ghi cho tờ Văn Học, Cali, tôi, NQT có viết về trường hợp nhà văn Nguyễn Huy Thiệp và những cử chỉ, thái độ hung bạo, cộc cằn, thô bỉ mà ông để cho nhân vật Nguyễn Huệ của ông đối xử với sĩ phu Bắc Hà. Một số cán bộ VC hải ngoại, sau đó, có viết thư cho NMG, cho biết, "vết thương" NHT, theo họ, cũng đã lâu, nhưng như vậy, là "chưa lành", hy vọng, lần này, nó sẽ thành sẹo luôn!

Cũng tinh thần đó, trên tờ Điểm sách Nữu Ước, số mới nhất, có bài tưởng niệm vụ Thiên An Môn, của một người đã có mặt khi nó xẩy ra, và lời hứa của ông, cứ mỗi năm trở lại chốn này, đốt nén hương tưởng niệm. 17 năm, 17 lần, chưa bỏ một lần nào.
*
Lại nói chuyện cái bát!
Một ông bạn văn, nhỏ tuổi hơn, đã từng có thơ xuất hiện trên Trăm Con, đọc cái truyện của Gấu, tới cái đoạn, sau đây, đã lắc đầu, phán, anh dùng từ sai rồi, đoạn này, lúc này, ngày này, là phải là cái bát, chứ không cái tô được!

Bà Nội anh, chồng chết sớm, ở vậy nuôi hai người con trai. Mẹ anh có lần nói về sự hà tiện của cụ. Câu chuyện chắc do cha anh kể lại. Cụ kho một nồi cá, không dám cho con ăn một lần, cứ bắt để dành, sau cùng nồi cá biến thành ròi. Những ngày cuối cùng cụ bị bán thân bất toại, không một người con trai, con dâu nào kế bên, ngoài hai đứa cháu nội còn nhỏ, ham chơi. Tôi không hiểu bằng cách nào anh vẫn còn nhớ ước muốn cuối cùng của cụ.
Cụ thèm một tô phở Trung Hà (tên một thị trấn địa đầu tỉnh Sơn Tây, tiếp giáp Phú Thọ). Tôi nghĩ khi còn trẻ, phải chạy ngược chạy xuôi, buôn bán tảo tần nuôi con ăn học, chắc cụ đã có lần được thưởng thức một bát phở của một tay đầu bếp nhà nghề ở nơi thị tứ đông đúc đó. Đó là hương vị cuối cùng cụ còn giữ được của thế gian này.