Văn
Học Ngụy vs Văn Học VC
TO THE HUNGARIANS
We stand on the border
and hold out our arms
for our brothers for you
we tie a great rope of air
from a broken-off cry
from the fists clenched
a bell is cast a tongue
silent on the lookout
wounded stones plead
murdered water pleads
we stand on the border
we stand on the border
we stand on the border
That is called reason
And we gaze into a fire
and we marvel at death
1956
Zbigniew Herbert: The Collected Poems 1956-1998
Văn chương của ông quan
tâm về nhận thức học (epistemology), vì nhận thức học đi liền với khái
niệm về bản sắc và truyền thống văn hóa.
(1)
Tác giả đặt câu hỏi:
Điều gì làm cho một bản văn (hay bất cứ một cái gì khác) cưỡng lại mọi
cố gắng nhằm hiểu nó" Theo ông, đây là kinh nghiệm cơ bản đối với người
dịch. Và là một kinh nghiệm vừa mang tính đạo hạnh, vừa bỏ ngỏ: "anh
này (one) cố gắng lột trần anh kia (the other), bằng một ngôn ngữ, ở
bên trong khung văn hóa riêng, nhưng anh kia không thể nào bị biến
thành đối vật theo kiểu này, bởi vì anh (cũng lại) thuộc về thế giới
riêng, và không thể bị bứng lên mà không phải dùng tới vũ lực. Cổ đại
La-tinh hiểu điều này, khi gắn dịch với chiến thắng những thành phố,
bắt nô lệ, và cướp bóc của cải."
"Nói ngắn gọn, đây là sự
thành lập đế quốc."
Nhưng dịch có những hậu
quả không thể kiểm soát được. Gần mực thì đen, chơi dao có ngày đứt
tay: người dịch phải đối đầu với một điều vượt ra ngoài căn cước, bản
sắc riêng. Hậu quả là, theo Steiner, "cái kia" (the otherness) chui vào
bên trong chúng ta, làm cho chúng ta thành kẻ khác.... Chẳng thể có
dịch thuật, ngoại trừ dưới điều kiện khủng hoảng tri thức luận (There
can be no translation except under conditions of epistemological
crisis). Nhìn như thế mới thấy một sự thực cay đắng chua chát: chỉ mấy
anh/mấy chị xẩy nhà ra thất thổ, mất quê hương, sống đầu đường xó chợ,
mất mẹ căn cước mẹ đẻ, mới hiểu thế nào là dịch thuật: chiếm tiếng
người làm tiếng mình!
Gặp Gỡ
Cuối Năm
Cái từ epistemology,
thường được dịch là tri thức luận. Và nhìn như thế đó, thì Bình Nguyên
Lộc chưa tới cõi đó. Ông là nhà văn quan tâm tới nguồn gốc của tiếng
Việt, và thế giới truyện ngắn của ông, là Miền Nam của cái thuở mang
gươm đi dựng nước, và của cái thuở chập choạng giữa quê và tỉnh, trong
Đò Dọc, khi Mẽo tới, và làm đảo lộn tất cả.
Cuộc hội thảo
về 20 năm văn học Miền Nam được tổ chức tại toà soạn hai tờ nhật báo
lớn ở
California, Người Việt và Việt Báo, trong hai ngày 6 và 7 tháng 12,
2014 vừa rồi,
gây được tiếng vang khá tốt. Một trong những biểu hiện của tiếng vang
ấy được dội
lên trong một bài viết ngắn của nhà phê bình văn học Vương Trí Nhàn
trên blog của
ông. (1)
Được Vương đại
gia đi đường trên blog cá nhân, thế là sướng điên lên, tiếng vang khá
tốt!
Tếu nhất, là,
than cho cố, văn học Ngụy bất hạnh quá, Vương đại gia bèn an ủi, bất
hạnh
sao bằng văn học VC, thế là bèn, ai bất hạnh hơn ai?
Nếu thế,
thì than thở cái gì nữa.
Đúng là rắn độc
cắn phải lưỡi!
Gấu đã nói rồi,
tên này không biết viết!
Do VC đếch
phải VC, Ngụy không Ngụy - đậu bằng Tú Tài đúng thời hỗn quân hỗn quan
– nên hắn
mù tịt về những nguyên lý cơ bản của luận lý học, như nguyên lý
đồng nhất,
nguyên lý phi mâu thuẫn. Than khóc cho cố, vãi cả đống nước đái, bất
hạnh quá,
nhưng, “ai bất hạnh hơn ai”!
Quả là đéo
thời nào có được!
Hà, hà!
Văn
Học Ngụy vs Văn Học VC
Nguyễn Khải by TDA
“Mọi phê bình
phải được đi trước bằng một phê bình tôn giáo”, “Toute critique doit
être précédée
d’une critique de la religion”. Marx phán [trong Crit. de la Phil. Du
Droit de
Hegel, Henri Lefebvre trích dẫn trong Duy vật biện chứng, Le
Matérialisme dialectique, tr. 53].
Câu trên có
thể áp dụng vào trường hợp Nguyễn Khải.
Ðọc NK là phải đọc trong
cái tinh thần đó,
đúng như ý của ông, trong 1 bài viết có tính tự kiểm, (1) không có
Ðảng là
tôi đã
trở thành 1 vị linh mục, khi ông nhớ lại một lần tà tà đi mua thuốc lá
tại một
cái quầy chắc là gần Nhà Chung Hà Nội, và vị chủ quán đã lầm ông với 1
vị linh
mục.
Hai cú đánh khủng khiếp trong đời NK, là đánh vào mật khu Ky Tô ở đất
Bắc
là Phát Diệm, và những tác phẩm viết về nó, khi ông được Ðảng tin cậy
vì đã chọn
Ðảng, thay vì Nhà Thờ, những ngày sau 1954, sau khi một nửa đất nước
thuộc VC.
Cú thứ nhì là sau 30 Tháng Tư, đánh vào mật khu Cao Ðài, Tây Ninh.
Nên nhớ, lại
nên nhớ, gốc gác của NK, là con quan, thuộc dòng thứ, và suốt đời ông
bị mặc cảm
bị bố bỏ rơi, nên đành chọn Ðảng. Ðó là cái thế 3 ngôi trong đời ông:
Bố Bắc Kít,
Ðảng VC, và Chúa Ky Tô [theo trật tự đại khái!]
(1)
Tôi cô độc bẩm
sinh. Nếu không có cách mạng, chắc tôi là tu sĩ. Một lần tôi đến tìm
ông cha
tìm hiểu về Vatican 2 để viết sách tôn giáo. Trong lúc chờ, tôi ra mua
thuốc
lá. Người bán thuốc nhìn tôi hỏi: "Cha mua loại nào? Con biếu cha bao
diêm". Chắc mặt tôi giống linh mục.
[NK trả lời
phỏng vấn, NGUYỄN THỊ NGỌC HẢI thực hiện, Tuổi
Trẻ online]
Bây giờ chúng
ta có thể hình dung ra được, đi tìm cái tôi đã mất của NK, là đi tìm
một "cái tôi
thần học", qua hình dáng nhập thế của 1 vì linh mục. Hai cú đánh vô tôn
giáo của
NK, là hai cú thất bại, có thể cuối đời ông ngộ ra điều này. Ông bị ông
Bố Bắc
Kít bỏ vô Nam, Chúa bỏ vô Nam, và đành chọn Ðảng. Nhưng Ðảng cũng chỉ
coi ông
là 1 thứ
con rơi, con hoang, không thuộc giai cấp bần cố nông [đọc những gì ông
cà khịa với đám nhà văn được Ðảng tin cậy,
thuộc loại
nồng cốt, chúng viết như kít, có đứa nào bằng tôi đâu!]. Ðó là bi kịch
của nhà
văn NK.
Ông chưa từng
viết về con người, mà là về “một thứ con người” nào đó, “một thứ nhân
danh con
người” nào đó.
NK làm Gấu
nhớ tới Graham Greene, nhất là, câu phán nổi tiếng của ông, nhớ đại
khái: Suốt
đời tôi đi tìm một đấng Thượng Ðế để cho Con Quỉ ở trong tôi uýnh lộn
với ông
ta!
Ðây cũng là
bi kịch của NK, nhưng ở tầm mức thấp hơn, một phần có thể là do mặc cảm
bị bỏ
rơi của NK mà ra. Greene thanh thản hơn, theo nghĩa, bi kịch của ông là
của
chung con người.
Văn của NK độc. Và rất
giống văn VP. Ðiều này do NMG nhận ra, không
phải Gấu.
Ông còn cho biết, hai đấng rất quí tài, và độc, của nhau. Ðiều này thì
NMG,
trong 1 lần đi tour văn học ở trong nước, có tuyên bố.
Nhân vật của
NK hình như không có 1 tay nào lâm vào đường tự tìm cái chết như của
Greene.
Cũng không
phải tự nhiên mà NK viết về PXA, qua nhân vật Quân, trong Thời gian của người.
Tuy nhiên
cái chết ngắc ngoải, không làm sao đi được của PXA ở ngoài đời, NK
không làm sao
tiên tri ra được!
Gấu đã từng
có vinh dự được “nhìn thấy” nhà văn Nguyễn Khải, thời gian lui tới nhà
xb Văn Học,
bộ phận phía Nam, khi nhà này tính tái bản cuốn Mặt Trời Vẫn Mọc bản
dịch của NQT
trước 1975.
Tạ Duy Anh, người dám “bước qua
lời nguyền” viết về Nguyễn Khải:
Nguyễn Khải, một người được
theo nghiệp đèn sách từ bé, không thể
không biết thực tế đó. Bài học về Cải cách ruộng đất, về nhóm Nhân Văn
Giai
Phẩm… buộc ông phải nhớ lại lịch sử. Và vì thế, giống như số đông những
người
được coi là trí thức cùng thời ông ở đất nước này (chỉ tính riêng miền
Bắc, vì
trí thức miền Nam có một số phận riêng), ông đã tìm thấy lý do vô cùng
chính
đáng để vờ quên bản thân mình, đó là lý tưởng vì tổ quốc, vì chủ nghĩa
xã hội.
Lý tưởng đó không hề xấu và không hề ít tính chất thiêng liêng, nếu
người tin
theo nó thật lòng. Nó chỉ đáng trách với những kẻ vờ vịt. Mà những kẻ
đó phần
lớn lại rơi vào thành phần trí thức. Bi kịch mang màu sắc hài kịch của
trí thức
Việt (tất nhiên không tính bọn giả danh trí thức), từ cổ chí kim, chính
là luôn
phải vờ vịt. Vờ vịt, tức là biết rõ nó không phải vậy, nhưng lại cứ
phải làm ra
rằng mình hiểu nó như vậy. Vờ trung thành, vờ kính trọng, vờ cúc cung
tận tụy,
vờ khép mình, vờ lắng nghe, vờ chăm chỉ, vờ ngoan ngoãn, vờ ca ngợi, vờ
thán
phục, vờ yêu… và những thứ vờ vĩnh ấy có thể làm bất cứ lúc nào, bất cứ
chỗ
nào, làm bao nhiêu cũng không sao ngoại trừ chỉ có lợi. Riêng một thứ
không hề
vờ, ấy là sự khinh ghét, thì phải nén lại, giấu thật kỹ kẻo hé ra có kẻ
biết là
tàn đời (mà kẻ rình rập để tố cáo, tâng công thì nhiều như ruồi, ngay
trong
giới trí thức); phải luôn tìm cách nhồi nó xuống, nuốt thật sâu, quên
đi được
thì càng phúc. Còn sống là còn phải quên. Chờ đến ngày sắp lìa đời, nếu
còn
lòng tự trọng, còn thấy hổ thẹn thì viết nó ra để thanh minh và sám hối.
TDA
Ðọc như thế
là chưa nhìn ra thế 3 ngôi [Bố Bắc Kít, Ðảng VC, Chúa Ky Tô], ở Nguyễn
Khải,
và, “có một liên hệ tam giác giữa nhà văn
Nga, độc giả
của người đó, và sự hiện diện đâu đâu cũng có của nhà nước, cả ba quyện
vào
nhau, trong một sự đồng lõa quyết định”, như Steiner viết, trong
UNDER EASTERN EYES:
Lịch
sử Nga là một lịch sử của đau khổ và nhục nhã gần như không làm sao
hiểu được,
hay, chấp nhận được. Nhưng cả hai - quằn quại vì đau khổ, và ô nhục vì
hèn hạ -
nuôi dưỡng những cội rễ một viễn ảnh thiên sứ, một cảm quan về một cái
gì độc
nhất vô nhị, hay là sự phán quyết sáng ngời. Cảm quan này có thể chuyển
dịch
vào một thành ngữ “the Orthodox Slavophile”, với niềm tin của nó, là,
Nga là một
xứ sở thiêng liêng theo một nghĩa thật là cụ thể, chỉ có nó, không thể
có 1 xứ
nào khác, sẽ nhận được những bước chân đầu tiên của Chúa Ky Tô, khi
Người trở lại
với trần gian. Hay, nó cũng có thể được hoá thân vào trong chủ nghĩa
thế tục
thiên sứ [chúng ông đều là Phù Ðổng Thiên Vương cả đấy nhé, như anh VC
Trần Bạch
Ðằng đã từng thổi mấy đấng Bộ Ðội Cụ Hồ], với niềm tin, đòi hỏi sắt đá
của CS về
một xã hội tuyệt hảo, về một rạng đông thiên niên kỷ của một công lý
tuyệt đối
cho con người, và tất nhiên, tất cả đều bình đẳng, hết còn giai cấp.
Một cảm
quan chọn lựa thông qua khổ đau, vì khổ đau, là nét chung của cảm tính
Nga, với
thiên hình vạn trạng dạng thức của nó. Và điều đó còn có nghĩa, có một
liên hệ
tam giác giữa nhà văn Nga, độc giả của người đó, và sự hiện diện đâu
đâu cũng
có của nhà nước, cả ba quyện vào nhau, trong một sự đồng lõa quyết
định. Lần đầu
tiên tôi mơ hồ nhận ra mùi đồng lõa bộ ba này, lần viếng thăm Liên Xô,
đâu đó
sau khi Stalin chết. Những người mà tôi, hay một ai đó gặp, nói về cái
sự sống
sót của họ, với một sự ngỡ ngàng chết lặng, không một khách tham quan
nào thực
sự có thể chia sẻ, nhưng cũng cùng lúc đó, cùng trong giọng ngỡ ngàng
câm nín
đó, lại ló ra một hoài niệm, tiếc nuối rất ư là kỳ quái, rất ư là tế
vi. Dùng
cái từ “hoài niệm” này thì quả là quá lầm lẫn! Nhưng quả là như thế,
tếu thế! Họ
không quên những điều ghê rợn mà họ đã từng trải qua, nhưng họ lại xuýt
xoa, ui
chao, may quá, những điều ghê rợn đó, chúng tôi được Ðại Ác Nhân ban
cho, được
một Hùm Xám thứ thiệt ban cho, chứ không phải đồ gà chết! Và họ gợi ý
rằng, chỉ
cái sự kiện sống sót tại Nga dưới thời Xì Ta Lin, hay dưới thời Ivan
Bạo Chúa
là một bằng chứng hiển nhiên về nguy nga tận thế hay về lạ kỳ sáng tạo
của số mệnh,
Cuộc bàn luận giữa chính họ với sự ghê rợn thì mang tính nội tại, riêng
tư, cá
nhân. Người ngoài, nghe lén được thì chỉ biểu lộ sự rẻ rúng, hay đáp
ứng bằng 1
thái độ sẵn sàng, dễ dãi.
Những đại văn hào Nga là như thế đó. Sự kêu gào tự do của họ, sự rất ư
bực mình
của họ trước cái lương tâm ù lì của Tây Phương, thì rất ư là rền rĩ và
rất ư là
chân thực. Nhưng họ không chờ đợi được lắng nghe hay được đáp ứng bằng
một thái
độ thẳng thừng, ngay bong. Những giải pháp thì chỉ có thể có được, từ
phía bên
trong, theo kiểu nội ứng với những chiều hướng thuần sắc tộc và tiên
tri. Nhà
thơ Nga sẽ thù ghét tên kiểm duyệt, khinh miệt lũ chó săn, đám côn đồ
cảnh sát
truy nã anh ta. Nhưng anh ta sẽ chọn thế đứng với chúng, trong 1 liên
hệ có
tính cần thiết nhức nhối, cho dù đó là do giận dữ, hay là do thông cảm.
Cái sự
kiêu ngạo nguy hiểm, rằng có một mối giao hảo theo kiểu nam châm hút
lẫn nhau
giữa kẻ tra tấn và nạn nhân, một quan niệm như thế thì quá tổng quát,
để mà xác
định tính chất của bàu khí linh văn Nga. Nhưng nó gần gụi hơn, so với
sự ngây
thơ tự do. Và nó giúp chúng ta giải thích, tại sao cái số mệnh tệ hại
nhất
giáng xuống đầu một nhà văn Nga, thì không phải là cầm tù, hay, ngay cả
cái chết,
nhưng mà là lưu vong qua Tây Phương, một chốn u u minh minh rất dễ tiêu
trầm,
may lắm thì mới có được sự sống sót.
Với
đám cầm bút Bắc Kít, vấn nạn nghiêm trọng hơn nhiều.
Hơn cả “Dưới cái nhìn Ðông Phương” của Steiner!
Ðằng sau tất cả những cay đắng nhục nhã như thế, là giấc mộng
thống nhất đất
nước.
Cuộc hội thảo
về 20 năm văn học Miền Nam được tổ chức tại toà soạn hai tờ nhật báo
lớn ở
California, Người Việt và Việt Báo, trong hai ngày 6 và 7 tháng 12,
2014 vừa rồi,
gây được tiếng vang khá tốt. Một trong những biểu hiện của tiếng vang
ấy được dội
lên trong một bài viết ngắn của nhà phê bình văn học Vương Trí Nhàn
trên blog của
ông. (1)
Được Vương đại
gia đi đường trên 1 blog cá nhân, thế là sướng điên lên, tiếng vang khá
tốt!
Tếu nhất, là,
than cho cố, văn học Ngụy bất hạnh quá, Vương đại gia bèn an ủi, bất
hạnh
sao bằng văn học VC, thế là bèn, ai bất hạnh hơn ai?
Nếu thế,
thì than thở cái gì nữa.
Đúng là rắn độc
cắn phải lưỡi!
Gấu đã nói rồi,
tên này không biết viết!
Do VC
đếch
phải VC, Ngụy không Ngụy - đậu bằng Tú Tài đúng thời hỗn quân hỗn quan
– nên hắn
mù tịt về những nguyên lý cơ bản của luận lý học, như nguyên lý
đồng nhất,
nguyên lý phi mâu thuẫn. Than khóc cho cố, vãi cả đống nước đái, bất
hạnh quá,
nhưng, “ai bất hạnh hơn ai”!
Quả là đéo
thời nào có được!
Hà, hà!