Over the course of several decades and numerous books, Alexievich
has pursued a distinctive kind of narrative based on journalistic
research and the distillation of thousands of firsthand interviews
with people directly affected by all the major events of the Soviet and
post-Soviet period. She has uncovered the unknown but crucial work that
Soviet women did in World War II, recounted the memories of children
caught up in the “Great Patriotic War,” documented the realities facing
soldiers in the Soviet-Afghan war, which were kept from the Soviet public,
and recorded the experiences of those who lived through the Chernobyl
nuclear disaster.
In her most recent book, she deftly orchestrates a great chorus of diverse voices to chronicle the human toll—emotional, physical, economic, and political—of the collapse of the USSR, a country that once made up a sixth of the world’s land mass.1 Alexievich’s oeuvre comprises nothing less than a history of epic proportions, which she has called “Voices of Utopia.” This undertaking has brought the writer many awards and accolades from Western European countries in particular, and from Russia, where her books have been printed and reprinted many times; she is a well-known critic of the Putin regime. In her home, Belarus, however, under the dictatorship of Aleksandr Lukashenko, she has been subject to the same political censorship and pressure as many of her colleagues (as Timothy Snyder pointed out in the NYR Daily 2). For over a decade she lived in various European cities, because it was not safe to return to Minsk (though she did in 2011), and her books have not been published in Belarus since 1994.
Let the Past Collapse on Time!
“Dzhugashvili [Stalin] is there, preserved in a jar,” as the poet Joseph Brodsky wrote in 1968. This jar is the people’s memory, its collective unconscious.
“Stalin ở trong đó, được gìn giữ ở trong 1 lọ sành”, như Brodsky viết, vào năm 1968. Cái lọ sành là hồi ức của dân tộc, cái vô thức tập thể của nó.
“Tẫu Cút Đi”: Trong cái lọ sành đựng hồi ức của Bắc Kít, hình như đếch có chỗ dành cho Tẫu, trong cả hai cuộc chiến thần kỳ, chống thực dân cũ, Pháp, và mới, Mẽo.
Bi
giờ mà không rước hai tên này vô
“lại”, nhất là thằng Yankee mũi lõ, là bỏ mẹ với
tụi Tẫu!
Hà, hà!
Millions were dead; everybody
was innocent.
I stayed in my room. The President
Spoke of war as of a magic love potion.
My eyes were opened in astonishment.
In a mirror my face appeared to me
Like a twice-canceled postage stamp.
I lived well, but life was awful.
there were so many soldiers that day,
So many refugees crowding the roads.
Naturally, they all vanished
With a touch of the hand.
History licked the corners of its bloody mouth.
On the pay channel, a man and
a woman
Were trading hungry kisses and tearing off
Each other's clothes while I looked on
With the sound off and the room dark
Except for the screen where the color
Had too much red in it, too much pink.
Charles Simic
Phòng Ngủ Thiên Đàng
Ba triệu Mít chết
Mọi Mít đều ngây thơ,
Đếch tên nào có tội
Gấu ngồi trong phòng
Ba Dzũng, Tông Tông Mít,
Giao liên VC, y tá dạo ngày nào
Lèm bèm về Cuộc Chiến Mít
Như về Thần Dược Sex
Gấu trợn mắt, kinh ngạc
Trong gương, Gấu nhìn Gấu
Chẳng khác gì một con tem bị phế thải tới
hai lần
Gấu sống được, nhưng đời thì thật là khốn
nạn
Ngày đó đó, đâu đâu cũng
thấy lính
Ui chao Mít di tản đầy đường
Lẽ tất nhiên tất cả biến mất,
Chỉ nhìn thấy bóng dáng 1 tên
VC
Lịch sử Mít liếm góc mép đầy máu
của nó
1863-1933
This poem has often been quoted, because it fits well the division
of Europe, after World War II, by the Cold War. Nobody seems to have paid
attention to the date of its writing, 1898. Cavafy, though he explored in
his poems all the aspects of his Hellenistic world, including the Greek-speaking
Byzantine empire, understood the word "barbarian" in its original Greek
meaning, as applied to all those who are outside and have, instead of human
speech, incoherent gibberish. His intuition allowed him to capture a centuries-old
opposition between the inside and the outside of civilization.
Milosz
The barbarians
are due here today.
Why isn't anything going on in the senate?
Why are the senators sitting there without legislating?
Because the barbarians are coming
today.
What's the point of senators
making laws now?
Once the barbarians are here,
they'll do the legislating.
Why did our emperor get up so early,
and why is he sitting enthroned at the city's main gate,
in state, wearing the crown?
Because the barbarians are coming
today
and the emperor's waiting to
receive their leader.
He's even got a scroll to give
him,
loaded with titles, with imposing
names.
Why have our two consuls and praetors come out today
wearing their embroidered, their scarlet togas?
Why have they put on bracelets with so many amethysts,
rings sparkling with magnificent emeralds?
Why are they carrying elegant canes beautifully worked in silver and
gold?
Because the barbarians are coming
today
and things like that dazzle the
barbarians
Why don't our distinguished orators turn up as usual
to make their speeches, say what they have to say?
Because the barbarians are coming today
and they're bored by rhetoric and public speaking.
Why this sudden bewilderment, this confusion?
(How serious people's faces have become.)
Why are the streets and squares emptying so rapidly,
everyone going home lost in thought?
Because night has fallen and
the barbarians haven't come.
And some of our men just in from
the border say
there are no barbarians any longer.
Now what's going to happen to us without barbarians?
Those people were a kind of solution.
Translated from the Greek by Edmund Keeley and Philip Sherrard
Note: Bạn đọc bài thơ này, không thể không
nghĩ đến cái cảnh Big Minh chờ VC tới để bàn giao Miền Nam!
Nhưng cái cảnh Bắc Kít đón Tập mấy bữa nay, để
bàn giao xứ Mít, thê lương hơn nhiều
Đợi cái chi chi, chúng ta họp ở đây, ở diễn đàn
này?
Đám rợ tới hẹn lại lên, là bữa nay
Thế thì cái gì xẩy ra ở Thượng Viện?
Tại sao mấy đấng nghị sĩ lại ngủ gà ngủ gật không chịu
làm luật?
Một khi đám rợ tới, thì để tụi nó làm luật.
Tại sao mới sáng sớm Big Minh đã ngồi ở Dinh Gia Long,
Y phục chỉnh tề,
đầu đội vương miện VNCH?
Bởi vì bữa nay đám rợ tới,
Và Big Minh chủ tịt VNCH ngồi ở Dinh GL,
chờ gặp chủ tướng của bọn rợ là me-xừ Bùi Tín
để bàn giao Miền Nam.
Không thấy tay Người cầm bản đồ Miền Nam,
cùng là danh sách kho tàng, của cải, tiền
bạc, kim quí… ?
Tại sao hai vị Cố Vấn Tối Cao và Thủ Lĩnh Quân Đội VNCH
cũng có mặt bữa nay?
Kìa coi kìa, hai vị áo choàng, khăn choàng
xúng xính,
Tại sao họ đeo nhiều vòng tay đính rất nhiều thạch anh,
Những chiếc nhẫn đính rất nhiều kim cương?
Tại sao họ chống những cây ‘quốc trượng’ vàng, ‘quốc trượng’
bạc?
Bởi vì bọn rợ tới ngày hôm nay
Và những vật như thế làm choáng mắt chúng.
Tại sao những nhà diễn thuyết bậc Thầy
của Miền Nam chúng ta không xuất hiện,
với những bài diễn văn thần sầu của họ?
Ui chao, bọn rợ không khoái tí nào, ba thứ
văn chương tu từ,
hào nhoáng, thùng rỗng kêu to,
và những bài nói chuyện dành cho công
chúng.
Tại sao cái sự hỗn độn hoang mang như thế đó?
(Kìa coi kìa, vẻ mặt mọi người mới nghiêm trọng
làm sao)
Tại sao phố xá vắng hoe,
quảng trường chẳng còn một mống, nhanh đến như vậy?
Mọi người đều về nhà ư, họ mất trí hay sao?
Bởi vì đêm xuống, mà bọn rợ vưỡn chưa thấy tới
Và mấy tên lính VNCH gác ở Bến Hải cho biết,
chẳng còn bọn rợ nào hết!
Giải thưởng văn chương Nobel năm nay đã được trao cho nhà văn Anh, gốc Ấn, V(idiadhar) S(urajprasad) Naipaul, sinh tại Chaguanas, gần Port of Spain, thuộc Trinidad, “vì đã nhập làm một - một lối viết tự sự mẫn cảm và một cái nhìn soi mói đừng hòng mong mua chuộc – vào trong những tác phẩm bắt chúng ta nhìn vào những cuộc đời bị vùi giập” (bản tiếng Anh: “… for having united perceptive narrative and incorruptible scrutiny in works that compel us to see the presence of suppressed histories”).
Một tác giả gây tranh luận
(“Controversial author”) đã thắng giải văn chương Nobel, theo như
một ký giả. Hàn Lâm Viện Thụy Điển đã đặc biệt
nhấn mạnh tới cuốn tiểu thuyết mang tính tự thuật “The Enigma of Arrival”
(tạm dịch “Bí ẩn khi tới”, 1987), coi đây là “hình
ảnh, cứ thế mà lặng lẽ suy sụp, của văn hoá thực dân
cũ, và sự suy tàn của những xóm làng Âu
Châu” (“an unrelenting image of the placid collapse of the old colonial
ruling culture and the decline of European neighbourhoods”. Luôn cả
“cái nhìn soi mói không thể nào bị mua
chuộc” đối với xã hội hậu thuộc địa, và những nhận định gay
gắt đối với Hồi giáo chính thống (Muslim fundamentalism).
Naipaul được chọn, trong một danh sách chót gồm năm người. Tên những người còn lại phải 50 năm sau mới được công bố, nhưng theo tin tức hành lang, trong đó có nhà văn người Israel, Amos Oz, nhà văn Nam Phi, JM Coetzee, nhà văn người Canada, Margaret Atwood, và nhà văn người Mỹ, Philip Roth.
Trên VHNT, người viết đã
từng giới thiệu Naipaul, trước khi ông được Nobel, nay xin đăng
lại, và tiếp đó, xin cống hiến bạn đọc một số nhận xét,
và phản ứng của một số tác giả, và của chính
Naipaul, trước tin ông được Nobel.
***
Vào năm 1931, con tầu SS Ganges
đã đưa một ngàn di dân về Ấn. Năm sau, trở lại Trinidad,
nó chỉ kiếm được một ngàn, trong số hàng ngàn
con người không nhà nói trên. Ngỡ ngàng
hơn, khi con tầu tới cảng Calcutta, bến tầu tràn ngập những con
người qui cố hương chuyến đầu: họ muốn trở lại Trinidad, bởi vì bất
cứ thứ gì họ nhìn thấy ở quê nhà, dù một
tí một tẹo, đều chứng tỏ một điều: đây không phải thực
mà là mộng. Ác mộng.
“Em ra đi nơi này vẫn thế”. Ngày
nay, du khách ghé thăm Bắc Ấn, nơi những di dân đợt đầu
tiên tới Trinidad để lại sau họ, nó chẳng khác gì
ngày xa xưa, nghĩa là vẫn nghèo nàn xơ xác,
vẫn những con đường đầy bụi, những túp lều tranh vách đất,
lụp xụp, những đứa trẻ rách rưới, ngoài cánh đồng cũng
vẫn cảnh người cày thay trâu… Từ vùng đất đó, ông
nội của Naipaul đã được mang tới
Chốn cũ vẫn như xưa, nhưng chốn mới
chẳng hơn gì; cha của Seepersad, chết trẻ; gánh nặng gia
đình chuyền qua ông anh lớn, còn là một đứa
nhỏ, đã phải lăn lưng vào đời, lãnh 8 xu mỗi ngày,
tại một trại trồng mía – nửa thế kỷ sau, kỷ niệm ấu thời làm
ông bật khóc trước mặt đứa cháu của mình là
Naipaul. Bà chị của Seepersad, một cô gái mù
chữ, bị gửi đi xa, làm việc cho một người bà con trong gia
đình; bà chịu đựng hai cuộc hôn nhân bất hạnh.
Quãng đầu đời của Seepersad cũng chẳng hân hoan thơ thới gì.
Ông sống với người chị/em của mẹ mình, ngày đi học,
đêm làm việc tới khuya trong một cửa tiệm. Sau này,
khi đã có vợ, có thời gian ông phải sống bám
vào gia đình bà vợ giầu có. Mãi sau đó,
ông cố kiếm đường ngoi lên, bằng một việc làm tại một
tờ báo ở
Chính cái nền đó,
– những thảm kịch nho nhỏ của một nhóm người nghèo đói,
bị đánh bật ra khỏi nơi chôn nhau cắt rốn, túm tụm
với nhau tại vùng West Indies, Trinidad – đã làm cho
“Một căn nhà cho Ông Biswas” (1961) - nhân vật chính
lấy khuôn mẫu từø người cha của Naipaul - trở thành
một trong những cuốn tiểu thuyết viết bằng tiếng Anh tuyệt vời nhất của
thế kỷ 20. Hơn thế nữa, nó còn là một tài liệu
giá trị, về một phần đất không ai thèm ngó tới
- theo nghĩa tinh thần – của thế giới. Không thèm ngó
tới, bởi vì đôi khi, nó, và những phần đất tương
tự như nó, có vẻ như chẳng có gì đủ quan trọng,
để được nhân loại để ý ghi chép, về mặt chính
trị cũng như văn hóa, và thường ra, những vùng đất
như thế đó chẳng thể nào đẻ ra được những nhà văn,
nhà trí thức: chính những người này [mới] có
thể ghi nhận sự thịnh suy của chúng.
Naipaul đã mượn luôn những
câu chuyện về thời thơ ấu ông bố, như là một đứa trẻ
nhà quê Ấn Độ, rồi những năm tháng đầu tiên sống
đời di dân tại một vùng quê Trinidaa, một cuộc đời
mà Seepersad đã cố gắng ngoi lên, và rồi viết
về nó. Viết, đối với ông bố của Naipaul, là “tất cả,
cho dù nghịch cảnh”: nó là hứa hẹn về một phẩm giá
con người, một “từ chối bị tiêu diệt”. Ông đã truyền
lại cho người con, và với cả hai, là mong ước “một sự công
chính, ở một tương lai nào đó”. Trên tờ Điểm
Sách Nữu Ước, Pankaj Mishra, khi điểm những lá thư nhà
(“Giữa Cha và Con: Thư Nhà”,
“Between Father and Son: Family Letters”. V.S.
Naipaul, nhà xb Knopf) đã coi nghèo đói, nỗi
sợ bị tiêu diệt (extinction), hy vọng một sự công chính
(justice), và viết như một cứu chuộc, là những đề tài
trao đổi giữa Naipaul và gia đình (Seepersal Naipaul, ông
bố là tác giả tập truyện “Những cuộc phiêu lưu của Gurudeva”,
được xuất bản “một cách riêng tư”, privately, vào năm
1943, tái bản có sửa chữa và mở rộng thêm vào
năm 1976, rồi năm 1995), bắt đầu vào năm 1950, khi Naipaul tới Anh
làm sinh viên tại Oxford, nhờ học bổng toàn phần của
nhà nước thuộc địa. Ông bố lúc này coi như hết
còn làm việc được nữa; Kamla, bà chị của Naipaul, là
sinh viên tại đại học Benares Hindu University tại Ấn Độ, cô
đơn, và bất hạnh (unhappy), nhưng không làm sao có
phương tiện rời bỏ. Naipaul, 18 tuổi đầu, mang trên mình không
chỉ trách nhiệm cứu thoát gia đình khỏi nỗi khốn khó,
mà còn đèo thêm tham vọng văn chương, chưa biết
nó sẽ ra làm sao, và chưa biết sẽ thực hiện như thế
nào. “Bí ẩn khi tới” (1987) thoát thai từ những lá
thư nhà này, một cuốn tiểu thuyết mang tính tự thuật
về một thanh niên nhà quê hết sức ngu ngốc (profoundly
ignorant) bị đánh bật gốc, nỗi sợ hãi, chết khiếp, tứ cố vô
thân không nơi nương tựa, tại Anh Quốc.
Và như độc giả có thể đoán ra được, vượt lên
những bức thư, là một bức điện tín, gửi cho gia đình,
vào đầu năm 1956: TIỂU THUYẾT ĐƯỢC CHẤP NHẬN=YÊU, và
liền sau đó, ông viết thư cho người chị: “Đó là
bức thư mà em hằng mong được viết về cho gia đình, kể từ
ngày rời Trinidad. Một bức thư về cuốn sách của em.”
***
Caryl Phillips, tiểu thuyết gia người
Anh mà gia đình cũng tới từ vùng
“Giữa những tín đồ: Một chuyến
đi về vùng đất Hồi” (1981), là một ghi nhận về chuyến đi
Mới hồi đầu tháng (10, 2001),
Naipaul đã gây phẫn nộ trong thế giới Hồi giáo, khi
so sánh những hậu quả của đạo này trên thế giới, cũng
chẳng khác gì của chế độ thực dân thuộc địa. “Nó
tạo một hậu quả thê thảm ở những người
cải đạo”, ông nói, đặc biệt nhắm vào Pakistan, “Muốn
cải đạo, bạn phải huỷ diệt quá khứ, huỷ diệt đời mình (your
history).” Ông mô tả việc “quên mình”, “bỏ ngã”
(abolition of the self) mà Hồi giáo đòi hỏi còn
tồi tệ hơn sự huỷ diệt căn cước của một con người dưới chế độ thực dân
thuộc địa. Một thành viên của Hàn Lâm Viện Thụy
Điển, Per Wastberg, đã nói với hãng tin Reuters, Naipaul
chỉ trích tất cả mọi tôn giáo. “Ông ta coi tôn
giáo là tai họa cho nhân loại, nó thui chột
mọi ước ao, nó làm con người hết
dám suy nghĩ, tự chứng nghiệm (nguyên
văn: He considers religion as the scourge of humanity, which dampens downs
our fantaisies and our lust to think and experiment). Trên mục này,
bạn đọc chắc còn nhớ bài phỏng vấn George Steiner của tờ
L’Express, và câu khẳng định của ông, “nếu thế kỷ 21
là một thế kỷ của tín ngưỡng thì nó sẽ tiêu
luôn”.
(xem bài “Văn hóa không làm tăng
tính người”.)
Thật khó mà tin được, rằng Hàn Lâm Viện Thụy Điển đã không để ý đến biến cố 911, những diễn biến theo sau, và sự kiện Naipaul luôn tỏ ra “thù nghịch” (hostility) Hồi giáo chính thống. Cũng khó mà có thể tin được, họ đã quên một điều, rằng họ vờ đi không lên tiếng khi cái đầu của nhà văn Rushdie bị ra giá, trước đây, nhân vụ Quỉ Thi.
Tarek Fateh, chủ trì chương trình TV “Ký sự Hồi giáo”, đã tỏ ra không thoải mái (uneasy) về chuyện Naipaul được Nobel, mặc dù ông cho biết rất ngưỡng mộ những khả năng văn học của ông ta. “Tôi thực sự tin rằng, việc ông ta được Nobel sẽ gây ra những rắc rối sâu xa hơn nhiều, vượt ra khỏi tầm tay văn chương”. “Nó gây tổn thương, do quá nhiều những tình cảm chống Hồi giáo.”
Một nhà văn gây tranh luận.
Đúng như vậy. Ngay trong giới văn học, ông ta cũng không
tỏ ra nương nhẹ những “văn hữu”. Nói về James Joyce: Tôi
không thể hiểu nổi tác phẩm của một người mù. Về Dickens:
Ông ta cắn phải luỡi (tự nhại lại tác phẩm của chính
mình)…
***
Hình như Borges có nói,
người ta không thể sử dụng từ ‘con dao’ trong một thai đố mà
câu trả lời là ‘con dao’; Rushdie viện dẫn nhà văn
Á Căn Đình, khi viết về cuốn “Bí ẩn khi tới” của Naipaul;
và từ mà ông không thể nào kiếm thấy
ở trong cuốn sách đó, là “tình yêu”. Và
một cuộc đời không có tình yêu, hay một cuộc
đời mà trong đó, tình yêu bị chôn sâu
tới nỗi không thể nào ló đầu ra, đó là
điều cuốn sách của Naipaul nói tới. Bởi vậy, nó thật
buồn, thật quá buồn.
My gift to you will be an abyss,
she said,
but it will be so subtle you'll perceive it
only after many years have passed
and you are far from Mexico and me.
You'll find it when you need it most,
and that won't be
the happy ending,
but it will be an instant of emptiness and joy.
And maybe then you'll remember me,
if only just a little.
Roberto Bolano
The Paris Review Summer
2012
Quà BHD tặng Gấu
Before you died I dreamed
of cocktail parties in your Harlem
apartment where you’d bring all our dead kin
back to life, for me! I was old enough
to drink with you, to wear a cocktail dress.
Like the best movies, the dream was black
and white, except for my grandmother’s
lipstick, which was red.
—Elizabeth Alexander, from “After”
Photography Credit Robert Frank
Kỷ niệm với nhà thơ.
http://www.tanvien.net/Tuong_niem/ky_niem_1.html
« II existe une nostalgie sans rapport avec l'Histoire, que nous
ressentons tous, la mémoire émotionnelle d'un temps où
nous étions innocents. »
Kazuo Ishiguro: L'âge de la nostalgie.
Có một thứ hoài nhớ chẳng mắc mớ gì tới Lịch Sử,
mà tất cả chúng ta đều cảm thấy.
Nó là chút bồi hồi về một thời chúng
ta đều ngốc ngếch, những chàng gà trống 'e đến trăm năm
vưỡn trẻ thơ'!
Câu trên của nhà văn gốc Nhật Bản, viết văn bằng tiếng Anh, tác giả cuốn tiểu thuyết nổi tiếng Tàn Ngày, áp dụng cho Thất Hiền và những năm tháng thời mới lớn của đám chúng tôi, quả thật sướng!
Vào cái thời ngốc nghếch đó, Sài Gòn còn có xe thổ mộ, xe buýt vàng, nhưng thường thường, Gấu sử dụng xe lô ca chân, đi từ hẻm Đội Có lên Ngã Tư Phú Nhuận, rồi theo con đường bi giờ kêu là Phan Đăng Lưu [Chi Lăng, hay Võ Tánh, ngày xưa?] qua tới hẻm Đỗ Thành Nhân, Xóm Gà, phía sau Tòa Bố Gia Định. Gặp bạn, lẽ tất nhiên! Và được bạn dẫn đi ăn phở, lẽ tất nhiên!
"Phở hồi đó ba đồng một tô. Tiền ông Diệm, như sau này người dân Sài-gòn vẫn thường xuýt xoa, tiếc nhớ một hoàng kim thời đại khi chưa nếm mùi Giải Phóng, và tệ hơn, mùi Cộng Sản, thảm hơn nữa, Cộng Sản Bắc Việt. Những buổi sáng hiếm hoi trong túi có mấy đồng bạc cắc bà Trẻ thương tình giấu giếm cho, nhân bữa trước bán hết mấy món đồ xi cho mấy cô gái, mỗi lần đi chợ Phú Nhuận, sau khi mua mớ rau, con cá, vẫn thường xúm quanh cái mẹt của bà già Bắc Kỳ, mân mê chiếc vòng mã não, chiếc cà rá hình trái tim, cây lược lưỡi liềm, tấm gương bầu dục phía sau có hình mấy nghệ sĩ cải lương... tôi có cảm tưởng cả con hẻm, khu phố cũng xôn xao cùng tôi qua những hương vị buổi sáng của nó: Tô phở nơi đình làng Phú Nhuận, trong hơi phở có chút hiền từ của khói nhang, của những lời cầu khấn, mấy bà mấy cô đi chợ tiện thể ghé đình lạy Phật và dùng điểm tâm. Dĩa bánh ướt của cô gái trong xóm với đôi quang gánh lúc nào cũng lao về phía trước, chỉ chậm lại nơi đầu con hẻm mươi, lăm phút rồi lại tất tả chạy quanh xóm. Có bữa dù đã chạy vội từ nhà, khi ra tới nơi chỉ còn kịp nhìn thấy một nửa bóng dáng cùng cử chỉ quen thuộc của cô còn nán lại phía sau lưng đòn gánh. Khi đã đi làm, có lương tháng, có nhà ở, do cơ quan cấp, bị dòng đời xô đẩy không cho ngoái cổ nhìn lại con hẻm xưa, có những buổi sáng chạy xe vòng vòng đuổi theo dư âm ngày tháng cũ, biết đâu còn sót lại qua dĩa bánh cuốn Thanh Trì, nơi con hẻm đường Trần Khắc Chân, khu Tân Định. Thứ bánh cuốn mỏng tanh, không nhân, chấm nước mắm nhĩ màu mật, cay xè vị ớt bột, kèm miếng đậu phụ nóng hổi, dòn tan, miếng chả quế, giò lụa. Chủ nhật đổi món bún thang dậy mùi mắm tôm, khi đã no nê vẫn còn thèm thuồng chút thơm tho của đôi ba giọt cà cuống đầu tăm. Nhìn bước đi của thời gian, của thành phố trong cơn tuyệt vọng chạy đua với chiến tranh, trong nỗi hối hả đi tìm ông chủ đích thực, sau những ông chủ thuộc địa, thực dân cũ, thực dân mới... cuối cùng khám phá ra đó chính là kẻ thù... "
Lần Cuối Sài Gòn
Có lần ông anh nói với ông em, giá có thêm một bà chị hay một cô em, thì dzui biết mấy!
Theo nghĩa đó, trong ba đứa con trai, Thằng Gấu, thằng con nuôi,
hóa ra lại.... sướng nhất!
Hai ông kia, được hưởng sự thương yêu của bà
mẹ - củ cà rốt - nhưng kèm theo cây roi, cái
gậy - sự răn đe, nghiêm trị, cứng rắn - của một bà mẹ cộng
thêm một ông bố đã khuất mặt.
Gấu bỗng nhớ đến một câu than của đám con của một bà mẹ trong Đập Ngăn Thái Bình Dương, khi bà mẹ mất. Ôi chao, quả núi khổng lồ che mặt trời cho tụi mình vừa mất đi, đám tụi mình bây giờ mới hiểu, nắng cháy da cháy thịt, là như thế nào!
Có thể bà cụ Chất cũng là một mẫu bà mẹ như
thế. Cụ nghiêm quá.
Chỉ bớt nghiêm khi đối xử với thằng con nuôi.
Đây cũng là phần thiệt thòi của Gấu.
Theo nghĩa, giả như cụ muốn nghiêm với Gấu, cũng không
thể được!
Cuốn Đêm Hay Ngày cũng là cuốn bà cụ Chất cùng đọc với thằng Gấu, cùng một lúc với những cuốn như Bác Sĩ Zhivago, bản do Mặt Trận Bảo Vệ Văn Hóa ấn hành. Những cuốn sách dịch của nhà xb Zhiên (?) Hồng.
*
Đói như thế đấy, than như thế đấy, [Cái nhà
này, cứ ba tháng hè, là lượng gạo tiêu
thụ gấp hai gấp ba tháng thường, bà cụ Chất có lần
than thở, một cách rất ư là hài lòng, như
vậy], nhưng Cụ không quên giáo dục hai thằng con thứ,
một con ruột, một con nuôi, dẫn chúng đi coi một phim
vừa mới chiếu, cho chúng tiền đi nghe hòa nhạc Jazz, [vé
đâu có rẻ!], và khi mấy thằng thi rớt Tú
Tài 2, kỳ thứ nhất, Cụ nói với bà Th. cho đi tắm
biển Nha Trang, trước khi học thi kỳ 2.
Gấu còn nhớ, lần đó, cụ phải trả giá vé
xe lửa của Gấu bằng với giá bình thường, vì Gấu
làm mất thẻ học sinh!
Gấu không thể nào quên, Cụ mắng:
Trước khi từ biệt biển Nha Trang, thì mày cũng phải tới lí nhí nói vài câu cám ơn Bà Th, má của Hà Cóc Khụ chứ, thằng cù lần Gấu kia!
Subject: Re: Chuc Mung Nam Moi
Date: Sun, 21 Jan 2001 16:24:20
From: "tam dzu"
To: nguyen.quoc
Chuc vo chong Tru mot nam moi nhu y.
Tam
Bức email sau cùng. NQT
Người gọi điện thoại báo tin cho Gấu biết, là Minh Ngọc.
"Anh biết tin anh TTT mất chưa? Em mới đọc Gió O, vội gọi điện cho
anh. Anh có số điện thoại gia đình anh Thanh Tâm Tuyền
không?". "Không, nhưng tôi có của em anh Tâm..."
Gọi, mấy đứa nhỏ cho biết bố mẹ đã qua bên đó.
Gọi, gặp Chất, Gấu còn cố gặng hỏi, ở bên này,
'cái chết được báo trước', tại sao... Chất trả lời, anh
Tâm thì cậu biết đấy, có bao giờ chịu đi gặp bác
sĩ, đi bệnh viện check up bao giờ đâu....
Kỳ cục làm sao, buông chiếc điện thoại, tôi
bỗng nhớ tới cái chết của thằng em trai. Khi nó đi, tôi
cũng vẫn không tin, vô lý, vô lý... Nó
chưa gọi điện về nhà mà....
Bài viết về cuốn Bếp Lửa, đăng trên Tập
San Văn Chương, sau đăng lại trên Văn, có lẽ là
bài viết phê bình sau cùng của Gấu, và
đúng như nhà thơ Joseph Huỳnh Văn đã từng 'tâm
đắc', mi viết bài này không phải vì TTT,
mà vì ta, bạn mi, Tổng Thư Ký tờ TSVC!
Giả như ta không lo tờ báo, chắc gì mi
đã viết?
Đúng như thế. Lúc đó, HV biết, Gấu quá
chán văn chương, lại càng chán phê bình!
Đó là lúc Gấu đang 'tu thiền' cùng
Cô Ba!
Thời gian tu thiền quá kéo dài. Không
chỉ chẳng màng viết, mà còn chẳng màng
đọc. Chẳng màng nghe.
Bởi vậy, chỉ tới khi đi tù VC, Gấu mới được nghe những bài,
thí dụ như Ngày Mai Đi Nhận Xác Chồng của
PD, phổ thơ của bà chị, hay em gái nhà thơ Vương
Đức Lệ. [Lê Đức Vượng?], hình như vậy.
Bài Tự Trào của TTT, cho đến bây
giờ, Gấu mới được đọc, trên tờ Thế Kỷ 21, số tưởng niệm ông.
Và nhân đó, mới biết nhà thơ đã từng
được bà con ngoài Bắc dặn dò, nhớ để râu!
Gấu cũng đã từng được dặn dò như vậy, qua bà
Trẻ của Gấu. Tuy hơi khác: Nhà mày, đàn
ông con trai có số chết trẻ. Không chỉ chết trẻ,
mà còn là chết bất đắc kỳ tử. Và cũng chính
Bà Trẻ Gấu đã bắt Gấu phải xé bỏ cái đơn xin
làm biên tập viên cảnh sát, vì nhà
mày không có mả đánh người!
Chi tiết này Gấu đã từng viết ra.
Khi biết tin nha cảnh sát Gia Định cần biên tập viên,
tôi tới xin tờ đơn, điền ngay tại chỗ, đưa lại cho nhân
viên trực, kèm bản sao mảnh bằng tú tài II,
chắc như bắp sẽ được tuyển dụng. Buổi chiều về khoe với Bà Trẻ, khi
đó lo việc nuôi tôi. Bà trợn mắt, mắng:
-Mai đến lấy ngay lại cái đơn, xé bỏ! Đói
thêm ít lâu chưa có chết. Nhà mày
không có mả đánh người!
Đọc bài viết, và
nhìn bức hình đám tang của Bùi Ngọc Tấn,
trên Văn Vịt, thấy thê lương vô cùng: Chỉ
có mấy vòng hoa, và những vòng hoa phản
động, thì băng rôn đều bị gỡ bỏ. VC khuyến cáo,
chỉ được khóc trong nội bộ gia đình, đéo được khóc
lớn. Thế là cả lũ nhà văn VC đéo thằng nào
dám chường mặt ra trước ống kính máy ảnh, máy
quay phim.
Không lẽ bạn mình nằm xuống, mà không
khóc. Lũ khốn không dám khóc, thì
Gấu Cà Chớn đi 1 đường khóc BVVC [Bạn Văn VC] của Gấu
vậy.
Nên nhớ Gấu là tên đầu tiên điểm
“Chuyện Kể Năm 2000”, trong bài điểm đã tiên tri
ra được, cái điều sau này BNT thú nhận, ông
cám ơn VC đã bắt giam ông, bởi là vì
nhờ chính sách pha lê hóa xã hội
Miền Bắc như thế, mà làm thịt được lũ Ngụy, đưa chúng
đi cải tạo mút mùa lệ thuỷ, và đuổi thằng Yankee
mũi lõ ra khỏi xứ Mít, và bi giờ chúng đang
năn nỉ nhà nước VC chúng ta, cho chúng quay lại!
Salman Rushdie: rereading The Remains of the
Day by Kazuo Ishiguro
'The real story here is that of a man destroyed by the ideas
upon which he has built his life'
Câu
chuyện thực ở đây, là của 1 tên tiêu mẹ cuộc đời
bởi những lý tưởng mà hắn xây dựng đời hắn.
Tên Bắc Kít bỏ mẹ nào chẳng thế!
Hà, hà!
Kazuo Ishiguro: how I wrote The Remains of
the Day in four weeks
The author reveals how the Tom Waits song Ruby’s Arms served as inspiration for his Booker prize-winning classic novel
Nhân vật chính của cuốn "Tàn Ngày", cũng thuộc týp "cam chịu lịch sử", và câu của Rushdie, “câu chuyện thực ở đây là của 1 người bị huỷ diệt bởi những lý tưởng mà anh ta dựa vào chúng để xây dựng đời mình", có thể áp dụng cho bất cứ 1 tên Bắc Kít nào đã từng xẻ dọc Trường Sơn đi kíu nước. Tuy nhiên, cái thứ văn chương mà BNT đã viết và tính viết tiếp, mũi lõ gọi là văn chương người chứng, witness literature. Cái sự lầm lẫn này hủy diệt tác phẩm của ông, thay vì chiến thắng thì thành hàng phục nhà nước VC. Đó là lý do tại sao sau này, ông cám ơn VC đã đưa ông đi tù.Vài năm trước đây, trong 1 lễ hội văn chương,
giữa đám đầu sỏ, tôi được yêu cầu nhặt ra 1 cuốn
tiểu thuyết “mới rồi, mới đây” mà tôi tin
rằng, nó sẽ được độc giả và giới phê bình
săm soi trong 1 khoảng thời gian chừng một trăm năm, và,
1 trong phút xuất thần, tôi bèn “ơ rơ ka” 1 phát,
nó đây rồi.
Và đó là cuốn “Đừng
bao giờ để Gấu đi xa”, “Never Let Me Go”.
“Đừng bao giờ” không phải là chỉ là
cuốn tiểu thuyết mà tôi chết mê chết mệt,
nó còn làm bật ra 1 điều rất ư là
sơ yếu, sự cần thiết của con người, tưởng tượng ra cội nguồn
của mình.
Hàn Lâm Viện Thụy Điển, mấy năm gần
đây, có vẻ như lúng túng, và
còn gây hồ nghi, tranh cãi, trong cái
việc lựa ra con mồi của mình, nhưng lần này, thật
là OK, nhất là ở cái cú này:
KI đứng ở bên lề, đối với thứ văn chương cố bám lấy
đương thời, và xã hội. Một cách liều lĩnh, đôi
khi lúng túng, chúng gạt chúng
ta ra khỏi thời của mình
Thật là cừ khôi,
khi mà “Đừng bao giờ để Gấu đi xa” mở ra ở 1 trang
chỉ phán có nhõn một câu, “Anh
quốc, cuối thập niên 1990”. Được kể bởi 1 người đàn
bà, một nhân bản, được sản xuất ra để cung cấp
bộ đồ lòng, tim gan phèo phổi… cho những người
cần thế, ghép, cấy… câu chuyện xẩy ra ở trong
1 ấn bản Ăng Lê, rất ư là thoải mái, về cả
hai mặt, ở 1 miền tỉnh lỵ, và cực kỳ lạ lẫm. Đồng quê,
trường học có tính tự do, thành phố biển ở
Anh chẳng bao giờ được xây dựng lên, cho 1 cái
nền bực mình, phiền toái như thế. Tương tự, cuốn tiểu
thuyết làm ông nổi tiếng, “Tàn Ngày”,
nhân vật được nhặt ra từ cả trăm cuốn sách và
phim ảnh Anh – tên quản gia ở trong 1 căn nhà đồng quê
– và ban cho ông ta 1 cách kể chuyện “painstaking
evasiveness” [giỏi thoái thác, lẩn tránh].
Về cái gọi là chi tiết là Thượng
Đế ở trong văn chương, thì, tất cả cái gọi
là chi tiết mang tính giai đoạn phiền toái
ở đây, là, đây là 1 cuốn tiểu
thuyết - mà như GCC đã chỉ ra, cùng cái
dòng của Bùi Ngọc Tuấn, những người cam chịu
lịch sử - hay dùng chữ của tác giả bài viết
trên Guardian, một cuốn tiểu thuyết về con người tự xoá
mình, tự chán mình, tự coi thường mình...
ở bất cứ nơi nào, và bất cứ thời nào.
While stylistically austere or self-limiting, Ishiguro's
fiction revels in literary allusion and generic playfulness. Often
he takes a well-known fictional subgenre and transforms it.
With Never
Let Me Go it is dystopian science fiction. His most
recent work, The Buried Giant, perplexed
many with its rewriting of the rules of fantasy fiction.
Imagining Britain in the dark ages, it creates characters who
have lost track of history and cannot even remember the important
events of their own lives. It is a fable for all times. It is because
he writes for all times, using such carefully controlled means,
rigorous yet utterly original, that Ishiguro is such a worthy winner.
If Wilson and Swift may be considered
quintessentially English], then Kazuo Ishiguro [and Timothy
Mo] offer evidence of how the English-language novel is now enriched
from a diversity of cultures. The former is of Japanese extraction,
the latter of Chinese, though both were educated in England. Ishiguro's
three novels - A Pale View of Hills
(1982), An Artist of the Floating World (1986) and
The Remains of the Day
(1989) - have all been distinguished by an exquisite precision; he is a
writer who works scrupulously within self-imposed limits, achieving his
effects by understatement and the adroit deployment of his material. Each
of his novels has an unmistakable identity; yet he displays
his virtuosity in his use of a different narrative voice in
each. The Remains of the Day,
for instance, is narrated by an elderly English butler. In his
portrayal of this character, so different from himself, Ishiguro
shows himself a pure novelist. The central question which occupies
Mr. Stevens, the narrator, is `what makes a great butler?'. This
may seem an extraordinary question for a young novelist to pose at
the end of the twentieth century; yet Ishiguro uses it in order to
be able to ask the far more important question of how a man's life is
justified.
Graceful, humorous, subtle and enquiring,
Ishiguro is a writer who impresses by his willingness to submerge
his own personality and by his fidelity to his material. Each
of his novels is thoroughly and perfectly composed; the proportions
are always seemly. They acquire a strength and authority from Ishiguro's
acceptance of physical realities and from the exactness of his
perceptions.
Nếu coi Wilson và
Swift, cực Hồng Mao, thì Kazuo Ishiguro [và Timothy
Mo] cho thấy, tiểu thuyết viết bằng tiếng Anh bi giờ giầu có
thêm là nhờ sự đa dạng của các nguồn văn hóa.
Một đấng Ăng lê gốc Nhựt lùn - nhưng có vẻ như Nhựt
lùn không mặn với cái việc ông được Nobel -
một đấng Tẫu, cả hai học ở Anh. Ba cuốn tiểu thuyết đầu của Ishiguro
cực bảnh, cực cõi riêng, ấy là do sự chính xác
đặc dị của người viết ra chúng. Tác giả cực kỳ nghiêm
khắc với chính mình, với những giới hạn tự đặt ra cho mình,
hoàn tất những hiệu quả của mình bằng giản trừ, và
bằng sự triển khai khéo léo nguyên liệu.
Mỗi cuốn tiểu thuyết có 1 căn cước không thể nào
lầm lẫn, tuy nhiên, ở mỗi cuốn, ông chơi 1 giọng kể khác
nhau, do ông trình diễn 1 cách viết của 1 bậc đại
sư phụ - yet he displays his virtuosity in his use -
Bạn thử bắt chước 1 trang viết của... anh ông của Gấu,
là TTT, là biết thế nào là chưa biết đi
mưa chưa biết lạnh, chưa thấy quan tài chưa nhỏ lệ, hà
hà - bởi thế, thật là rất ư khó, dịch, 1 tác
giả như Ishiguro, nghe nói, trong nước dịch ông, nhưng đếch
bán được, là thế.
Đâu phải vô tư, khi GCC dịch Istanbul, và được coi là "tuyệt tác" -Voir Venise et mourir! Đọc Istanbul, bản dịch của GCC, rồi hãy ngỏm!
Hay đọc:
Nỗi buồn Istanbul
Doc bai dich tren blog hay qua .
Anh Tru dich "mướt" lam roi .
K
Biet khi nao VN moi co mot tac pham nhu the.
Tks.
NQT
Note: Lâu lâu, phải xeo phi 1 phát, sorry.
GCC
Đoạn trên, GCC trích từ 1 bài viết, nay không làm sao tìm lại được. Nhận xét thần sầu, về 1 nhà văn mũi tẹt, viết bằng 1 thứ tiếng của tụi mũi lõ, mà tụi lõ chưa từng vươn tới tầm cỡ như vậy, thế mới khủng khiếp, thế mới ngả đầu bái phục.
Graceful, humorous,
subtle and enquiring, Ishiguro is a writer who impresses by
his willingness to submerge his own personality and by his fidelity
to his material. Each of his novels is thoroughly and perfectly
composed; the proportions are always seemly. They acquire a strength
and authority from Ishiguro's acceptance of physical realities
and from the exactness of his perceptions.
Re: Booker.
GCC tính dịch luôn cái bài viết kế bên, "Why US writers..." nhưng chưa kịp, thì 1 đấng Yankee Mũi Lõ đã đợp Booker năm nay, 1 tay cực sừng sỏ, rất nổi tiếng, chắc cũng chẳng thua gì tay Bắc Kít gì gì đó, ở trong nước, tay này rất mê những nhà văn Mẽo, và đã từng vặc Uỷ Ban Nobel, sao không cho những đấng như Roth, thí dụ, mà lại cho 1 em ký giả Niên Xô?
George Saunders' victory disproves Booker lore
that favorites never win. Chiến thắng của GS giải lời nguyền những
nhà văn favorite chẳng bao giờ được Booker.
Bài trên Guardian thì khuyên
đám nhà văn Yankee mũi lõ nên rút
dù, vì giải này vốn đem cho họ cái cơ hội
đọc những tác giả khác.
Đúng như thế.
Không có Booker, làm sao chúng
ta biết đưọc cú song đấu Tướng Về Hưu vs Tướng Âm Binh,
làm sao biết Võ tướng quân xém được 1 nhà
nước cựu CS, là Albania, đời đời vinh danh, bằng cách
lấy tên ông, cho 1 thứ áo mưa cực bền, cực dai, không
bao giờ bị rách, bị thủng, của nước họ?
Sở dĩ Gấu được NMG mời viết cho Văn Học, trả nhuận bút, tháng tháng, một trăm đô Mẽo một đường Tạp Ghi, là vì "Người" có lần gật gù xoa đầu Gấu, ông "được" lắm, chưa từng bao giờ gọi đám trong nước là "văn nô"!
Đám nhà văn VC
mừng là vậy. “Nhân loại” vẫn còn cần đến chúng
ta. Hãy viết sao, làm bật ra nỗi đau của dân Mít,
là OK.
Trong những lời khen Mạc Ngôn,
Gấu mê nhất của Updike, trong bài “Tre Đắng”.
Đúng là tri kỷ của Mạc Ngôn và
của cái phần nhân loại Á Châu đời đời bị
Cái Ác Á Châu hành hạ, dọc theo suốt
lịch sử.
Ishiguro is a Nobel winner for our times
John Mullan
Ishiguro là nhà văn Nobel văn chương của thời của chúng
ta.
Bài viết này, cùng quan điểm với
James Wood của tờ NY, khi coi "Tàn Ngày", 1 cuốn tiểu
thuyết gần như toàn bích, còn "Đừng bao giờ
rời bỏ GCC" - như lần ở PLT - là cuốn tiểu thuyết trung tâm
của thời của chúng ta!
“The Remains of the Day” is an almost perfect book, and “Never Let Me Go” is one of the central novels of our age.
Note: Sẽ có bản tiếng Mít liền tù tì. Bài ngắn, nhưng quá tuyệt.
Khi vừa được hải ngoại, cuốn đầu tiên Gấu đọc, và giới thiệu trên TV địa phương, chương trình 15 phút tiếng Việt của Việt Tiến, Toronto, cc 1994, là cuốn Tàn Ngày, nhưng vào thời điểm đó, cái yếu tố viết bảnh hơn cả chủ nhà mũi lõ Hồng Mao, của 1 anh mũi tẹt, làm Gấu sững sờ, rồi lại đọc Rushdie vinh danh, phải viết bằng tiếng nước người, và bảnh hơn tụi nó, thì mới giải phóng ra khỏi giấc mê muội vong thân!
A few years ago in a panel discussion at a literary festival
I was asked to name a recent British novel that readers and critics
would still be talking about in a hundred years' time: On the spur
of the difficult moment I plumped for Kazuo Ishiguro's Never Let Me
Go. Only as I tried to explain my choice did I realize why I had given
this answer. It was not just a novel I enjoyed and admired, it was
also a novel that enacted something elementary and elemental: a human's
need to imagine his or her origins.
The Swedish Academy has made
some dubious decisions in recent years but, in awarding Ishiguro
the Nobel Prize in literature, this year its 18 voters have got it
right. Ishiguro's novels step aside from contemporary mores and pressing
social issues. Audaciously, sometimes bewilderingly, they abstract
us from our times.
How brilliant it is that Never Let
Me Go opens with a page that says only "England, late 1990S". Narrated
by a young woman who is a clone, created to provide organs for those
requiring transplant surgery, it takes place in a version of Britain
both cosily provincial and utterly strange, The countryside, the
liberal boarding school, the English seaside town have never made for
such a disturbing backdrop. Similarly, the novel that made him famous,
The Remains of the Day, took a character familiar from a hundred English
books and films - the butler in a country house - and gave him a narrative
of painstaking evasiveness. For all the teasing period detail, it
was a novel about human self-denial and self-deception at any time
and in any place.
While stylistically austere or
self-limiting, Ishiguro's fiction revels in literary allusion
and generic playfulness. Often he takes a well-known fictional
subgenre and transforms it.
With Never Let Me Go it is dystopian
science fiction. His most recent work, The Buried Giant, perplexed
many with its rewriting of the rules of fantasy fiction. Imagining
Britain in the dark ages, it creates characters who have lost track
of history and cannot even remember the important events of their own
lives. It is a fable for all times. It is because he writes for all
times, using such carefully controlled means, rigorous yet utterly original,
that Ishiguro is such a worthy winner.
Vài năm trước đây, trong 1 lễ hội văn chương, giữa
đám đầu sỏ, tôi được yêu cầu nhặt ra 1 cuốn tiểu thuyết
“mới rồi, mới đây” – theo cái kiểu Mối Chúa - mà
tôi tin rằng, nó sẽ được độc giả và giới phê
bình săm soi trong 1 khoảng thời gian chừng một trăm năm, và,
1 trong phút xuất thần, tôi bèn “ơ rơ ka” 1 phát,
nó đây rồi.
Và đó là cuốn “Đừng bao giờ để Gấu
đi xa”, “Never Let Me Go” - như cái lần xém xẩy
ra ở PLT!
Hà, hà!
Chỉ sau đó, khi cố giải thích, thì tôi tìm ra câu trả lời.
“Đừng bao giờ” không phải là chỉ là cuốn tiểu
thuyết mà tôi chết mê chết mệt, nó còn
làm bật ra 1 điều rất ư là sơ yếu, sự cần thiết của
con người, tưởng tượng ra cội nguồn của mình.
Hàn Lâm Viện Thụy Điển,
mấy năm gần đây, có vẻ như lúng túng,
và còn gây hồ nghi, tranh cãi, trong cái
việc lựa ra con mồi của mình, nhưng lần này, thật là
OK, nhất là ở cái cú này: KI đứng ở
bên lề, đối với thứ văn chương cố bám lấy đương thời,
và xã hội. Một cách rất ư là liều lĩnh,
can đảm, những cuốn tiểu thuyết của KI gạt phăng mấy thứ rác
rưởi đó, giùm cho chúng ta. [Nguyên văn,
"Một cách liều lĩnh, đôi khi lúng túng,
chúng gạt chúng ta ra khỏi thời của mình"]
[Note: GCC dịch cái đoạn tiếng Anh, ở trên, theo kiểu
của mình. Lẽ dĩ nhiên, có "gian ý" - I
Miss U So Much - khi, lộng dịch như thế!]
Nhà phê bình Trần Ngọc Hiếu đã đọc tác
phẩm của Kazuo Ishiguro từ khá lâu. Anh ấn tượng nhất
với tiểu thuyết "Mãi đừng xa tôi". Cuốn sách viết
về những con người được nuôi trong một môi trường riêng
để trở thành nguyên liệu, nơi mà những bộ phận
trong cơ thể họ sẽ được ghép vào cơ thể của những người
khác.
Tác phẩm cho thấy những tiến bộ của khoa học công
nghệ luôn đi cùng mặt trái của nó. Xã
hội nếu đi tận cùng duy lý sẽ bộc lộ sự phi nhân
của con người, con người thành một thứ công cụ.
Qua câu chuyện, tác giả cho người đọc khái
niệm thế nào là sự phi nhân trong một xã
hội văn minh. Sự phi nhân ấy không phải tội ác, không
phải chiến tranh, mà nó song hành với sự tiến bộ.
Theo nhà phê bình Trần Ngọc Hiếu, tác
phẩm Never let me go (Mãi đừng xa tôi)
được viết trước khi nhân loại nhân bản thành công
cừu Dolly. Bởi vậy, tác phẩm đã đưa ra những dự cảm chính
xác về tương lai nhân loại.
“Tác phẩm đưa ra cái hậu nhân loại,
những dự cảm tương lai nhân loại. Ở đó, nó nhìn
thấy những nguy cơ như cấy ghép bộ phận con người là
một sự nhân bản vô tính, đe dọa tính đa dạng
của con người” - Trần Ngọc Hiếu nói.
Đưa ra những dự báo về quá trình cơ
giới hóa nhân tính con người trong xã
hội hiện đại, Mãi đừng xa tôi từ rất nhiều năm
trước đã trình bày ra một hiện thực diễn ra
trong vài năm gần đây. Nạn buôn người, buôn
nội tạng gần là những vấn nạn trong khoảng hai năm nay, nhưng
đã được Kazuo Ishiguro cảnh báo từ trước.
Theo GCC, không hẳn như thế.
Cái tít tiếng Việt dịch có tí
trật trìa, so với nguyên tác, nhưng OK.
Tuy nhiên, cái gọi là tiên tri,
không hẳn đúng. Đừng bao giờ"" nằm trong 1 dòng
văn chương có tên là "dystopian science fiction",
khoa học giả tưởng có tính không tưởng, hoang đường,
1 thứ "thiên đường mù", theo kiểu của Dương Thu Hương.
Một cách nào đó, tiểu thuyết của DTH
cũng tiên tri ra như thế, về Xứ Mít sau khi được Bắc
Kít khai hóa!
Viện Hàn lâm có tiếng là ưa dùng từ ngữ leng keng, vậy thử xem một số cách dịch động cơ trao giải cho Kazuo Ishiguro (“who, in novels of great emotional force, has uncovered the abyss beneath our illusory sense of connection with the world”) năm nay:
• Báo Giao thông, Minh Nguyễn: người đã khám phá những góc khuất sâu thẳm bên dưới cảm quan mơ hồ của chúng ta về sự kết nối với thế giới, thông qua những tác phẩm bao hàm ngọn nguồn xúc cảm lớn lao.
• CAND, Duy Tiến: [Người, với...
See MoreLần Cuối Sài Gòn
https://www.newyorker.com/books/page-turner
Kazuo Ishiguro, the New Nobel Laureate,
Has Supremely Done His Own Kind of Thing
By James Wood
October 5, 2017
Ishiguro’s “The Remains of the Day” is an almost perfect
book, and “Never Let Me Go” is one of the central novels of our
age.
I hoped that the Albanian writer Ismail Kadare would
win this year’s Nobel Prize in Literature—but, then, I hope that
every year. Kazuo Ishiguro’s en-Nobelment is a surprise; I wonder
how many readers had thought of him as a likely contender. (A graduate
of the University of East Anglia’s creative-writing school, where
he was a student of Angela Carter, he may well be the first product
of a creative-writing course to win the Nobel.) On reflection, however,
you can see how his work shares similarities with another British laureate,
William Golding: both writers have been drawn to allegory, and to historical
fiction and fantastical exploration (Ishiguro’s most recent novel, “The
Buried Giant,” is set in sixth- or seventh-century Britain; Golding’s
“The Inheritors” is about a Neanderthal family); and both writers have
practiced a kind of brilliantly imperturbable purity—they have supremely
done their own kind of thing, calmly undeterred by literary fashion, the
demands of the market, or the intermittent incomprehension of critics.
I’ve been one of those critics. I greatly admired Ishiguro’s
early novels, such as “An Artist of the Floating World,” from
1986, and “The Remains of the Day,” from 1989 (the latter seems
an almost perfect book). But “The Unconsoled” (1995), narrated
by a concert pianist and set in an unnamed Central European city, too
closely inhabited the miasmic, drifting, dreamlike state it sought
to evoke. I thought that “The Buried Giant”(2015)—apparently admired
by at least one member of the Nobel committee—was an allegory at once
too literal and too vague. (Ancient Britain has been plunged into a
nationwide historical amnesia nicknamed “the mist,” which turns out to
be the breath of Querig, a tyrannical she-dragon that must be slaughtered.
Enough said.)
But surely “Never Let Me Go” (2005), is one of the
central novels of our age, in part because Ishiguro perfectly mixes
realism and dystopian fantasy to produce an allegory of deep and
lingering power.
“Never Let Me Go” is set in a boarding school called
Hailsham, and flatly narrated, in a style of almost punitive blandness,
by a young woman named Kathy. Hailsham seems banally similar to any
British school of its ilk, and it’s only very gradually that we begin
to discern the enormous differences: it is in fact a school for cloned
children, whose organs are being harvested for ordinary, luckier,
non-cloned British citizens. The cloned children will eventually
be “called up,” and forced to donate a kidney or a lung. By the fourth
“donation,” sometime in their early twenties, they will “complete”;
they will die, having served their function.
The blandness of the novel’s narration, though initially
frustrating, is a large part of the book’s success. The somewhat
excruciating style works against the fantasy of the novel’s premise;
it deglamorizes the element of science fiction. Like Kafka’s great
novel “The Castle,” the story is so caught up in its own humdrum obstacles
and frustrations, its characters so trapped in the very mill of the
banal, that it doesn’t really resemble allegory. And Kathy’s mundane
recitation of the facts also enacts a hideously meek (and familiarly English!)
resignation: this is the way it is, there’s no point in trying to change
the terms of the game or jump the queue.
“Never Let Me Go” is a beautiful and terrifying book
because it works so well at different levels: it is a kind of parody
of English boarding-school books; it is a critique of certain emergent
medical technologies; and, above all, it is a suggestive allegory
of how all of us live. For it is our similarity to, not our difference
from, the cloned kids of Hailsham that is finally shocking. They bicker
and fight, dream and create, fall in love and have sex, like schoolkids
everywhere. But because we know that they will soon be dead, their lives
seem, to us, like cruel parodies of normal, healthy, free existence. Yet
can’t our own lives also be seen as parodies of real freedom? Just because
we have the promise of living to eighty rather than twenty, why do our
lives take on a metaphysical significance that is automatically denied
to the abbreviated existences of the cloned teen-agers? Our lives will
also, one day, “complete.” The cloned kids are living out their short death
sentences; surely our own lives are merely longer death sentences? “Never
Let Me Go” looks at our life span on this earth, and comes to the same bleak
conclusion as Pascal once did (except, of course, that Pascal believed in
God as our necessary salvation from this bleakness). “Imagine a number
of men in chains,” the French philosopher wrote, “all condemned to death,
some of whom are executed daily in sight of the rest; then those who are
left see their own fate in that of their fellows, and, regarding each other
with sorrow and without hope, wait till their turn comes: this is a picture
of man’s condition.”
I hoped that the Albanian writer Ismail Kadare would win this year’s Nobel Prize in Literature—but, then, I hope that every year. Kazuo Ishiguro’s en-Nobelment is a surprise; I wonder how many readers had thought of him as a likely contender.
KI được Nobel làm nhớ đến
Bùi Ngọc Tấn.
Giả như Kadare được Nobel năm nay, như James Wood hy vọng,
thì cũng như... Nguyễn Huy Thiệp được. Tướng Âm Binh vs
Tướng Về Hưu
NHT đã từng có tên
trong danh sách những ứng viên, nhưng lọt sổ, vì
không có bản dịch tiếng Anh, theo yêu cầu của
giải.
Nhưng đúng như James Wood nhận
xét, Tàn Ngày "gần như 1 cuốn tiểu thuyết tuyệt
hảo". KI viết, và hầu như vờ hết mọi đòi hỏi "đương thời"
của văn chương, hay của giới phê bình.
Theo GCC những dòng vinh danh Tàn Ngày
tuyệt nhất, là của Allan Massie:
If Wilson and Swift may be considered
quintessentially English], then Kazuo Ishiguro [and Timothy Mo]
offer evidence of how the English-language novel is now enriched
from a diversity of cultures. The former is of Japanese extraction,
the latter of Chinese, though both were educated in England. Ishiguro's
three novels - A Pale View of Hills (1982),
An Artist of the Floating World (1986) and The Remains of the Day (1989) - have
all been distinguished by an exquisite precision; he is a writer who works
scrupulously within self-imposed limits, achieving his effects by understatement
and the adroit deployment of his material. Each of his novels has an unmistakable
identity; yet he displays his virtuosity in his use of a different
narrative voice in each. The
Remains of the Day, for instance, is narrated by an elderly
English butler. In his portrayal of this character, so different from
himself, Ishiguro shows himself a pure novelist. The central question
which occupies Mr. Stevens, the narrator, is `what makes a great butler?'.
This may seem an extraordinary question for a young novelist to pose
at the end of the twentieth century; yet Ishiguro uses it in order
to be able to ask the far more important question of how a man's life
is justified.
Graceful, humorous, subtle and enquiring, Ishiguro
is a writer who impresses by his willingness to submerge his own
personality and by his fidelity to his material. Each of his novels
is thoroughly and perfectly composed; the proportions are always
seemly. They acquire a strength and authority from Ishiguro's acceptance
of physical realities and from the exactness of his perceptions.
Đoạn trên,
GCC trích từ 1 bài viết, nay không làm sao tìm
lại được. Nhận xét thần sầu, về 1 nhà văn mũi tẹt,
viết bằng 1 thứ tiếng của tụi mũi lõ, mà tụi lõ
chưa từng vươn tới tầm cỡ như vậy, thế mới khủng khiếp, thế mới ngả
đầu bái phục.
Đằng sau nhân vật chính Tàn Ngày,
là quá khứ cựu đế quốc, mà anh người hầu cúc
cung phục vụ, nhưng sau cùng khám phá ra, ông
chủ của mình chẳng đáng cho mình trung thành,
nhưng quái là, chính là vì cam
tâm phục vụ như thế, mà sau cùng anh ta khám
phá ra ý nghĩa của cuộc đời, của cái gọi là
phận người.
Những người cam chịu lịch sử là như thế đó!
BNT chẳng đã cám ơn nhà nước bỏ
tù ông, và những người như ông, pha lê
hóa xã hội Miền Bắc, nhờ thế chiến thắng cuộc chiến,
đánh thắng hai thằng thực dân đầu sỏ cũ và mới,
ư?
TLS số đề ngày 1 Tháng Bẩy,
mục Sổ Tay, bàn về giải Man Booker Quốc Tế, khác với
Booker Prize, dành cho nhà văn Hồng Mao, cho biết một
"tin động trời", đối với đám viết lách người Mít:
Có tên Nguyễn Huy Thiệp trong danh sách những tác
giả thượng hảo hạng, fisrt rate, được ban giám khảo lọc ra để lấy
người đoạt giải.
TLS trích lời một ông giám khảo
[Alberto Manguel], trên tờ Spectator tháng
vừa qua [Tháng Sáu], "trong danh sách những tác
giả thượng hạng... chúng tôi đã phải gạt bỏ Peter
Handke, Antonio Lobo Antunes.... Nguyen Huy Thiep, Pascal Quignard,
và Christa Wolf, tất cả những người này đều, hoặc chưa
được dịch sang tiếng Anh, hoặc đã dịch nhưng nay tuyệt bản".
ISMAÏL KADARÉ
LE DÎNER DE TROP
trad. de l'albanais par Tedi Papavrami Fayard, 200 p., 17,90
€
Kadaré considère qu'il a écrit une des œuvres « les plus sombres du siècle », face à un système qui avait « un arrière-goût d'enfer ». Cet aspect tragique et funèbre qui se dégage de la plupart de ses ouvrages n'exclut pas une veine comique qui affleure parfois comme dans Le Dossier H ou L’Année noire. Cette fois, le burlesque touche à un sujet d'importance: l’Histoire de l'Albanie
Tuần này, cả hai tờ La Quinzaine Littéraire và Lire của Tây, đều nhắc tới cuốn mới ra lò của "NHT người Albanie": Ismail Kadaré. Với Lire, là một cuộc phỏng vấn.
Tin Văn đã có vài bài
về tay này, đã từng đánh bại toàn những
ông khổng lồ để đoạt Man Booker 2005, danh sách có
cả tên NHT, nhưng bị delete, vì không có
ai biết tiếng Mít trong ban giám khảo, và vì
chưa được dịch qua tiếng Anh.
Trong
“Những đứa trẻ của im lặng”, Michael Wood có 1 bài thật
“căng”, về Tàn Ngày. Cách đọc sách
của ông, là từ hai bậc đại sư phụ trong giới phê bình,
một, đại phê bình gia “Trùm” Mác Xít,
G. Lukacs, và một, “Trùm” Cơ cấu luận, Ký hiệu học,
và là người đỡ đầu, phát ngôn viên của
trào lưu Tiểu Thuyết Mới ở Tẩy – còn là vị Thầy “hụt”
của Thầy Kuốc [hụt, theo nghĩa, phịa ra] - Roland Barthes.
Bài này “kinh” lắm. Hắc búa lắm. Thực sự là vậy. Diễn ngôn của những kẻ khác: The Dicourse of Others.
|
https://www.theguardian.com/books/2017/oct/05/kazuo-ishiguro-wins-the-nobel-prize-in-literature
His
first novel, A Pale View of Hills won the 1982 Winifred Holtby Memorial
Prize. His second novel, An Artist of the
Floating World won the 1986 Whitbread Prize. Ishiguro received the 1989
Man Booker prize for his third novel The Remains of the Day. His fouth
novel, The Unconsoled won the 1995 Cheltenham Prize.
His
novels: An Artist of the Floating World (1986), When We Were Orphans
(2000), Never Let Me Go(2005) were all shortlisted for the Man Booker
Prize.(less)
Thầy của KI, là Dos
Note: Câu này, giống thơ GCC:
Không phải tiếc
cuộc đời đã sống
Mà cuộc đời bỏ lỡ, nhớ hoài
Trong
“Những đứa trẻ của im lặng”, Michael Wood có 1 bài thật
“căng”, về Tàn Ngày. Cách đọc sách
của ông, là từ hai bậc đại sư phụ trong giới phê bình,
một, đại phê bình gia “Trùm” Mác Xít,
G. Lukacs, và một, “Trùm” Cơ cấu luận, Ký hiệu học,
và là người đỡ đầu, phát ngôn viên của
trào lưu Tiểu Thuyết Mới ở Tẩy – còn là vị Thầy “hụt”
của Thầy Kuốc [hụt, theo nghĩa, phịa ra] - Roland Barthes.
Bài
này “kinh” lắm. Hắc búa lắm. Thực sự là vậy. Diễn ngôn của những kẻ khác:
The Dicourse of Others.
A French
essayist has said: ‘What is terrible when you seek the truth, is that you
find it.’ You find it, and then you are no longer free to follow the biases
of your personal circle, or to accept fashionable clichés. "What is
terrible when you seek the truth.... "
A dictum to be pinned above every writer's desk.
Sunsan Sontag: The Case for Victor Serge
Một
anh Tẩy phán: Cái khủng khiếp nhất, khi anh tìm
sự thực, là khi anh tóm được nó
Câu này phải dán ở bàn viết của
mỗi anh nhà văn, nhất là nhà văn VC!
Gấu tính đi bài này, mấy lần rồi. Nay
nhân BNT đi xa, có lẽ đành phải dịch nó,
không phải cho BNT, mà cho những tên như ông,
cũng sắp đi như ông!
Unextinguished
The Case for Victor Serge
"After
all, there is such a thing as truth."
- The
Case of Comrade Tulayev
Đọc bài viết, và
nhìn bức hình đám tang của Bùi Ngọc Tấn,
trên Văn Vịt, thấy thê lương vô cùng: Chỉ có
mấy vòng hoa, và những vòng hoa phản động, thì
băng rôn đều bị gỡ bỏ. VC khuyến cáo, chỉ được khóc
trong nội bộ gia đình, đéo được khóc lớn. Thế là
cả lũ nhà văn VC đéo thằng nào dám chường
mặt ra trước ống kính máy ảnh, máy quay phim.
Không lẽ bạn mình nằm xuống, mà không
khóc. Lũ khốn không dám khóc, thì
Gấu Cà Chớn đi 1 đường khóc BVVC [Bạn Văn VC] của Gấu
vậy.
Nên nhớ Gấu là tên đầu tiên điểm
“Chuyện Kể Năm 2000”, trong bài điểm đã tiên tri
ra được, cái điều sau này BNT thú nhận, ông
cám ơn VC đã bắt giam ông, bởi là vì
nhờ chính sách pha lê hóa xã hội Miền
Bắc như thế, mà làm thịt được lũ Ngụy, đưa chúng
đi cải tạo mút mùa lệ thuỷ, và đuổi thằng Yankee mũi
lõ ra khỏi xứ Mít, và bi giờ chúng đang năn
nỉ nhà nước VC chúng ta, cho chúng quay lại!
Salman Rushdie: rereading The Remains of the
Day by Kazuo Ishiguro
'The real story here is that of a man destroyed by the ideas
upon which he has built his life'
Kazuo Ishiguro: how I wrote The Remains of the
Day in four weeks
The author reveals how the Tom Waits song Ruby’s Arms served as inspiration for his Booker prize-winning classic novel
Nhân vật chính của cuốn "Tàn Ngày", cũng thuộc týp "cam chịu lịch sử", và câu của Rushdie, “câu chuyện thực ở đây là của 1 người bị huỷ diệt bởi những lý tưởng mà anh ta dựa vào chúng để xây dựng đời mình", có thể áp dụng cho bất cứ 1 tên Bắc Kít nào đã từng xẻ dọc Trường Sơn đi kíu nước. Tuy nhiên, cái thứ văn chương mà BNT đã viết và tính viết tiếp, mũi lõ gọi là văn chương người chứng, witness literature. Cái sự lầm lẫn này hủy diệt tác phẩm của ông, thay vì chiến thắng thì thành hàng phục nhà nước VC. Đó là lý do tại sao sau này, ông cám ơn VC đã đưa ông đi tù.If Wilson and Swift may be considered
quintessentially English], then Kazuo Ishiguro [and Timothy Mo] offer
evidence of how the English-language novel is now enriched from a diversity
of cultures. The former is of Japanese extraction, the latter of Chinese,
though both were educated in England. Ishiguro's three novels - A Pale View of Hills (1982), An Artist of the
Floating World (1986) and The Remains of the Day (1989) - have
all been distinguished by an exquisite precision; he is a writer who works
scrupulously within self-imposed limits, achieving his effects by understatement
and the adroit deployment of his material. Each of his novels has an unmistakable
identity; yet he displays his virtuosity in his use of a different
narrative voice in each. The Remains
of the Day, for instance, is narrated by an elderly English butler.
In his portrayal of this character, so different from himself, Ishiguro
shows himself a pure novelist. The central question which occupies Mr.
Stevens, the narrator, is `what makes a great butler?'. This may seem
an extraordinary question for a young novelist to pose at the end of
the twentieth century; yet Ishiguro uses it in order to be able to ask
the far more important question of how a man's life is justified.
Graceful, humorous, subtle and enquiring, Ishiguro is a writer
who impresses by his willingness to submerge his own personality and
by his fidelity to his material. Each of his novels is thoroughly and
perfectly composed; the proportions are always seemly. They acquire a
strength and authority from Ishiguro's acceptance of physical realities
and from the exactness of his perceptions.
Đoạn
trên, GCC trích từ 1 bài viết, nay không làm
sao tìm lại được. Nhận xét thần sầu, về 1 nhà
văn mũi tẹt, viết bằng 1 thứ tiếng của tụi mũi lõ, mà
tụi lõ chưa từng vươn tới tầm cỡ như vậy, thế mới khủng khiếp,
thế mới ngả đầu bái phục.
Đâu có phải cứ viết bằng tiếng của Tẩy mũi lõ,
như mấy anh chị Mít, là thành nhà văn đâu?
Tàn Ngày tuyệt bản, được
tái bản, Rushdie đi 1 đường chào mừng, trên tờ
báo ngày Globe and
Mail, trích từ lời giới thiệu của R. nhân cuốn sách
tái xuất hiện trên chốn giang hồ, một tác phẩm cổ
điển
Cuốn này GCC đã từng giới thiệu, ngay từ ngày
mới ra hải ngoại, trên 1 đài TV của Toronto, trong 1 chương
trình chừng 15 phút của Mít.
Tếu thế.
Nói
chuyện cam chịu lịch sử, và nổi tiếng nhờ nó, bảnh nhất,
theo Gấu, là nhà văn Anh gốc Nhật, viết văn bằng tiếng
Anh 'hách hơn Ăng lê', Kazuo Ishiguro, tác giả “Tàn
Ngày”, được Booker Prize. Ông thuộc trào lưu những
nhà văn trẻ bảnh của Anh, gồm Martin Amis, Salman Rushdie… Trên
số báo Le Magazine Littéraire,
April 2006, đặc biệt về 'em' Duras, cô đầm ở xứ An Nam Mít,
có bài phỏng vần ông, do Trần Minh Huy thực hiện,
‘K.I., thời của hoài nhớ’, ‘K.I, chúng ta là những
đứa trẻ mồ côi’...
Khi được hỏi, sự thiếu vắng nổi loạn thật là rõ
ràng trong tất cả các tác phẩm của ông,
K.I. trả lời: "Đúng như thế, những nhân
vật như Stevens trong Tàn Ngày, họ chấp nhận những gì
đời đem đến cho họ, và, bằng mọi cách, đóng trọn
vai trò cam chịu lịch sử, thay vì nổi loạn, bỏ chạy… và
cố tìm trong đó, cái gọi là nhân phẩm,
chẳng bao giờ tra hỏi chế độ."
Cái gọi là nhân phẩm, bật ra từ Tàn Ngày, và là chủ đề của cuốn
tiểu thuyết đưa ông đài danh vọng, và đã được
quay thành phim… "Tôi [K.I. muốn chứng minh sự can đảm của
Stevens, nhân phẩm của anh ta, khi đối mặt với cái điều, là,
người ta đã làm hỏng đời của anh ta”.
Rushdie đọc Tàn Ngày, khác,
cái sự thất bại lớn lao nhất của Stevens, là hậu quả của
niềm tin sâu thẳm của ông ta - rằng chủ của ông, sư
phụ của ông, his master, làm việc cho điều tốt của nhân
loại.
I was
very consciously trying to write for an international audience," Kazuo Ishiguro
says of “The Remains of the Day” in his Paris Review interview. "One of
the ways I thought I could do this was to take a myth of England that was
known internationally - in this case, the English butler."
"Jeeves was a big influence." This is a
necessary genuflection. No literary butler can ever quite escape the
gravitational field of Wodehouse's shimmering Reginald, gentleman's
gentleman par excellence, savior, so often, of Bertie Wooster's imperiled
bacon. But, even in the Wodehousian canon, Jeeves does not stand alone.
Behind him can be seen the rather more louche figure of the Earl of Emsworth's
man, Sebastian Beach, enjoying a quiet tipple in the butler's pantry at
Blandings Castle. And other butlers - Meadowes, Maple, Mulready, Purvis -
float in and out of Wodehouse's world, not all of them pillars of probity.
The English butler, the shadow that speaks, is, like all good myths, multiple
and contradictory. One can't help feeling that Gordon Jackson's portrayal
of the stoic Hudson in the 1970S TV series Upstairs, Downstairs may have been as important to Ishiguro as Jeeves:
the butler as liminal figure, standing on the border between the worlds
of "Upstairs" and "Downstairs," "Mr. Hudson" to the servants, plain "Hudson"
to the gilded creatures he serves.
Now that the popularity of another television
series, Downton Abbey, has introduced a new generation to the bizarreries
of the English class system, Ishiguro's powerful, understated entry into
that lost time to make, as he says, a portrait of a "wasted life," provides
a salutary, disenchanted counterpoint to the less sceptical methods
of Julian Fellowes's TV drama. The Remains
of the Day, in its quiet, almost stealthy way, demolishes the
value system of the whole
upstairs-downstairs world.
(It should be said that Ishiguro's butler
is in his way as complete a fiction as Jeeves. Just as Wodehouse made
immortal a world that never existed except in his imagination, so also
Ishiguro projects his imagination into a poorly documented zone. "I was
surprised to find," he says, "how little there was about servants written
by servants, given that a sizable proportion of people in this country
were employed in service right up until the Second World War. It was amazing
that so few of them had thought their lives worth writing about. So most
of the stuff in The Remains of the Day ... was made up.")
The surface of The Remains of the Day is
almost perfectly still. Stevens, a butler well past his prime, is on
a week's motoring holiday in the West Country. He tootles around, taking
in the sights and encountering a series of green-and-pleasant country
folk who seem to have escaped from one of those English films of the 1950s
in which the lower orders doff their caps and behave with respect towards
a gent with properly creased trousers and flattened vowels. It is, in
fact, July 1956 -the month in which Nasser's nationalization of the Suez
Canal triggered the Suez Crisis - but such contemporaneities barely impinge
upon the text. (Ishiguro's first novel, A Pale View of Hills,
was set in post-war Nagasaki but hardly mentioned the Bomb. The Remains
of the Day ignores Suez, even though that debacle marked the end of the
kind of Britain whose passing is a central subject of the novel.)
Nothing much happens. The high point of
Mr. Stevens's little outing is his visit to Miss Kenton, the former
housekeeper at Darlington Hall, the great house to which Stevens is
still attached as "part of the package," even though ownership has passed
from Lord Darlington to a jovial American named Farraday who has a disconcerting
tendency to banter. Stevens hopes to persuade Miss Kenton to return to
the Hall. His hopes come to nothing. He makes his way home. Tiny events;
but why, then, is the aging manservant to be found, near the end of his
holiday, weeping before a complete stranger on the pier at Weymouth? Why,
when the stranger tells him that he ought to put his feet up and enjoy the
evening of his life, is it so hard for Stevens to accept such sensible, if
banal, advice? What has blighted the remains of his day?
Just below the understatement of the novel's.
surface is a turbulence as immense as it is slow; for The Remains of
the Day is in fact a brilliant subversion of the fictional modes from
which it seems at first to descend. Death, change, pain and evil invade
the innocent Wodehouse world. (In Wodehouse, even the Oswald Mosley-like
Roderick Spade of the Black Shorts movement, as close to an evil character
as that author ever created, is rendered comically pathetic by "swanking
about," as Bertie says, "in footer bags.") The time-hallowed bonds between
master and servant, and the codes by which both live, are no longer dependable
absolutes but rather sources of ruinous self-deceptions; even the happy
yokels Stevens meets on his travels turn out to stand for the post-war
values of democracy and individual and collective rights which have turned
Stevens and his kind into tragicomic anachronisms. "You can't have dignity
if you're a slave," the butler is informed in a Devon cottage, but for
Stevens, dignity has always meant the subjugation of the self to the job,
and of his destiny to his master's. What then is our true relationship to
power? Are we its servants or its possessors? It is the rare achievement of
Ishiguro's novel to pose Big Questions - What is Englishness? What is greatness?
What is dignity? - with a delicacy and humor that do not obscure the tough-mindedness
beneath. The real story here is that of a man destroyed by the ideas upon
which he has built his life. Stevens is much preoccupied by "greatness,"
which, for him, means something very like restraint. The greatness of the
British landscape lies, he believes, in its lack of the "unseemly demonstrativeness"
of African and American scenery. It was his father, also a butler, who
epitomized this idea of greatness; yet it was just this notion which stood
between father and son, breeding deep resentments and an inarticulacy of
the emotions that destroyed their love. In Stevens's view, greatness in
a butler "has to do crucially with the butler's ability not to abandon the
professional being he inhabits." This is linked to Englishness. Continentals
and Celts do not make good butlers because of their tendency to "run about
screaming" at the slightest provocation. Yet it is Stevens's longing for
this kind of "greatness" that has wrecked his one chance of finding romantic
love. Hiding within his role, he long ago drove Miss Kenton away into the
arms of another man. "Why, why, why do you always have to pretend?" she
asks him in despair, revealing his greatness to be a mask, a cowardice,
a lie. Stevens's greatest defeat is the consequence of his most profound
conviction - that his master is working for the good of humanity, and that
his own glory lies in serving him. But Lord Darlington is, and is finally
dis- graced as, a Nazi collaborator and dupe. Ste- vens, a cut-price St.
Peter, denies him at least twice, but feels forever tainted by his master's
fall. Darlington, like Stevens, is destroyed by a personal code of ethics.
His disapproval of the ungentlemanly harshness towards the Germans of the
Treaty of Versailles is what -propels him towards his collaborationist doom.
Ideals, Ishiguro shows us, can corrupt thoroughly as cynicism.
The film version of The Remains of the Day softens the book's
portrait of Lord Darlington. Sympathetically portrayed with a stiff-up
lip aplomb that slowly disintegrates, he comes across as more of a
fool than a more to be pitied than censured, Ishiguro’s novel is less
equivocal, its portrait of the British aristocracy's flirtation with
Nazism untinged by sentiment. In this matter Stevens is an unreliable
narrator, making excuses for his lordship - "Lord Darlington wasn't a
bad man. He wasn't a bad man at all" - but the reader is allowed to see
more clearly than the butler, and can't make any such excuse, At least
Lord Darlington chose his own path. "I cannot even claim that," Stevens
mourns. "You see, I trusted ... I can't even say I made my own mistakes.
Really -one has to ask oneself - what dignity is there in that?" His
whole life has been a foolish mistake, and his only defence against
the horror of this knowledge is the same capacity for self- deception
which proved his undoing. It's a cruel and beautiful conclusion to a
story both beautiful and cruel.
With The
Remains of the Day, Ishiguro turned away from the Japanese
settings of his first two novels and revealed that his sensibility
was not rooted in anyone place, but capable of travel and metamorphosis.
"By the time I started The Remains of
the Day," he told the Paris Review, " I realized that the essence
of what I wanted to write was movable ... For me, the essence doesn't lie
in the setting." Where, then, might that essence lie? "Without psychoanalyzing
myself. I can't say why. You should never believe an author if he tells
you why he has certain recurring themes."
Copyright
© 2014 Salman Rushdie. Excerpted from the foreword by Salman Rushdie
to The Remains of the Day by
Kazuo Ishiguro. Published by Vintage Canada, a division of Random House
of Canada Limited, a Penguin Random House Company.
Reproduced
by arrangement with the Publisher. All rights reserved.
KAZDO ISHIGDRO
The
surface of Kazuo Ishiguro's novel, The Remains of the Day,
is almost perfectly still. Stevens, a butler well past his prime, is
on a week's motoring holiday in the West Country. He tootles around, taking
in the sights and encountering a series of green-and-pleasant country
folk who seem to have escaped from one of those English films of the
1950s in which the lower orders doff their caps and behave with respect
towards a gent with properly creased trousers and flattened vowels. It
is, in fact, July 1956; but other, timeless worlds, the world of Jeeves
and Bertie Wooster, the upstairs- downstairs world of Hudson, Mrs Bridges
and the Bellamys, are also in the air.
Nothing much happens. The high point
of Mr Stevens's little outing is his visit to Miss Kenton, the former
housekeeper at Darlington Hall, the great house to which Stevens is
still attached as 'part of the package', even though ownership has passed
from Lord Darlington to a jovial American named Farraday who has a disconcerting
tendency to banter. Stevens hopes to persuade Miss Kenton to return
to the Hall. His hopes come to nothing. He makes his way home. Tiny
events; but why, then, is the ageing manservant to be found, near the
end of his holiday, weeping before a complete stranger on the pier at
Weymouth? Why, when the stranger tells him that he ought to put his feet
up and enjoy the evening of his life, is it so hard for Stevens to accept
such sensible, if banal, advice? What has blighted the remains of his day?
Just below the understatement of the novel's
surface is a turbulence as immense as it is slow; for The Remains of the Day is in fact a brilliant
subversion of the fictional modes from which it at first seems to
descend. Death, change, pain and evil invade the Wodehouse-world;
the time-hallowed bonds between master and servant, and the codes
by .which both live, are no longer dependable absolutes but rather sources
of ruinous self-deceptions; even the gallery of happy yokels turns
out to stand for the post-war values of democracy and individual and
collective rights which have turned Stevens and his kind into tragicomic
anachronisms. 'You can't have dignity if you're a slave,' the butler
is informed in a Devon cottage; but for Stevens, dignity has always meant
the subjugation of the self to the job, and of his destiny to his master's.
What then is our true relationship to power? Are we its servants or its
possessors? It is the rare achievement of Ishiguro's novel to pose Big
Questions (What is Englishness? What is greatness? What is dignity?) with
a delicacy and humor that do not obscure the tough-mindedness beneath.
The real story here is that of a man destroyed
by the ideas upon which he has built his life. Stevens is much preoccupied
by 'greatness', which, for him, means something very like restraint.
(The greatness of the British landscape lies, he believes, in its lack
of the 'unseemly demonstrativeness' of African and American scenery.)
It was his father, also a butler, who epitomized this idea of greatness;
yet it was just this notion which stood between father and son, breeding
deep resentments and an inarticulacy of the emotions that destroyed their
love.
In Stevens's view, greatness in a butler
'has to do crucially with the butler's ability not to abandon the professional
being he inhabits.' This is linked to Englishness: Continentals and
Celts do not make good butlers because of their tendency to 'run about
screaming' at the slightest provocation. Yet it is Stevens's longing
for such 'greatness' that wrecked his one chance of finding romantic
love; hiding within his role, he long ago drove Miss Kenton away, into
the arms of another man. 'Why, why, why do you always have to pretend?' she asked in despair.
His greatness is revealed as a mask, a cowardice, a lie.
His greatest defeat was brought about
by his most profound conviction-that his master was working for the
good of humanity, and that his own glory lay in serving him. But Lord
Darlington ended his days in disgrace as a Nazi collaborator and dupe;
Stevens, a cut-price St Peter, denied him at least twice, but felt for
ever tainted by his master's fall. Darlington, like Stevens, was destroyed
by his own code of ethics; his disapproval of the ungentlemanly harshness
of the Treaty of Versailles is what led him towards his collaborationist
doom. Ideals can corrupt as thoroughly as cynicism.
But at least Lord Darlington chose his
own path. 'I cannot even claim that,' Stevens mourns. 'You see, I trusted
... I can't even say I made my own mistakes. Really, one has to ask oneself,
what dignity is there in that?' His whole life has been a foolish mistake;
his only defence against the horror of this knowledge is that same facility
for self-deception which proved his undoing. It's a cruel and beautiful
conclusion to a story both beautiful and cruel.
Ishiguro's first novel, A Pale View of Hills, was set in post-
war Nagasaki but never mentioned the Bomb; his new book is set in
the very month that Nasser nationalized the Suez Canal, but fails to
mention the crisis, even though the Suez debacle marked the end of a
certain kind of Britain whose passing is a subject of the novel. Ishiguro's
second 'Japanese' novel, An Artist of the Floating World,
also dealt with themes of collaboration, self-deception, self-betrayal
and with certain notions of formality and dignity that recur here. It
seems that England and Japan may not be so very unlike one another, beneath
their rather differently inscrutable surfaces.
1989