|
Nobel 2014
Patrick
Modiano
par
Aurélie Filippetti
[Obs]
“Je
suis un chien qui fait semblant d'avoir un pedigree. »
Faire le portrait de
Modiano, comme me l'a demandé « l'Obs », c'est affronter un homme à la
pudeur
impénétrable dont l'obsession littéraire est d'explorer l'inquiétante
étrangeté
de l'enfance. Le chaos de ses jeunes années lui demeurant un mystère,
il en fit
des romans où l'on se perd à retracer, au détour du Bottin, des
annuaires, des
anciennes adresses, les destins disparus des fantômes du passé. Une
jeune fille
croisée et à jamais évanouie, un nom propre qui reste, seul, évocateur,
comme
un remords, quelques dates et numéros de rues, des quartiers de Paris,
qui sont
les seules traces tangibles de la réalité de l'existence de ceux qui
nous ont
precédés. A travers la littérature, il affronte bien autre chose que
simplement
lui-même: l'histoire avec un grand H, celle de l'Occupation. Mais aussi
la
mort, qui court. Il se bat contre l'oubli: la disparition des êtres et
les
omissions de l'histoire, C'est une vocation existentielle, littéraire,
historique et politique.
L'enfance
de Modiano c'est celle de la guerre. Né en 1945. Et a jamais prisonnier
de sa
date de naissance, comme ille dit dans son discours de reception du
Nobel.
Lorsque la genealogie est de hasard, c'est de l'époque que l'on devient
l'héritier.
Être né en 1945 l'oblige. Lui donne une responsabilité vis-a-vis de
l'histoire.
« J'appartiens à une géneration où on ne laissait pas parler les
enfants »,
rappelle-t-il à Stockholm. En fait à une génération où on ne leur
parlait pas.
Car les mots trop lourds, trop chargés de secrets, s'étouffaient dans
la gorge
des générations désireuses que leurs enfants ne sachent rien des
compromis ou
des tragédies de l'histoire, pour leur éviter d'être écrasés par
l'héroisme ou
la trahison des adultes. Dans chacun de ses romans s'égrènent ainsi les
énigmes,
par petites touches imperceptibles. Celle de sa propre identité, qu'il
recherche partout, comme si être né d'un père juif raflé deux fois vous
rendait
à jamais débiteur envers la providence. Avec délicatesse et pudeur il révèle le secret insondable de l'existence:
nous sommes de passage. Et que
reste-t-il de ceux qui sont passés avant nous ici, par ces lieux, ces
halls
d'immeuble? Comment survivre à cette insupportable certitude que nos
ombres
disparaitront elles aussi de ces cages d'escalier de Paris ou l'on
avait nos
habitudes, ainsi du 15, quai de Conti où d'allers en retours se
construisit sa
jeunesse. Modiano, petit Francais errant né du Paris de l'Occupation.
Qui en
fut le fruit, le rejeton presque de hasard. Et comme dans ce Paris où
les êtres,
adultes et enfants, s'évanouissaient du jour au lendemain sans laisser
d'adresse, la mort survient chez Modiano au détour d'une phrase, de
manière à la
fois anodine et terrible: «En Février 1957, j'ai perdu mon frère. » De
la même
manière qu'il découvre les camps de concentration à 13 ans au cinema
avec son père
et comprend, retisse les fils de l'incompréhensible: où étaient donc
passés
tous ceux qui s'étaient volatilisés du jour au lendemain, où est passée
Dora
Bruder? Enfin il met des images sur un mystère, à défaut de mots, il
passera
ensuite sa vie à commencer le récit de cette histoire indicible que
personne ne
pourra jamais finir. Son humilité est de revendiquer que « chacun de
[s]es livres
est un recommencement ». Ainsi peut-il dire «qu'un livre avale l'autre,
que l'oeuvre
se construit par oublis successifs», car au fond, telle est la
structure obsessionnelle
qui permet de fouiller dans les plis de la ville comme dans ceux de la
mémoire,
Pour en traquer le refoulé. Y plonger pour en chasser le non-dit. Sa
géographic
urbaine est une archeologie, Les rues de Paris ne sont pas seulement la
palette
rassurante, pérenne, dans laquelle Modiano peut puiser l'inspiration,
le décor
de ses scènes, mais bien plus que cela, Paris est un personnage à part
entière
de son oeuvre car le seul lien entre les époques et les générations
disparues.
Entre la guerre et ceux qui sont nés à ses marges, entre l'écrivain et
l'enfant
oublié passant de maison en maison, confié à des familles de passage,
mais
surtout entre l'écriture et la réalité, Paris ramène l'écrivain
distrait à la réalité
de fer de l'histoire. A sa dureté. A son exigence aussi. Marcher dans
Paris,
c'est remonter le temps, et y lire, comme chez Proust, les strates
successives
du passage des années et des êtres. Car Modiano n'est pas un écrivain
de
passage ni de promenade. Quoiqu'il s'en défende, il est aussi un
écrivain politique.
Il suffit de voir comment la guerre d'Algerie apparait, là aussi par
bribes et
effieurements, au detour de ses pages, pour que la litote de cette
évocation
fasse comprendre que c'est l'événement majeur, structurant, de sa
jeunesse.
Mais au-delà de cela, c'est sa méticuleuse reconstitution du passé qui
fait
oeuvre contre l'oubli et qui rappelle génération après génération que
l'on ne
nait pas impunément en 1945. « La place de l'Étoile », elle n'est pas
seulement
à Paris, elle est au revers de sa veste. +
“Tớ là 1 con
chó làm như biết gia phả chó của mình”. “Tớ thuộc 1 thế hệ mà người lớn
không
cho trẻ con nói.”
Mỗi cuốn sách của ông là 1 lại bắt đầu. Và như thế, có thể
nói, cuốn nọ đợp cuốn kia, và tác phẩm của ông được xây dựng bằng những
lãng
quên kế tiếp nhau.
Nobel 2014
Nobel 2014
Modiano cập nhật
Modiano
update. Readers may recall that our visit to Foyles the day after the
award of
the Nobel Prize to Patrick Modiano yielded not one of his books. Now, a
special
display has been mounted in the French department, with a poster of the
newly
prosperous author above a table supporting several titles, including a
ten novel
omnibus, if you like that kind of thing. Six more rest on the shelves.
In the
general fiction department, you may still purchase the two books in
English we
mentioned last time, The Search Warrant
and Suspended Sentences.
A reader
tells us that the available books in English by Modiano are outnumbered
by
books about him. There are, he says, six studies of his work in print,
ranging
from the straight-talking Patrick Modiano
by Alan Morris to A Riffater-rean Reading
of Patrick Modiano's "La place de l'étoile": Investigating
the family crime by Charles O'Keeffe.
"Riffaterrean'' refers to the late serniotician Michael Riffaterre.
Meanwhile,
the quirks of Modiano continue to give pleasure. Picking up Un
Pedigree, a memoir, the other day we
read, "Je suis né le 30 juillet 1945, à Boulogne- Billancourt ... ",
which sent us back to the close of Quartier
perdu, a novel, in which the narrator fills out a hotel
registration form
with "ma vraie date de naissance: 25 juillet 1945. Et même l'endroit
exact
où je suis né: Boulogne-Billancourt". What's five days to a writer of noir métaphysique?
Near the end
of Dans le Café de la jeunesse perdue,
we meet "Jimmy Campbell, unchanteur anglais", a café regular. This
caught the interest because we are familiar with a singer of the same
name-though
not "anglais". Who doesn'tknow Blind James Campbell of Nashville, who
recorded many tracks with his "Friendly Five" in 1963? They include
"I Am So Blue When It Rains" which, translated into French, would make
a pleasing Modiano title.
JC
TLS Nov 28,
2014
What's five days to a
writer of noir métaphysique?
Trong Un Pedigree,
một hồi ức, Modiano phán, tớ sinh ngày 30 Tháng Chín, năm 1945.
Nhưng
khi điền phiếu đăng ký khách sạn Xề Gòn, để trình Cớm VC, ông viết,
tớ sinh ngày 25 Tháng
Chín, 1945, ngày sinh đúng của tớ!
Năm ngày là chi đối với 1
nhà văn Nobel, chuyên viết về "đen siêu
hình": Đô hộ?
Bữa trước
chúng tớ có bố
cáo, đếch có 1 cuốn sách nào của Modiano, tại tiệm sách số 1 ở London.
Tình hình bi giờ khá hơn nhiều, nhưng 1 độc già TLS cho biết, sách viết
về Modiano nhiều hơn sách của Modiano!
Did Patrick
Modiano Deserve It?
Liệu
Modiano xứng đáng đợp Nobel?
Anka
Muhlstein
December 18,
2014 Issue
This fog
that envelops people and places explains a lack of depth and
individuality in
Modiano’s characters. The author, and therefore the reader, are left on
the
outside, giving rise to the feeling that one is always rereading the
same book.
This is doubtless the reason why Modiano, in spite of his remarkable
talent,
and a success that has never flagged in the past forty years, has not
acquired
the indisputable stature of very great novelists.
Suốt đời cày
chỉ một rãnh cày, vậy mà được Nobel ư?
Có một
"thềm sương mù" - thuổng TTT - bao phủ người và vật, khung cảnh và
nơi chốn... Nó giải thích cái sự thiếu chiều sâu và tính khí cá nhân
của những
nhân vật của Modiano. Tác giả, và sau tới người đọc bị gạt ra bên
ngoài, làm
tăng lên cái cảm nghĩ, cái tên đó - tác giả & độc giả - đọc đi đọc
hoài, chỉ
1 cuốn sách.
Điều này giải thích Modiano mặc dù tài năng có thừa, vậy
mà chưa
có được cái thế giá của 1 tiểu thuyết gia nhớn.
Ui chao, bèn
nhớ ngay ra... Gấu Cà Chớn, cũng bị
chúng chửi hoài, có thằng em tử trận, có một BHD, thế là ca cẩm hoài!
Note: Bài
này không cho đọc free, nguyên tác tiếng Tẩy, ra ý, tụi Tẩy chửi mi
nhe, không
phải Mẽo!
TV sẽ chuyển ngữ, sau.
Khi Gấu Cà
Chớn phán ẩu, chính nhạc sến mới là nơi cất giữ linh hồn Miền Nam trước
khi bị Bắc
Kít chiếm đóng, đô hộ, được CM gật gù khen, đã thú, nhưng chính Modiano
cũng phán
như thế, về tác phẩm của mình, và về thời kỳ Tẩy bị Nazi đô hộ: Những
dấu vết để lại một thứ nhạc sến. Cái đó mới cần tìm, thay vì một mô tả.
(1)
Cháu đọc
entry của bác từ lúc nó chưa đổi tên cơ, khi còn là "SG mùa này thì cứ
triền
miên buổi chiều và rả rích đêm khuya" ấy. Nhưng mà quả thực là không
biết
nói gì thêm, hihi :D.
Hôm nào cháu
viết tặng bác 1 entry nhé, vì cháu rất thích cái nhận xét của bác "cái
hồn
của văn chương Miền Nam, là ở trong nhạc vàng, nhạc sến".
CM
Mấy ông Hàn
Lâm phán, cho mi Nobel là vì cái "nghệ thuật hồi tưởng mà với nó mi vén
cái màn
che phủ cái thế giới thời Đô Hộ". Tóm tắt như thế, liệu có bảnh không,
về
tác phẩm của mi?
Thì
cũng được
thôi. Nhưng cái quên lãng khủng hơn nhiều, và đó mới là đề tài của tôi.
Đô Hộ với tôi, là Tội Tổ Tông, là Đêm Uyên Nguyên, la nuit originelle.
Les jurés du
Nobel ont précisé qu'ils vous récompensaient pour "l'art de la mémoire
avec
lequel vous avez devoilé le monde de l'Occupetion». Est-ce un bon
résumé de votre
oeuvre ?
Modiano:
C'est
un peu elliptique ... Mais oui ... En un sens ... De toute facon, les
lecteurs
savent mieux que
moi ce que j'ai écrit. La mémoire, oui, mais il faudrait insister sur
le fait
qu'il s'agit, au
fond, de la mémoire sur fond d'oubli. La toile de fond de tous mes
romans, c'est l'oubli.
Les nappes d'oubli. La mémoire parvient à les percer, ces nappes, par
petites trouées,
bien sur, Mais mon véritable sujet, c'est l'oubli plus que la mémoire.
L'oubli
est cette couche
qui recouvre tout ce qu'on a vécu. La mémoire est ce qui tente de
percer cette
couche. Mais la couche est toujours là. Quant à l'Occupation, c'est
différent.
Je suis né en 1945.
Tous ceux qui sont nés à cette date, après le chaos de la guerre, en
sont le produit. Même
s'ils ne l'ont pas vécue. Donc je ne me distingue pas tellement de la
plupart des gens de
ma génération: beaucoup ont exprimé le malaise qui consiste à être le
fruit de cette époque.
Si ce n'avait pas été moi qui avais exprimé cela par des romans,
d'autres
l'auraient fait, je pense. L'Occupation est pour moi la nuit originelle.
Thì cũng hơi
e-líp, nhưng quả là thế, theo 1 nghĩa nào đó. Nhưng nói cho cùng, độc
giả rành
hơn tôi, về cái gì mà tôi viết ra. Hồi ức, OK, nhưng đúng ra là, hồi ức
trên
cái nền quên lãng. Cái nền của tiểu thuyết của tôi là quên lãng. Những
cái thảm
quên lãng. Hồi ức bèn chọc thủng chúng. Đề tài chính của tôi đúng là
quên lãng,
tức, quá cả hồi ức... Còn về Đô Hộ, có khác. Tất cả lũ chúng tôi là sản
phẩm của
nó.
LIRE NOVEMBRE 2014
Câu này
thật tuyệt, và cho
thấy, cái chất Simenon, ở tiểu thuyết của Modiano: Trở về quá khứ, thì
cũng cẩm như trở về những nơi chốn của 1 tội ác. "Revenir sur le passé,
c'est toujours un peu comme retourner sur les lieux d'un crime."
Nobel 2014
Patrick
Modiano accepts Nobel prize, confident of literature’s future
In his
acceptance speech, novelist says he is convinced the writers of the
future
‘will safeguard the succession’
Số Lire này có bài “lèm bèm”, entretien, với Modiano, tuyệt
lắm. Ông có
nhắc tới.... NMG, khi giải thích giùm ông chủ chi địa ngày nào của GCC,
về lý
do tại sao lại bệ cái tên Tường vô MBD:
Tớ không xài bạc giả - Modiano chôm từ của Mai Thảo - mà luôn xài bạc
thật, để
xây dựng hình giảo đài!
Phải đúng là Tường mới được, cho địa ngục Huế Mậu Thân!
Tôi luôn dùng tên những người đã từng thực sự hiện hữu. Điều này giúp
tôi dựng lên hình giảo đài!
Thảo nào Bọ Lập gặp HPNT
khóc ròng, “Ra Tết Sửu rồi, Lập vào Huế thăm Hoàng Phủ
Ngọc Tường. Hôm đó Lập đã vào toilet khóc vì ngồi hàng giờ, lắng tai
chăm chú
mà không nghe được anh Tường đang nói với mình cái gì. Anh em lâu ngày
về ngồi
bên nhau, lại nói với nhau bằng tiếng Việt, giọng “bọ” cả, thế mà lại
không
nghe nhau được vì anh Tường bị tai biến nên nói ngọng, thật oan nghiệt,
đau đớn.
Không khóc răng được.” (1)
Gấu nghi,
HPNT tính truyền nghề “chém treo ngành” cho đàn em!
Kẹt, với NMG, là khi đó
HPNT còn sống.
Nhưng Người không thể chờ được!
Không Tường, là kể như tiêu MBD!
Câu này cũng tuyệt: Kỷ
niệm ấu thời là những puzzles, nhiều mẩu bị mất do quên lãng gậm
mất.
Les souvenirs d'enfance sont des puzzles auxquels il manque beaucoup de
pièces, rongées par l'oubli
Tờ LRB, có bài
về Kafka, cho đọc free, Gấu chôm rồi, post rồi, nhưng cầm tờ báo giấy
lên, còn
bài về Camus của Algeria. Đành cầm luôn.
Trên đường về, đọc được 1 câu thật là khủng, từ Merleau-Ponty, trong
"Nhân Bản và
Khủng Bố", Humanism and Terror: Đếch
có cuộc cách mạng nào sống sót được, nếu không xài thần dược khủng bố!
(1)
Thảo nào Huế
Mậu Thân!
(1)
No
revolution could survive a ‘terror”: Không 1 cuộc cách nào sống sót nổi
một cuộc
“khủng bố”: Đây là "niềm tin" của MP, khi viết cuốn này. Tin Văn đã
giới thiệu,
trong bài viết về chủ nghĩa CS và Khủng Bố
(2)
Cách Mạng là
phải đổ máu. Đéo đổ máu là bèn đáng ngờ!
Gấu đã từng
chôm ý này, đưa vô "Lần Cuối Sài Gòn", [chôm, hẳn thế, vì làm sao mà
Gấu có được cái
ý này], hồi ở Trại Tị Nạn Thái Lan.
Nhưng có 1 độ lệch giữa hai ý.
Nobel 2014
Le Magazine Littéraire Oct
2014: Địa lý của hồi nhớ. Không phải tự nhiên mà Modiano được coi là đệ
tử của... Simenon
Nobel 2014
Patrick
Modiano a recu un cadeau empoisonné de la part du comité Nobel. Passe
encore
qu'il soit assailli par les reporters du monde entier et qu'il doive
sacrifier,
s'il réussit à se faire violence, au rituel du discours de remerciement
lors de
la remise officielle à Stockholm, lui qui a déjà tant de mal s'exprimer des que l'auditoire dépasse trois
personnes.
Le sale coup est ailleurs: dans le communiqué officiel par lequelles
académiciens
suédois ont justifié leur choix. Deux mots sont à retenir : « mémoire »
et «
Occupation ». Pas de problème pour le premier. Le second est plus
regrettable,
ramenant encore et encore ses livres aux années noires. Bien sur elles
n'en
sont pas absentes; bien sur avec elles il a crée son propre poncif; et
nul
doute qu'elles le hantent d'autant plus qu'il ne les a pas vécues,
étant ne au
lendemain de la Libération. Mais, en inscrivant ce mot dans ses
attendus, le comite
Nobel la réduit. Car son univers dépasse et transcende depuis longtemps
la période
1940- 1944 : son dernier roman en témoigne, ainsi que Le
Magazine litteraire l'annoncait le mois dernier en couverture et
dans ses colonnes.
Mais basta!
Disons que ce malentendu est la rancon de la gloire et que le reste,
une fois
tues les trompettes de la renommée, demeure ce qui nous importe le
plus: la
littérature, En l'espèce une oeuvre compacte, d'une remarquable
homo-geneité,
issue d'une plume qui n'a cessé de creuser le même sillon depuis
quarante ans,
insensible aux modes, à l'air du temps, aux pressions de la librairie.
Romancier et non écrivain et encore moins homme de lettres, eut dit
Simenon,
dont on en a fait l'héritier, à juste titre. Romancier
parce que bon qu'à ca, eut dit Beckett, et il faut le prendre comme un
compliment. II y a du ressassement dans cette obsession pour une
époque. Mais
il faut saisir qu'elle lui permet avant tout
de creuser ce qui lui est le plus cher : l'ambiguité des situations, la
confusion
des sentiments, le flou des atmosphères, tout ce qui fait notre
indécision en temps
de paix comme en temps de
guerre.
Le quinzième
lauréat francais des Nobel ajouterait : « Oui c'est bizarre ... » Car
sa prose poétique
releve d'un art tout musical. Comme une chanson : toujours le même
refrain mais avec un
autre point de vue. On a connu de plus noirs ressacs. Le sien, pour
n'être pas
toujours lumineux,
est nimbé d'une grace qui a partie liée avec la nostalgie sans être
mélancolique.
Une prouesse. On
appelle cela « la magie Modiano » faute d'en avoir pu définir ou
dessiner les contours.
Quant a en expliquer le mécanisme, autant y renoncer, et c'est tant
mieux. Rejouissons-nous
de ce que des académiciens suédois, plutôt bien inspirés depuis une
quinzaine
d'annees, l'aient couronné. Déjà traduit dans une trentaine de pays, il
y sera
désormais également
lu. Murakami, Roth et quelques autres patienteront. Avec le sacre de
Patrick Modiano, des
centaines de milliers de lecteurs à travers le monde, c'est tout le mal
qu'on
leur souhaite,
vont decouvrir une certaine France .•
Nobel 2014: Phần thưởng cho 1 nhà văn
nguyên chất, dòng dã 40 năm trời,
đào xới, chỉ có 1 đường cày!
Một món quà tẩm thuốc độc từ Uỷ Ban Nobel!
Tiểu thuyết
gia thôi. Không phải nhà văn, cũng không phải "văn nhân", homme de
lettres, như Simenon phán, và Modinano, rõ ràng là đệ tử của ông ta,
chưa kể 1 ông khác nữa, là Beckett.
Món qùa tẩm thuốc độc ư? Thì đúng như thế. Một khi đưa vô danh sách
đen, như danh sách những tên nhà văn Ngụy, phản động đồi trụy, ở đây là
vòng hoa Nobel, hai từ "mémoire:, và "Đô hộ", "mémoire" thì không sao
nhưng "Đô hộ", độc quá! Vả chăng, một khi trình ra như thế, là khoanh
vùng Modiano, bởi và là vì ông đã vượt quá cái khúc quanh 1940-1944 này
rồi.
Nhưng thôi, bỏ đi tám, trở về với con cừu của chúng ta: văn chương....
.....
Viện Hàn Lâm
Thụy Điển vinh danh Patrick Modiano, một “Proust của thời chúng ta”.
“Thật
là khích lệ”, ông nhà văn bí ẩn phán, và, trước khi tắt ngọn đèn sân
khấu, the
limelight, tuyên bố, tặng giải thưởng cho đấng cháu trai của mình.
Patrick
Modiano là 1 cái tên quen thuộc, như mớ rau mớ dưa, với dân Tẩy, với 30
cuốn tiểu
thuyết kỳ kỳ, sách thiếu nhi, kịch bản phim, lời nhạc… Tác phẩm của ông
được dịch
ra 36 thứ tiếng nhưng hầu như vô danh trong giới nói tiếng Anh, bởi là
vì rất ít
tác phẩm của ông được dịch ra tiếng này. Những nhà xb của ông hy vọng
giải
Nobel trao cho ông sẽ thay đổi tình hình. Trong khi chờ đợi, Đại học
Yale
University Press đi 1 đường chào mời “Những câu văn bị treo: Ba tiểu
thuyết”, sẽ
ra mắt độc giả năm tới.
Tác phẩm của
Modiano “ám ảnh”, obsessively, [“cay đắng” hay hơn, vì đúng là từ Sến
mắng “iêu”
Gấu, sao anh cứ “cay đắng” mãi như thế, hà, hà!] nhìn lại, cú Nazi độ
hộ Tẩy,
thời Đệ Nhị Chiến, ném [dọi] ánh sáng lên những vùng u tối, hẻo lánh
của cuộc
xung đột. Những giả tưởng đầu tay của ông tố cáo đám nằm vùng, bợ đít,
cộng tác,
ăn cơm Tẩy thờ Nazi, và vai trò của đám khốn kiếp này, trong cái vụ đẩy
Do Thái
vô Lò Thiêu.
Ông ra đòn này trước khi đám
sử gia nhập cuộc. [Sau này, thế nào đám sử gia Mít cũng sẽ lôi những cú
GCC tố
cáo Cái Ác Bắc Kít ra, để tìm nguyên nhân cuộc chiến Mít!].
Những tác phẩm sau,
chi ly hơn, về những rắc rối đa đoan, của 1 thời kỳ vưỡn còn ám ảnh dân
Tẩy.
Tại sao Âu Châu lại có thể là lò cừ văn hóa và một sàn diễn của cái man
rợ tồi tệ đến như thế?
Tại làm sao lại có 1 giống dân ưu việt đến như thế. Hitler đã từng
phán, Do Thái phịa ra ý thức, lương tâm (1)
(1)
Exemple
: « Ce qui me fascine, c'est le mystère de l'excellence intellectuelle
juive.
II ne faut pas être hypocrite: en sciences, le pourcentage de Nobel est
écrasant.
II y a des domaines dans lesquels il y a presque un monopole juif.
Prenez la création
du roman américain moderne par Roth, par Bellow, par Heller et tant
d'autres.
Les sciences, les mathématiques, les médias aussi. .. Est-ce qu'il y a
le fruit
de la pression terrible du danger? Est-ce que le danger est le père de
l'invention
et de la création? J'ose le croire. Le judaisme est la seule religion
qui ait
une prière spéciale pour les families dont les enfants sont des
savants. Cela
me remplit d'une joie et d'un orgueil fou. [ ... ] Non vraiment, quand
Hitler déclare
"Ie Juif a inventé la conscience", il a parfaitement raison. [ ... ] Le
mystère de ce qui attise la haine chez le non-Juif, c'est je crois que
le Juif
a signé un pacte avec la vie. II semble y avoir une négociation
millenaire entre
le Juif et la vie elle-même, le rnystère de la vitalité humaine. "
Thầy
của Gấu phán về Do Thái của Thầy mới bảnh làm sao. Trò cũng có những ý
nghĩ tương tự về gốc Bắc Kít của nó, nhưng cái kết luận của Thầy và của
Trò ngược
hẳn nhau:
Những tên Bắc Kít cực kỳ thông minh, là thể nào não của chúng cũng bị
thiến mất 1 mẩu, đúng mẩu có lương tri của con người.
Thầy, Do Thái đã ký 1 hòa
ước với đời sống, và chính vì thế mà dân Do Thái bị thù ghét!
Nghiên cứu hậu
thực dân ở Việt Nam:
một nhu cầu
thực tế hay một giả vấn đề?
Nguyễn Hòa (a)
Du nhập một
lý thuyết nào đó từ nước ngoài và vận dụng để nghiên cứu văn học Việt
Nam là
công việc bình thường trong hoạt động khoa học. Song dù bình thường thì
khi du
nhập và vận dụng, người nghiên cứu vẫn cần xem xét sự tương thích giữa
lý thuyết
với thực tiễn văn học; vì nếu không có sự xem xét đó, sản phẩm nghiên
cứu sẽ chỉ
là “hư cấu chủ quan”, chẳng hạn như việc gần đây một số tác giả sử dụng
các
khái niệm “trung tâm”, “ngoại vi”,… của Chủ nghĩa hậu thực dân làm công
cụ lý
thuyết để nghiên cứu văn học Việt Nam. (2)
Note: Theo
GCC, đây không phải “giả vấn đề”, mà 1 vấn đề có thực, xẩy ra cho bất
cứ 1 nền
văn minh nào, như Brodsky đã từng viện dẫn. Rõ rệt nhất, là trong thời
gian chiến
tranh, văn chương Miền Nam nở rộ, trong khi Miền Bắc sơ cứng, giáo
điều, lại thêm 1 nền giáo dục hận thù, trồng người 100 năm, làm hư hoại
không biết đến bao nhiều đời, bao nhiêu thế hệ... và
bây giờ, có thể nói, văn chuơng Mít mới có khởi đầu, từ đứt đoạn đó.
Không phải
tự nhiên mà trong nước đào bới cái thứ văn học mà VC gọi là "nô dịch",
của
Ngụy.
Từ tro than, con phượng hoàng tái sinh, là vậy.
Tuy nhiên,
phải có người thực sự quan tâm, theo dõi, và có khả năng đụng vô những
đề tài
này. Theo GCC, Nguyễn Hòa với Hải Ngọc không làm được chuyện này. Hải
Ngọc, như
Gấu có đọc vài bài dịch trên Blog của xừ này, có tí trình độ ngoại ngữ,
tiếng
Anh, nhưng mù tịt về mọi kiến thức khác. Ông ta dịch sai mấy từ quan
trọng,
trong 1 bài dịch Paz, GCC nêu lên trên Tin Văn, ông ta len lén sửa,
đếch cám ơn
Gấu con mẹ gì hết.
Một thái độ như thế là hư rồi.
Viết ra có người đọc, đã sướng rồi, có người
mất
công chỉ những thiếu sót, quá sướng, vậy mà cũng vờ, không chỉ vờ cám
ơn, mà còn len lén sửa!
Theo GCC, VC
không có thói quen "cám ơn" như Ngụy, trong những trường hợp như
vầy.
Hồi Gấu viết cho Chợ Cá Bá Linh, Sến kêu 1 tên, đè bài
viết của Gấu ra sửa, đéo thèm
xin phép Gấu, rồi để tên hắn vô, thêm dòng "hiệu
đính", ra ý, tao "hiệu đính" bài của tên Ngụy đấy!
Ỏ Sài Gòn, trước 1975, một việc làm như vậy là của tay tổng thư ký.
Chuyện thường ngày
ở bất cứ 1 toà soạn nào, và khi làm như thế, họ thông báo cho tác giả.
Nếu OK, họ đăng, không, trả lại bài viết cho tác giả.
Làm gì có trò "hiệu đính" mất dậy như thế.
Từ "hiệu đính" chỉ được dùng, khi, chính người viết yêu cầu, 1 đàn anh.
Một cử chỉ, truyền thống... rất ư là đẹp của Miền Nam trước 1975.
Sai lầm của Hải Ngọc, khi
dịch Paz, là không có kiến thức phổ thông, về
quang học.
Bài dịch Zizek cho thấy, ông không có chút hiểu biết về triết học. “Nhà
Tra Tấn”, nguyên tác, đổi mẹ thành
“Phòng Tra Tấn”, dịch như thế thì quá nhảm!
Quá ngu, đúng
hơn. Nếu là "phòng", thì Zizek mất công viết làm mẹ gì!
Phòng tra tấn,
thì đầy ra ở xứ Mít, chuyện nhỏ.
Nhà tra tấn
ngôn ngữ mới là chuyện lớn. Đây là chữ của Heidegger.
Theo GCC sở
dĩ Nhã Cô Nương bị chúng lấy lại cái cần câu cơm, là vì đụng vô vấn đề
này, dám
ca ngợi biên cương, ngoại vi... tức lũ Ngụy. Tay Nguyễn Hòa, cũng 1 thứ
mù dở
biết gì mà viết mới lách?
Đây là đánh người ngã ngựa, cực tởm.
NQT
Có tới hai nghiên cứu hậu
thực dân ở xứ Mít.
Một, với tụi mũi lõ.
Và 1, với Yankee mũi tẹt, như Gấu đang làm.
Hồi giữ
trang VHNT cho tờ Tiền Tuyến, do TTT giao lại cùng mớ bài vở, mày coi,
rồi sửa,
rồi đăng cho họ, Gấu đã làm cái việc hiệu đính cho hai đấng, sau đều có
tiếng tăm
trong chốn giang hồ. Một, là Nguyễn Mai. Gấu gần như viết lại tất cả
những bài
viết của anh, lý do là, chưa quen viết cái thứ gọi là điểm sách, tuy có
những
nhận xét rất tới. Ui chao, anh mừng quá, và sau đó, trả ơn Gấu, khi Gấu
dính Cô
Ba, bằng cách giới thiệu Gấu với ông Nhàn, chủ nhà xb Vàng Son, phụ
trông coi bài
vở cho tờ báo Thiếu Nhi của ông, và dịch sách. Nhờ dịch sách cho ông
Nhàn, Gấu
thoát chết ở nông trường cải tạo Đỗ Hòa, vụ này kể nhiều lần rồi. Một
tay nữa,
cực nổi tiếng ở hải ngoại, sau 1975, tác giả của bản danh sách 12 tên
nhà văn
Ngụy phản động, đồi trụy, ngay sau 30 Tháng Tư 1975, trên tờ Tin Sáng,
trong đó,
Gấu đứng hàng thứ bẩy!
Thảo Trường, khi còn sống, nghe chuyện này, thú quá, hỏi Gấu, này,
trong 12 tên đó, có tớ không, hà, hà?
*
Cam On
Monday, December
1, 2014 12:12 PM
Xin cảm ơn và chúc
sức khỏe !
Theo
GCC,
VC không có thói quen "cám ơn" như Ngụy, trong những trường hợp như
vầy.
Hồi
Gấu viết cho Chợ Cá Bá Linh, Sến kêu 1
tên, đè bài viết của Gấu ra sửa, đéo thèm xin phép Gấu, rồi để tên hắn
vô, thêm
dòng "hiệu đính", ra ý, tao "hiệu đính" bài của tên Ngụy
đấy!
Ỏ
Sài Gòn, trước 1975, một việc làm như vậy là
của tay tổng thư ký. Chuyện thường ngày ở bất cứ 1 toà soạn nào, và khi
làm như
thế, họ thông báo cho tác giả.
Nếu
OK, họ đăng, không, trả lại bài viết cho
tác giả.
Làm
gì có trò "hiệu đính" mất dậy như
thế.
Từ
"hiệu đính" chỉ được dùng, khi,
chính người viết yêu cầu, 1 đàn anh. Một cử chỉ, truyền thống...
rất ư là
đẹp của Miền Nam trước 1975.
Đa tạ
Merry
Christmas and Happy New Year to you & family
Long time no
mail.
Take Care
NQT
Nobel 2014
French Letters
Suspended Sentences: Three
Novellas.
By Patrick Modiano. Translated by
Mark Polizzotti. Yale University Press; 232 pages; $16 and £12.99
THE Swedish
Academy hailed Patrick Modiano as "a Marcel Proust of our time" when
it awarded him the Nobel Prize in literature last month. "That is
encouraging,"
the enigmatic writer said before he backed out of the limelight by
announcing
that he was dedicating the prize to his grandson.
In his
native France Mr. Modiano is a household name, with 30-odd novels,
children's
books, film scripts and song lyrics to his credit. His works are
considered
classics and can be read in 36 languages, but he is largely unknown in
the
English-speaking world because so little of his writing has been
translated.
His publishers hope the Nobel award will change that; Yale University
Press has
brought forward the English-language publication of "Suspended
Sentences:
Three Novellas" which was not due until next year.
Mr. Modiano's work
obsessively revisits the German occupation of France in the Second
World War,
throwing light on some of the conflict's murkier recesses. His early
fiction
denounced France's collaboration and its role in the deportation of
Jews, well before
historians took up the task. His later work looks more closely at the
complexities
and ambiguities of a period that still haunts people. It charts the
mechanisms
of memory, both personal and national; the ways in which it is
repressed; the
need both to remember and to forget; and the difficulty of making sense
of the
past when evidence is scant, fading or contradictory.
Mr. Modiano was born on
the outskirts of Paris in July 1945, less than three months after the
war ended
in Europe. His mother was Belgian, his father Jewish of Italian origin.
"I
am a product of the occupation," he says, "that bizarre period when
people who were never meant to meet met and accidentally had children."
His first novel, "La place de l'Étoile" (1968), which won several
prizes, denounced the home-grown brand of anti-Semitism that had made
it easy
for France's Vichy regime to slide into collaboration. The book took
aim at the
Gaullist myth that dominated the post-war years, according to which
France was
a nation of resisters. A year later, "La Ronde de Nuit" explored the
nature of the French Gestapo and its role in the spoliation of Jewish
property.
It portrays a man who works both for the Gestapo and for the resistance
and
whose moral ambiguity reflects France's national divide.
The three novellas
that make up "Suspended Sentences" offer a fine introduction to Mr.
Modiano's later work. Loosely autobiographical, they also hark back to
the
occupation, but at one remove, through the memory of a younger
generation haunted
by their parents' unspoken trauma. Each revolves around an enigma never
fully
elucidated: the flight of Jansen, a taciturn photographer; the taboos
and secrets
of a dubious adult world; and the obscure identity of a character named
Pacheco.
All may be linked back to the French Gestapo. Mr. Modiano's father
survived the
occupation as a black marketeer. He was sent to Drancy, the camp just
outside Paris
where Jews were interned before deportation, but rescued, it seems, by
someone
working for the French Gestapo. Double identities, disappearing acts
and survivor
guilt are all motifs of a larger conundrum that Mr Modiano strives to'
understand
about the war, the occupation and his father's role in it.
Mr Modiano's
pared-down prose seems to have less in common with Proust's sinuous
sentences
than with the American Noir novels that inspired his early work. But
they both
like using complex time frames; among their other common interests are
French anti-Semitism,
the fickleness of political affiliation, the inscrutability of
characters,
childhood estrangement from aloof parents or the awkwardness of
adolescents in
an incomprehensible adult world. Mr Modiano's novels are pervaded by a
sexual
and moral ambivalence and by social and political ambiguity. Improbable
aristocrats, likeable eccentrics, would-be actresses, circus performers
and
cabaret workers-no one is ever who they appear to be. And Paris
features as a
character in her own right, refusing to surrender the secrets of her
past.
As in
Proust's work, Mr. Modiano's narrators recover scraps of memory by
chance, yet
still question whether the past can be recaptured. This is most
striking in
"The Search Warrant" (1997), the book many consider to be his
masterpiece and in which the narrator tries to piece together what
happened to
a young Parisian girl, Dora Bruder, who died at Auschwitz. Knowing that historical narrative can only be
tentative, Mr. Modiano thrusts his fiction into territory that history
and
research cannot reach. His account becomes an invitation to understand
the complexities
and ambiguities of the period and to remember those who have no one to
remember
them.•
The
Economist Nov 29 2014
"I am a
product of the occupation," he says. Tớ là sàn phẩm của đô hộ. Modiano
tự
giới thiệu.
Gấu hết
credit đọc chùa, thành ra phải mua tờ báo, tự bảo mình, hay là Gấu nhập
vai… Modiano, viết về thời Nam Kít bị Bắc
Kít đô hộ,
từ 1975 cho tới khi bỏ chạy thoát quê hương xứ Mít?
Nghe có lý quá!
Modiano
update.
In our
previous bulletin, we were obliged to report that on the day after
the award of the Nobel Prize in Literature to Patrick Modiano, London's
largest
bookshop, Foyles, was unable to supply a single one of his books, in
French or
English. On the generally well-equipped Foreign floor, the counter
assistant
appeared not to know who he was.
After a
further outing, we are pleased to say that you may now purchase The Search Warrant,
first published by Harvill in 2000 and reissued (it appeared in French
in 1997
as Dora Bruder). Yale
University Press is about to publish Suspended
Sentences,
three interrelated novellas in one volume (the other two are After image and Flowers of Ruin).
In Foyles's French department, we saw Accident nocturne, La
Place de l'étoile, Rue des boutiques obscures and the memoir Un Pedigree, in both
audio format (read by Jean-Louis Trintignant) and as a Folio paperback.
We
plumped
for the latter. Immediately following us at the caisse was a cultured-looking
chap with Rue des boutiques obscures
in his hand. You will be relieved to learn
that we resisted saying that Modiano was now selling like gateaux chauds.
J.C. [TLS Nov
7]
Nobel cập nhật.
Trong bản tin trước, chúng tôi có bố cáo rằng thì là vào cái ngày
Modiano được
Nobel, tiệm sách bảnh nhất ở London đếch có 1 cuốn nào của ông, tiếng
Tẩy cũng
như tiếng Hồng Mao. Hỏi cô bán sách, cổ bĩu môi, thằng chả là ai dzậy?
Tình hình
thay đổi, Modinao bi giờ bán chạy như "gâteaux chauds".
Note: GCC nghi là tay J.C.
[giữ mục Sổ Tay trên TLS] lầm "gâteaux chauds", với "pâtés chauds".
"Pâtés chauds" mới là đặc sản của Tẩy.
Ngồi Quán
Chùa, ngày nào, Gấu cũng sính gọi món này, hay trứng ốp là, khi nhỉnh
xu, thay vì cái
"sừng bò", "croissant", như thường lệ!
Đường ra trận mùa này đẹp
lắm: Chiến tranh của những nhà thơ.
Số báo mới
này, trong mục hộp thư độc giả, cho biết 1 chi tiết cực kỳ thú vị: Bản
tiếng
Nga, chính thức, của nhà nước, đã phải mua bản quyền từ 1 nhà xb Ý, mà
cái chết
của tay này, là 1 bí mật:
Trên TLS, số Oct 10, 2014
điểm hai cuốn liên quan tới "Bác Sĩ Zhivago" của Pạt, "Bên trong trận
bão Zhivago" và "Cú Zhivago". Bài điểm, thật tuyệt, cho thấy 1 điều,
cũng nhiều người biết, là, cuốn tiểu thuyết không hề tố cáo nhà nước,
chế độ Liên Xô, và chính vì thế mà nó mới cực là bảnh. Gấu phải nhấn
mạnh điều này, để “dậy dỗ” những tên nhà văn lề trái VC như Nguyễn Vịt,
thí dụ, chúng cứ tưởng chửi nhà nước cho thật dữ, là làm văn chương!
Đọc chúng thật là tởm. Ngay cả Sến cô nương thì cũng thế, mỗi lần viết
là mỗi lần lên gân, chán quá là chán!
"Bác sĩ Zhivago", có thể
nói, là cuốn sách mở ra giấc mơ viết văn của Gấu: Làm sao viết được 1
cuốn tiểu thuyết, nối được hai thành phố.
Đọc cuốn tiểu thuyết, là giấc mơ bật ra, như là 1 giải pháp cho cuộc
chiến Mít!
Hà, hà!
Ui chao,
đó là quãng đời
đẹp nhất của Gấu Cà Chớn. Của cả đám Thất Hiền, 7 đứa bạn, trong có ông
em nhà thơ. Lần gặp lại ở San Jose, khi ông anh mất, bạn C còn nói, hồi
đó, chúng mình sướng thiệt nhỉ!
Một bữa, vào thời kỳ
đó, giữa thập niên 1950, Olga Ivinskaya nhận cú điện thoại từ người
yêu, Pasternak. Giọng ông nức nở, đứt đoạn, đầy nước mắt.
Bà hoảng quá, hỏi dồn, "Chuyện gì, chuyện gì?"
"Ông ta chết, chết, chết", ông lập đi lập lại.
Ông ta nói về Yuri Zhivago. Đó là đoạn vị bác sĩ bị bịnh tim quật sụm
trên xe điện Moscow, (cũng không xa nơi sau này con trai của Pasternak
bị chết)...
Nghệ thuật, Pasternak viết, luôn luôn là suy tư về cái chết từ đó đẻ ra
đời sống.
Gấu bỗng nhớ đến cái chết của nhân vật Kiệt trong Một Chủ Nhật Khác,
của Thanh Tâm Tuyền.
Anh chàng này, may mắn được du học, nhưng ngu si, bỏ về, và chết lãng
nhách tại Đà Lạt...
Chương Zhivago bị quất sụm coi như chấm dứt "thời kỳ đó".
Như cái chết
của Kiệt.
Không ai có thể ngờ, đời sống lại được bắt đầu từ những trại tù.
Từ biển cả.
Suspended
Sentences by Patrick Modiano – three novellas from the Nobel laureate
He has been
hailed as a contemporary Marcel Proust, but Modiano’s investigations
into the
moral history of the occupation make him a pure original
Những câu văn
bị treo: Được thổi là Proust hiện đại, nhưng những điều tra của
Modiano vào cái
phần đạo đức của lịch sử thời Pháp bị Đức đô hộ khiến ông bảnh hơn
nguyên gốc,
tức sư phụ của mình.
Đám Bắc Kít
thử đi đường điều tra thời kỳ Bắc Kít đô hộ Nam Kít, kể từ 30 Tháng Tư
1975,
coi có ra được tí tác phẩm nào không?
Đếch 1 giọt
mắt cá sấu – chưa nói đến nước mắt thực, pure original, làm sao ra tác
phẩm!
All his
novels resemble crime stories, but the genre’s usual finale of
clarification
never occurs.
Tất cả những cuốn tiểu thuyết của ông đều có mùi trinh thám, nhưng khó
mà gọi nó là cái thứ gì.
Nobel 2014
Patrick Modiano wins the
Nobel Prize in Literature [TLS]
Patrick Modiano has won
this year’s Nobel Prize in Literature. He is the eleventh French author
to be awarded the prize and, though a few of his novels have been
translated into English (by Joanna Kilmartin), he is, as Peter Englund,
the permanent secretary of the Swedish Academy remarked, not very well
known outside his home country. Now he will be – though his lack of
availability in English hasn’t stopped the TLS from flying the Modiano
flag over the years.
In a review for us of Voyages de noces, in 1992, Robin
Buss remarked on the “familiar Modiano territory of overlapping
histories, flashbacks, disguised identities, betrayals, ambiguities and
compromises” – a pattern that has been observed by many of Modiano’s
readers since the publication of his first book in 1968. “It is hard”,
wrote Henri Astier (one of Modiano’s principal champions in the TLS),
in a review of L’Horizon (2010),
“to pin down what makes a novel by Patrick Modiano great. His plots are
tenuous. A typical Modiano novel features a young man drifting through
1960s Paris in the company of crooks and sundry revellers. He falls in
love with a beautiful woman. A vague sense of threat hangs over the
couple. There is also a hunt for the past . . . .” And yet, as Astier
argued in his piece on Un Pedigree
(2004), Modiano’s propensity for repetition is never itself repetitive.
Astier cited Modiano’s “haunted, pared-down style – blending
geographical precision with emotional ambiguity” as the vital
ingredient that “has enabled [him] to go over the same ground without
ever appearing to repeat himself”.
Modiano’s late adolescence
of bohemian penury in 1960s Paris provided the basis for his imagined
world of haunted cities, absentee parents, criminality and dreamy
youths, with the shadow of the Second World War and its various
suppressed memories looming heavily in the background – and sometimes
in the foreground. Here we reproduce our reviews of an author
recognized by the Swedish Academy “for the art of memory with which he
has evoked the most ungraspable human destinies”.
Le Magazine Littéraire:
Un événement me semble toutefois avoir marqué un tournant dans votre
approche de I'Histoire dans l'écriture, c'est la découverte du travail
de l'avocat Serge Klarsfeld. Vous avez écrit un très bel article à ce
sujet, où vous lui exprimiez votre reconnaissance, où vous évoquiez le
«choc» que fut pour vous la lecture de son Mémorial. « J'ai douté de la
litterature [ ... ], écriviez-vous alors. II me semblait que le seul
livre qu'il fallait écrire, c'était ce Mémorial, comme Serge Klarsfeld
l'avait fait."
Modiano:
Ce Mémorial avec tous ces noms, ces listes de noms, donnait à la Shoah
une dimension inédite, une réalité qu'elle n'avait pas avant. C'a été
une forme de prise de conscience pour moi. Ces listes avaient quelque
chose de définitive. Et ce qui m'a fait un choc, c'est que le Mémorial
rejoignait précisement certains thèmes que je portais
en moi depuis longtemps, des motifs récurrents dans mes livres, comme
la disparition, le thème de l'anonymat des êtres ... Car il n'y a dans
ce Mémorial que des noms, des dates de naissance. Ca rejoignait
des choses qui m'ont toujours hanté: une précision très ponctuelle,
entourée d'un immense néant. Le Mémorial rejoignait l'une des
motivations essentielles que j'ai d'écrire: retrouver quelque chose de
très précis, mais un seul élement, tout le
reste étant nimbé compréhensibles. Ca faisait écho aussi à un sentiment
que j’ai par rapport à mon enfance. Il y a des enfances que l’on
pourrait dire logiques, compréhensibles. La mienne avait quelque chose
de fractionné; elle était faite de pièces éparses que j’avais du mal à
coordonner. Mes souvenirs d'enfance manquaient de cohérence, car il y a
eu ces déplacements, ces changements de lieux, de personnes sans que je
comprenne toujours pourquoi. Tout cela m'était énigmatique.
Có 1 sự kiện rất đáng kể,
1 bước ngoặt, khi ông đề cập đến Lịch Sử, trong cái viết của ông. Đó là
tác phẩm của luật sư Serge Klarsfeld. Ông đi 1 bài thật là thần sầu về
nó, trong đó, ông cám ơn tác giả, và phán, nếu viết được cú này, thì
nghỉ viết cũng được.
Cái Tưởng Niệm đó quả là 1 thứ của
hiếm, về Lò Thiêu…
Căn phòng đen của hồi nhớ:
Nhớ lại, hay viết, liệu có phải là chụp ảnh?
Hình ảnh, như là sự vật, thực hành, giữ vị trí thiết yếu trong thế giới
sáng-tối của Modiano.
Trong bài viết giới thiệu,
TLS cho thấy 1 sự kiện, thật khó mà chỉ ra cái gì làm cho tiểu thuyết
của PM [Patrick Modiano] lớn lao, những câu chuyện trùng lặp, trồng
chéo, những tình tiết nhỏ nhặt, chi ly, “familiar
Modiano territory of overlapping histories, flashbacks, disguised
identities, betrayals, ambiguities and compromises” – a pattern that
has been observed by many of Modiano’s readers since the publication of
his first book in 1968. “It is hard”, wrote Henri Astier (one of
Modiano’s principal champions in the TLS), in a review of L’Horizon
(2010), “to pin down what makes a novel by Patrick
Modiano great. His plots are tenuous. Loạt bài trên số văn học giới
thiệu ông, Le Magazine Littéraire,
Tháng 10, 2009, với cái tít chung, “Thi học của một cuộc tìm
kiếm, Poétique d’une quête”, với những cái tít, “Thời gian vĩnh viễn
mất tiêu, Le temps indéfiniment perdu”, “Nỗi buồn trắng, Mélancolie
blanche”, “Những cô gái của cái bóng, Les filles de l’ombre”, “Những
nơi chốn nói, Lieux dits”… cho thấy, thoạt đầu, PM bị ám ảnh bởi
Céline, nhưng cách viết của ông dần dần ngả theo Proust, thí dụ trong
“Villa buồn, Villa triste”... tuy nhiên, nó không nhắm về cái gọi là sự
phơi phới của hồi tưởng, l’euphorie de la réminiscence, nhưng mà là sự
khó khăn của nó: “một bức hình cũ kỹ, kiếm thấy ở đáy ngăn kéo vô tình
mở ra và người ta nhè nhẹ xoa lớp bụi”….
Khi
được hỏi, có bao giờ ông nhìn ngoái lại và hỏi han về tiến trình viết
lách của mình? [Vous arrive-t-il de jeter un regard en arrière et de
vous interroger sur l’évolution de votre oeuvre], PM cho biết, đó là 1
hành động ông tránh né, vì chỉ sợ mình đang lập lại mình, và ông tin
rằng, đây là do dòng đời, do tuổi tác, con người bị buộc vào với thời
của mình, on est tributaire de l’âge auquel on écrit.
Thời của ông
là thời nước ông bị Nazi chiếm đóng. Khi trao Nobel cho ông, đó mới là
chủ ý của Uỷ ban Nobel, “for the art of memory with which he has evoked
the most ungraspable human destinies”, “nghệ thuật hồi nhớ với nó, tác
giả khai quật lên, những số phận con người không làm sao nắm bắt được”
“Thi học của
sự tìm kiếm”, “nghệ thuật hồi nhớ với nó tác giả khai quật những số
phận con người không làm sao nắm bắt được”. Cả hai vòng hoa, đều xứng
với PM.
Nobel 2014
Chẳng có ai người cười nổi,
những ngày đó
Ngoại trừ những người chết, sau cùng tìm thấy sự bình an
Như 1 cánh tay thừa thãi, 1 sức nặng vô dụng
Hà Nội đong đưa quanh Hỏa Lò
Hàng theo hàng, đám Ngụy diễu [không phải diễn] hành,
Khùng vì đau, nhắm nỗi bất hạnh của họ
Bài ca vĩnh biệt, sắc, gọn
Tiếng còi tầu chở súc vật rú lên
Ngôi sao thần chết đứng sững trên nền trời Hà Nội
Và xứ Bắc Kít, ngây thơ vô tội,
Quằn quại dưới gót giầy máu
Dưới bánh xe chở tù.
Không phải tôi. Ai đó đau khổ
Tôi làm sao chịu nổi nỗi đau đó
Hãy choàng nó bằng vải liệm đen
Và mang đèn đi chỗ khác
Đêm rồi!
Akhmatova: Kinh Cầu
Akhamatova, có vẻ như được sửa
soạn để đóng cái vai của bà, hơn
hầu hết những nhà thơ cùng thời. Ngoài ra, vào lúc xẩy ra Cách Mạng, bà
28 tuổi
, không quá trẻ để tin hay không tin, và cũng không quá già để biện
minh cho
nó. Sau đó, là 1 người đàn bà, trong vai “gái” [“cái” cũng được] thì
cũng khó
mà thổi Cách Mạng, hay kết án nó. Bà cũng không quyết định thay đổi
trật tự xã
hội….
Đọc bài viết của Brodsky về
Akhmatova, nữ thần thơ bi ai Nga, thì
Gấu ngộ ra điều, tại sao mà GCC này chịu không nổi, phải nói, tởm, cái
giọng
của đám VC ly khai, thứ ngôn ngữ nhơ bẩn, “máu què”, thí dụ, cũng như
cái giọng
gà mái gáy của Sến, vẫn thí dụ.
Nhà thơ chỉ phán một câu thôi:
Bà nhận ra nỗi đau, she recognized
grief.
Và trước đó, Brodsky giải thích:
Bà không vứt Cách Mạng vào thùng rác. Một dáng đứng thách đố cũng đếch
hợp với
bà. Bà giản dị coi nó như là nó có, và chấp nhận nó, như là nó xẩy ra:
cơn đau
của cả nước, đau chừng nào, nỗi đau của mỗi cá nhân, đau theo chừng đó.
The poet is a born democrat not
thanks to the precariousness of
his position only but because he caters to the entire nation and
employs its
language: Nhà thơ sinh ra, và bèn dân chủ, không phải chỉ vì cái bấp
bênh của
dáng đứng, vị trí của mình, mà còn bởi cái sự mua vui cho đời, cho cả
nước, và
sử dụng cái ngôn ngữ của nó.
Cũng thế, là bi kịch.
Đâu có phải cứ đụng tới chữ
nghĩa, tới văn chương, tới thơ ca, là
vãi nước đái ra, hoặc văng tục, hoặc gáy?
Bearing the Burden of
Witness:
Requiem
Requiem was born of an event
that was personally shattering and at the same time horrifically
common: the
unjust arrest and threatened death of a loved one. It is thus a work
with both
a private and a public dimension, a lyric and an epic poem. As befits a
lyric poem,
it is a first-person work arising from an individual's experiences and
perceptions. Yet there is always a recognition, stated or unstated,
that while
the narrator's sufferings are individual they are anything but unique:
as
befits an epic poet, she speaks of the experience of a nation.
The Word That Causes Death’s
Defeat
Cái từ đuổi Thần Chết chạy có cờ
Kinh Cầu đẻ ra từ một sự kiện,
nỗi đau cá nhân xé ruột xé gan, và cùng lúc, nó lại rất là của chung
của cả
nước, một cách cực kỳ ghê rợn: cái sự bắt bớ khốn kiếp của nhà nước và
cái chết
đe dọa người thân thương ruột thịt. Bởi thế mà nó có 1 kích thước vừa
rất đỗi
riêng tư vừa rất ư mọi người, rất ư công chúng, một bài thơ trữ tình và
cùng
lúc, sử thi. Nó là tác phẩm của ngôi thứ nhất, thoát ra từ kinh nghiệm,
cảm
nhận cá nhân. Tuy nhiên, trong lúc chỉ là 1 cá nhân đau đớn rên rỉ như
thế, thì
nó lại là độc nhất: như sử thi, bài thơ nói lên kinh nghiệm toàn quốc
gia….
Đáp ứng, của Akhmatova, khi
Nikolai Gumuilyov, chồng bà, 35 tuổi,
thi sĩ, nhà ngữ văn, trong danh sách 61 người, bị xử bắn không cần bản
án, vì
tội âm mưu, phản cách mạng, cho thấy quyết tâm của bà, vinh danh người
chết và
gìn giữ hồi ức của họ giữa người sống, the determination to honor the
dead, and
to preserve their memory among the living….
Nobel 2014
Cầu Việt
Trì, under construction, nơi ông cụ Gấu bị 1 đấng học trò làm thịt. Gấu
về lại
Đất Bắc là để tìm đến chỗ này, thắp 1 nén nhang cho ông bố của mình, và
cũng để
tìm hiểu, tại sao ông không theo Việt Minh, mà chỉ có “cảm tình” - như
lời cô
con gái của ông, 1 ông chú của Gấu, Chú Cầm, khi đó, là huyện uỷ VC tại
Việt Trì
cho Gấu biết, và tên giết ông là 1 thủ lãnh của QDD. Mấy đứa
con của
ông, còn ở lại Đất Bắc, chẳng được phong là con của liệt sĩ.
Bây giờ thì
Gấu hiểu, ông quá tởm nó, như con ông, sau này!
Note: Lần
ông anh mất, Gấu tới San Jose, thăm ông em, có hỏi về bài thơ này, bạn
C cho biết,
khi đó chưa phân trại, thành ra hai anh em còn được ở chung.
Sau Long Giao,
1975, là Yên Bái. Sau Yên Bái - như Gấu vẫn gọi khi còn nhỏ ở đất Bắc -
tới Lào
Cai. Bài thơ mở ra khúc tù Lào Cai, là bài “Chiều cuối năm trồng sắn ở
Lào Kay”,
thấy ghi 77.
Như vậy cú té núi đúng thời gian mấy đấng Ngụy ngồi hầu đờn nhà văn
cách mạng
miệt vườn Nguyễn Quang Sáng!
Ông em kể, bữa
đó, cả trại lo, vì tất cả tù đều về chuồng, đúng giờ. Phải đến 9 hay 10
giờ tối,
mới thấy ông anh nhà thơ về.
Bạn quí HPA
kể, khi TTT được VC cho về đời, trở lại Xề Gòn, có lần gặp, và có nhã ý
mời ông
tới 1 căng tin làm ly bia. Căng tin này có 1 em, chắc là tiếp viên,
theo HPA, rất
mê bài Lệ Đá Xanh, và hát rất tới. Nhưng ông lắc đầu.
Ui chao, GCC
cứ tưởng tượng hoài, mà không thể, cái cảnh Giang Châu Tư Mã ướt đẫm
áo, khi nghe
ca nương hát bài thơ phổ nhạc của ông!
Thì cũng đâu
có thua gì khúc Hậu Đình Hoa!
Trường hợp
NTK rất giống Thảo Trường. Đưa vợ con lên tầu, thì bèn quay đầu xe, đi
thăm Xề
Gòn lần cuối, thế là kẹt lại. Thảo Trường dính 17 năm, đúng ra là chết
rồi, nhưng
nhờ ơn anh Tẫu dậy cho VC 1 bài học, chúng bèn đưa đám Ngụy trở lại
Miền Nam, và
khi đau nặng, gia đình hay tin, mang thuốc thang lên Trại Suối Máu, cứu
mạng kịp!
Trường hợp Gấu
có tí xêm xêm. Cũng những ngày tháng đó, gặp lại xếp UPI cũ, anh phán,
cầm cái
camera, đi theo tao, lên trực thăng, ra Đệ Thất Hạm Đội, hết C.130 rồi,
đành bỏ
mặc vợ con thôi… Gấu lắc đầu, không thể bỏ Gấu Cái và đàn con được. Anh
ta nhét
vô tay Gấu tất cả mớ tiền Ngụy còn sót lại, và vẫy tay bye bye.
Nhưng, chính là
quãng đời tù đầy của Gấu sau đó, mới cho Gấu cơ hội làm người trở lại!
Khác hẳn
NTK. Anh nhập vào chế độ mới, có bạn mới, sống thanh thản đời của anh,
đâu có
nhớ gì đến những bạn cũ, như Thảo Trường, TTT… đúng không?
Họ cũng là bạn
của anh vậy? NQT
Wednesday,
October 15, 2014 8:58 PM
Kính anh Trụ,
Rất lâu em
không có thư hầu thăm anh. Hôm sinh nhật anh, nhiều người chúc quá nên
em... đứng
ngoài.
Em vẫn còn
đi làm kiếm cơm nên thời gian hạn hẹp, nhiều hôm cố gắng đọc cho bằng
hết bài
anh post lên mà muốn ngộp thở.
Cầu chúc anh
thật nhiều sức khỏe và niềm vui.
LNS
Không
thấy
mail, có tí lo.
Take Care. NQT
Đối với tôi,
bạn bè là một phần đời sống của tôi: Gấu trải qua cú này rồi.
Hồi mới lớn, mê bạn quá,
chưa ngủ dậy, là đã thấy mình đang ngồi ở Quán Chùa với bạn rồi.
Rồi may quá, mất hết bạn!
Ông Trời thương hại, bèn ban cho 1 thằng bạn, chỉ 1 thằng mà thôi, để
khi nào buồn quá, tìm đến, để khóc cho đã.
Rồi sống tiếp.
Gấu Cái thường
chửi Gấu, mi cần ta, như lũ con lũ cháu, cần ta, chứ đâu có thương yêu
gì ta. Gấu
Cà Chớn sợ đám bạn quí Bắc Kít, Hà Nội, cần bạn NTK cũng rứa! Đọc những
bài viết,
những lời còm thì thấy. Chúng qua Mẽo, tới cái ổ VC ở Mẽo, ngửa tay lấy
tiền Mẽo,
viết về lũ Ngụy tị nạn, cái gì gì diaspora mà chúng làm sao hiểu được,
vì có thằng
nào đã đi tù VC đâu, và muốn hiểu cái gọi là diaspora Mít, thì phải đi
tù VC. Và
chúng cần chỗ để ăn, để ngủ, cần 1 tên gốc Ngụy che chở cho chúng,
trước đám Chống
Cộng Điên Cuồng.
Cả 1 lũ đó,
có thằng nào con nào, viết được, dù chỉ 1 chữ về nỗi đau của Miền Nam,
về lũ Ngụy
trong trại tù, chờ ngày đoàn tụ với gia đình, ở… Trại Tù?
Toàn 1 lũ cứt
đái, mà bạn bè gì?
Gấu cũng đã từng gặp lũ này rồi, còn trước NTK rất nhiều!
Chính
lũ này, hóa thân của chúng, đúng hơn, đã từng đứng trước tòa án
Nuremberg, và
khi ông tòa hỏi, tụi mi có biết những tội ác của Nazi không, chúng nói,
không,
và ông toà phán, tụi mi là tầng lớp trí thức, tinh anh số 1 của nước
Đức, mà
Nazi phạm những tội ác như thế, làm sao nói không biết được?
Lần HC, đại
thi sĩ Kinh Bắc, nằm xuống, lũ này than khóc khủng quá, Gấu bèn lên
tiếng,
khi Tố Hữu ra lệnh viết tự kiểm, mà HC phán, ông đéo viết, thì tình
hình đã khác
hẳn, có thể không có vụ Lò Cải Tạo cũng nên, vị thân hữu, độc giả K,
bèn đi 1 đường
mail, viết thì viết, nhưng hãy chờ cho cỏ mọc xanh mộ đã!
Lần HC nằm
xuống, Gấu lên tiếng có tí vội, nhưng để lâu 1 tị, là đếch thèm viết
nữa.
Và
trong lần đó, Gấu nhớ là, có nhắc đến trường hợp Brodsky, và 1 tên ‘bạn
Hà Lội”
của NTK, đã lầu bầu, làm sao so sánh được, mỗi trường hợp mỗi khác.
Không phải.
Mỗi người mỗi khác.
Brodsky bị bắt, bị đưa ra tòa, bị ban cho cái án cải tạo, lưu
đầy nội xứ, tại 1 nông trường cải tạo vùng Bắc Hải, sau này, nhìn lại,
ông cho
biết đó là quãng đời đẹp nhất trong đời của tôi, được cùng đau với cả
nước, mà
quả thật như thế.
Tuy nhiên, vấn
đề là, trong khi ngay cả đám bạn quí của ông hồi đó, trong có thằng còn
nẫng luôn
người yêu của ông, chẳng thằng nào quan tâm, tới bữa ra tòa, chúng quên
béng luôn,
hè nhau đi ăn nhậu, thì, riêng ông, không hiểu bằng cách nào, bèn “mặc
khải”, mình
được Chúa cho ra đời, để làm cái cú này!
Tôi, Gấu Cà
Chớn, tin là, HC được Ông Giời cho ra đời, để hùng dũng phán, ông đéo
viết, khi
Tố Hữu ra lệnh, hãy viết tự kiểm, thì ta tha.
Trường hợp này
đã xẩy ra rồi, vừa mới tức thời: Điếu Cày, khi được nhà nước kêu lên,
viết tự
kiểm, ta tha, ông phán, ông đéo viết!
Cái sự kiện,
không 1 tên nhà văn, nhà thơ, nhà trí thức Bắc Kít, Hà Nội nào, tỏ ra
áy náy,
và viết ra, dù chỉ 1 dòng, về số phận đám Ngụy, về tù cải tạo, là quá
hiển
nhiên.
Chúng vờ hẳn đi, làm như không có chuyện này.
Cũng như vào lúc này, chúng chửi Tẫu, vờ hẳn đi, đã từng dâng vợ, dâng
con cho
Tẫu, để ăn cướp cho bằng được Miền Nam.
Chúng tôi muốn
biết? OK
Trên đường xẻ
dọc TS kíu nước, nhìn xuống “trim” của mình, chẳng anh bộ đội cụ Hồ nào
ngạc
nhiên khi thấy hàng chữ “made in China”, thì còn muốn biết gì nữa?
Gấu cũng muốn
biết, tại làm sao cả 1 xứ Bắc Kít chưa từng có 1 giọt nước mắt nhỏ
xuống, vì phải
dâng gái cho Tẫu, vì vợ sĩ quan Ngụy, 13, 17 năm... đằng đẵng thăm
chồng cải tạo?
Câu trả lời
cho câu hỏi, chúng tôi muốn biết, đã được Tolstaya, trả lời, trong 1
bài viết Gấu
được đọc, những ngày đầu đến được trại tị nạn Thái Lan, Cái Ác CS không
phải từ
trên trời rớt xuống đầu dân Mít, hay Bác Hồ mang từ xứ mũi lõ về. Nó
nằm ở những
tầng sâu hoang vắng của lịch sử 4 ngàn năm văn hiến của Bắc Kít, và
được
ngọn
gió độc, là chủ nghĩa CS thổi tung lên...
Bắc Kít không
ăn, mà ăn thịt lẫn nhau (1)
(1)
Tatyana Tolstaya,
trong một bài người viết tình cờ đọc đã lâu, khi còn ở Trại Cấm, và chỉ
được đọc qua bản dịch, Những Thời Ăn Thịt Người (đăng trên tờ Thế Kỷ
21), cho rằng, chủ nghĩa Cộng-sản không phải từ trên trời rớt xuống,
cái tư duy chuyên chế không phải do Xô-viết bịa đặt ra, mà đã nhô lên
từ những tầng sâu hoang vắng của lịch sử Nga. Người dân Nga, dưới thời
Ivan Bạo Chúa, đã từng bảo nhau, người Nga không ăn, mà ăn thịt lẫn
nhau.
Chính cái phần Á-châu man rợ đó đã được đưa lên làm giai cấp nồng cốt
xây dựng xã hội chủ nghĩa. Bà khẳng định, nếu không có sự yểm trợ của
nhân dân Nga, chế độ Stalin không thể sống dai như thế. Puskhin đã từng
van vái: Lạy Trời đừng bao giờ phải chứng kiến một cuộc cách mạng Nga!
Nơi Người Chết Mỉm
Cười
Về cái sự hèn
nhát của đám sĩ phu Hà Nội, thì phải để chính 1 trong đám đó, nói ra,
thì mới
thuyết phục. Đọc hồi ký Nguyễn Đăng Mạnh, tả con ếch Nguyễn Đình Thi co
rúm người
trước con cua Tố Hữu, hay đọc ông con của ông, viết về Bố, giá Bố tôi
bớt hèn đi
1 tị, hay đọc Nhật Tuấn, trên Blog của anh… Cái sợ của đám này, là sợ 1
cá nhân
Tố Hữu, hơn là sợ Đảng.
Gấu tin rằng,
bất cứ 1 cá nhân nào, được Chúa cho ra đời, là để làm 1 chuyện gì đó,
nhưng, làm hay không làm, thì lại do chính cá nhân này, quyết định.
Brodsky
cảm ngay ra là mình sinh ra đời, để đụng đầu với Đảng, ở tòa án. Hay
Lênin, tôi
sinh ra để làm ra Liên Xô, còn Solz, để huỷ diệt nó. Ông Nobel Toán,
được Noel
là để cầm cái đó, dí vô Lăng Bác Hồ, hô, biến. Sến, là để tạo ra 1
thiên sứ,
thứ thiệt, nhưng bà, chính bà ta, biến nó thành giả.
Brodsky
phán:
Một khi bạn bắt đầu biên tập
đạo hạnh, đạo đức của bạn, cái này
nên, cái này không nên, bạn đang tán tỉnh thảm họa.
When you start editing your ethics, your morality –according to what is
or
isn't allowed today - then you're already courting disaster.
Trò chuyện với Joseph Brodsky. Solomon Volkov.
"Bà đã ỉa lên cả một thế hệ chúng ta".
It was late afternoon, and
she sat, smoking, in the corner, in the deep shadow cast by the tall
cupboard onto the wall. The shadow was so deep that the only things one
could make out were the faint flicker of her cigarette and the two
piercing eyes. The rest—her smallish shrunken body under the shawl, her
hands, the oval of her ashen face, her gray, ashlike hair—all were
consumed by the dark. She looked like a remnant of a huge fire, like a
small ember that burns if you touch it.
Tôi [Brodsky]
gặp bà lần chót vào bữa 30 tháng Năm, 1972, tại nhà bếp của bà, tại
Moscow. Lúc đó cũng xế chiều, và bà ngồi, hút thuốc, tại một góc bếp,
trong bóng tối của cái tủ đựng chén dĩa in đậm lên tường. Đậm đến nỗi,
người ta chỉ nhìn thấy đốm đỏ của điếu thuốc, và hai con mắt sáng rực
của bà. Cái còn lại - một thân hình mỏng manh, run rẩy dưới chiếc khăn
choàng, đôi cánh tay, khuôn mặt bầu dục nhợt nhạt, mái tóc xám mầu tro,
tất cả đều bị bóng tối nuốt sạch. Bà giống như chút còn lại của một đám
lửa lớn, đốm than hồng làm bạn bỏng tay, nếu đụng vô. (1)
“Dieu
partage avec l'homme la faute de la Création, car Dieu s'est absenté du
monde, ce qui fut la cause de la Chute commune de Dieu et des hommes"
[Thượng Đế chia sẻ
với con người lầm lẫn Sáng Tạo, bởi vì Thượng Đế tự ý chuồn, thành thử
mới xẩy ra Sa Đọa chung, của Xừ Luỷ và con người].
Linda Lê
Gốc cây
mận (nhà Nguyễn Quang Sáng) - một kỷ niệm xa xôi
NgTrKhoi, Nguyễn Quang Sáng, Đinh Cường, Trịnh Công Sơn.
Bài hát trình bày: Đêm thấy ta là
thác đổ
Nhìn bức hình, thì bèn tin
là quả thế thực, và chàng nhạc sĩ hát rong hầu đàn không chỉ một anh
Sáu!
Note: Nhìn
hình, thì thấy “thiếu” 1 người bạn của mấy đấng Ngụy, TTT [ông chẳng
phải là bạn
của DC, hay NTK ư?], vào lúc này, đang vác nứa, và té xuống, ở núi Việt
Hồng,
Phú Thọ, và cũng vào thời gian cả Miền Nam đang đói vì VC. Nhìn hình,
và đọc những
dòng bên dưới, Gấu nghi lúc này Gấu đang ở nông trường Phạm Văn Cội, Củ
Chi, cc
1976-77, cỡ đó?
Cầu Việt
Trì, under construction, nơi ông cụ Gấu bị 1 đấng học trò làm thịt. Gấu
về lại
Đất Bắc là để tìm đến chỗ này, thắp 1 nén nhang cho ông bố của mình, và
cũng để
tìm hiểu, tại sao ông không theo Việt Minh, mà chỉ có “cảm tình” - như
lời cô
con gái của ông, 1 ông chú của Gấu, Chú Cầm, khi đó, là huyện uỷ VC tại
Việt Trì
cho Gấu biết, và tên giết ông là 1 thủ lãnh của QDD. Mấy đứa
con của
ông, còn ở lại Đất Bắc, chẳng được phong là con của liệt sĩ.
Bây giờ thì
Gấu hiểu, ông quá tởm nó, như con ông, sau này!
Nobel 2014
Nobel 2014
Patrick
Modiano: an appreciation of the Nobel prize in literature winner
As the
French writer Patrick Modiano surprises critics to take the 2014 Nobel
prize in
literature, Rupert Thomson salutes an author who is fascinated by the
louche,
ambiguous, shadowy world of the Occupation
Cái thế giới của 1 nước
Tẩy bị Nazi chiếm đóng, đô hộ, với cái vẻ mờ ám, hàm hồ, âm u của nó,
mới là điều mà Hàn Lâm Viện Thụy Điển quan tâm, và trao giải thưởng cho
kẻ đã viết về nó.
Patrick
Modiano has won the Nobel prize, which is unexpected, to say the least.
I have
admired Modiano since my teens, when I happened on a copy of Villa
Triste in
the Eastbourne public library, but most British people don't seem to
have heard
of him, and when I last mentioned my love of his work, to a young
Frenchman, I
was met with a disdainful curl of the lip. "He's nostalgic," he said.
This misses the point. In Modiano's books, which are often set during
the
Occupation, the atmospherics of nostalgia act as a servant to much
deeper
themes of survival and alienation. His slender masterpiece, Honeymoon, begins
in a shadowy Milan hotel on a hot August afternoon. Standing at the
bar, Jean B
discovers that a woman he used to know took her own life in the hotel
only two
days before. Later, Jean goes to ground in the Parisian suburbs in an
attempt
to uncover the circumstances both of her death and her life. The
character who
vanishes is himself obsessed with a vanishing. This hall-of-mirrors
effect is
typical Modiano. He captures an amoral, often louche, and always
ambiguous,
world – a world of uncertain identities and hidden agendas. Modiano
exploits
all forms of genre, stealing from the spy novel and detective fiction –
film
noir too. But what seems to interest him most is the gaps in people's
lives –
the bits that have been removed or repressed, the bits that can't be
accounted
for. His style is so spare and elliptical that the words seem only
lightly
attached to the page, almost not there at all, which neatly echoes the
near
impossibility of what is being attempted. The case, if there is one,
can never
quite be solved. His books are puzzles, but they are also laments. He
is
meditating on the essential unknowability of others, but he is equally
fascinated by the seductions and pitfalls of memory. Modiano is the
poet of the
Occupation and a spokesman for the disappeared, and I am thrilled that
the
Swedish Academy has recognised him, though I can't help wondering what
that
contemptuous Frenchman will be thinking.
Modiano is the poet of the
Occupation and a spokesman for the disappeared, and I am thrilled that
the
Swedish Academy has recognised him, though I can't help wondering what
that
contemptuous Frenchman will be thinking.
Thi sĩ của
Thời Bị VC đô hộ!
Phát ngôn viên của những người bị VC làm biến mất.
Tôi sững sờ, khi ông được mấy ông Hàn nhận ra, nhưng
tôi lại tự hỏi, cái lũ VC và bợ đít VC nghĩ gì, khi ông được giải?
Đúng là
THNM!
Hà, hà!
THNM?
Có thể, nhưng giả như GCC
được Nobel văn chương, sự tình sẽ y chang như thế!
GCC: Thi sĩ của một Sài
Gòn bị VC làm biến mất, và thay bằng cái tên
của một con Quỉ!
[Thuổng
Brodsky: Đừng nghĩ đến những kẻ đang sống ở đó, mà nghĩ đến đám con
nít, chúng
sẽ mừng rỡ ra sao, khi thấy mình sinh ra dưới tên của một vì thánh, St.
Petersburg,và thay vì thế, thì là tên của 1 con Quỉ, Leningrad]
Số báo này, cũng vớ được ở
tiệm sách cũ.
Nói đến Occupation, Nazi, VC... mà quên Celine, thì quá thiếu
sót, hà hà!
Trong bài Giới thiệu, Kazin
viết về ông:
Louis-Ferdinand
Celine was an extraordinary and terrifying presence in the
twentieth-century
novel. He was never altogether sane after suffering head wounds in the
First
World War, and by the Second,
like other wounded and desperate French writers who had come to despair
of
history, he allied himself with the most evil forces in Europe in order
to
protest the cruelty and injustice that had always been under his eye
when he practiced
medicine in the slums of Paris. Celine was an amazingly powerful writer
who
when interviewed did not make very much of being a writer. He thought
it enough
for a man to tell a story; he must tell it in order to be released from
life's
order; only then can he die in peace. It is doubtful that Celine died
in peace.
But he was so strong and original a writer-surely he is the only genius
of the French
novel since Proust-that when he tells his "story" the impact of his
life experience becomes one of those blows which we suffer with
gratitude. He
describes his childhood in Paris-the mother, a lacemaker, made the
family live
on noodles because more pungent foods left odors in the lace-he touches
on the First
World War, on his doctoring. It is extraordinary how much, in these few
pages,
he says about the human condition. Politically, Celine was a maniac.
Yet his
gift for describing things as they are was great, and the compassion he
shows
in his books is striking. Still, he
said (in another interview) that his books were defective, for "great
literature is never personal, like that." The "personal" is more
and more the theme, the opportunity, the dilemma of contemporary
literature. Rarely will one see the eloquence and the danger of the
personal
mode so clearly revealed as it is in these interviews.
ALFRED KAZIN
Politically, Celine was a
maniac. Chính
trị mà nói, Celine là 1 tên khùng.
THNM dịch sang tiếng mũi lõ, a maniac?
Sao anh cứ cay đắng hoài
như thế?
Sến Cô Nương
Đối với tôi,
bạn bè là một phần đời sống của tôi. Tôi luôn quý mến và trân trọng.
Trước khi
trở lại công việc thường nhật. Tôi post một số hình ảnh tôi có được dù
không đủ
như một lời cám ơn bè bạn, và tôi sẽ giữ mãi những hình ảnh này trong
ký ức nơi
đẹp đẽ nhất trong tâm hồn tôi.
NTK [FB]
Một khi phải
xác định, như trên, Gấu sợ rằng, tình bạn có vấn đề.
Gấu quen NTK từ những ngày
anh còn hàn vi, và chắc là không thuộc những bạn bè hiện nay của anh.
Chúng chẳng
coi Gấu là bạn, và ngược lại, thì cũng đúng!
Lại càng đúng, mới đúng!
Về vấn đề này,
phải để Joseph Brodsky phán, mới thú:
Là 1 tên Do Thái,
là 1 tên lưu vong, có tí lợi, advantage, bởi là vì dù ở đâu, thì nó
cũng là 1 kẻ
đứng bên lề.
Bạn NTK đau
nỗi đau đếch làm sao đứng bên lề như Gấu được, hà hà!
Đối với tôi,
bạn bè là một phần đời sống của tôi: Gấu trải qua cú này rồi.
Hồi mới lớn, mê bạn quá,
chưa ngủ dậy, là đã thấy mình đang ngồi ở Quán Chùa với bạn rồi.
Rồi may quá, mất hết bạn!
Ông Trời thương hại, bèn ban cho 1 thằng bạn, chỉ 1 thằng mà thôi, để
khi nào buồn quá, tìm đến, để khóc cho đã.
Rồi sống tiếp.
Gấu Cái thường
chửi Gấu, mi cần ta, như lũ con lũ cháu, cần ta, chứ đâu có thương yêu
gì ta. Gấu
Cà Chớn sợ đám bạn quí Bắc Kít, Hà Nội, cần bạn NTK cũng rứa! Đọc những
bài viết,
những lời còm thì thấy. Chúng qua Mẽo, tới cái ổ VC ở Mẽo, ngửa tay lấy
tiền Mẽo,
viết về lũ Ngụy tị nạn, cái gì gì diaspora mà chúng làm sao hiểu được,
vì có thằng
nào đã đi tù VC đâu, và muốn hiểu cái gọi là diaspora Mít, thì phải đi
tù VC. Và
chúng cần chỗ để ăn, để ngủ, cần 1 tên gốc Ngụy che chở cho chúng,
trước đám Chống
Cộng Điên Cuồng.
Cả 1 lũ đó,
có thằng nào con nào, viết được, dù chỉ 1 chữ về nỗi đau của Miền Nam,
về lũ Ngụy
trong trại tù, chờ ngày đoàn tụ với gia đình, ở… Trại Tù?
Toàn 1 lũ cứt
đái, mà bạn bè gì?
Gấu cũng đã từng gặp lũ này rồi, còn trước NTK rất nhiều!
Chính
lũ này, hóa thân của chúng, đúng hơn, đã từng đứng trước tòa án
Nuremberg, và
khi ông tòa hỏi, tụi mi có biết những tội ác của Nazi không, chúng nói,
không,
và ông toà phán, tụi mi là tầng lớp trí thức, tinh anh số 1 của nước
Đức, mà
Nazi phạm những tội ác như thế, làm sao nói không biết được?
Ông viết
đúng vào lúc văn chương phải “tiền phóng, dấn thân”. Những cuốn sách
ông xem ra
lại đếch chơi với những băng đảng nổi tiếng thời đó, thí dụ, “Tiểu
Thuyết Mới”,
Tel Quel. Sao kỳ dzậy?
Tôi là 1 sản phẩm lạ.
Mẽo khó ăn
Nobel lắm, Murakami lại càng khó, theo Gấu. Tay này quá mê sex! Trên
“Người Nữu
Ước”, số mới có cái truyện ngắn của M, tuyệt lắm. TV sẽ giới thiệu sau.
Scheherazade
By Haruki
Murakami
Nobel 2014
Nobel prize
winner Patrick Modiano hailed as modern Marcel Proust
Swedish
Academy praises ‘art of memory’ in French novelist known for short
works marked
by sophisticated simplicity
Nghệ thuật của hồi ức
Tân Marcel Proust
Ui chao, thua Seagull:
You painted Sài Gòn and Hà
Nội in your readers' memory...
Take care,
Hải Âu.
Thua câu này:
All writing is a species
of remembering
Mọi cái viết thì đều là một thứ chủng loại của hồi nhớ
Sontag viết về cõi thơ A.Z
Ngay bây giờ, vào buổi
chiều, lâu lâu tôi còn nghe một giọng gọi tên tôi, ở nơi con phố. Một
giọng khàn khàn. Giọng kéo dài ở âm cuối, và tôi bèn nhận ra liền,
giọng của… BHD.
Tôi quay người lại, chẳng có ai.
Không chỉ buổi chiều mà còn ở khoảng rỗng của xế trưa hè mà chúng tôi
chẳng còn nhớ, hè nào, năm nào.
Tất cả sẽ lại bắt đầu như trước. Cũng vẫn những đêm đó, những gặp gỡ,
nơi chốn đó, Quy hồi vĩnh cửu. BHD trở về, trở về, hoài hoài…. (1)
GNV
|