Đổi mới chán quá
Trang Linda Lê
|
Trang Linda Lê
Note:
Linda Lê. GNV giới
thiệu lần đầu tiên, trên mục Tạp Ghi khi còn viết cho báo Văn Học NMG,
nhân đọc
một bài điểm cuốn Vu Khống, khi cuốn này ra bản tiếng Anh. Chê cực chê,
đám
Hồng Mao vốn không khoái Tây Mũi Lõ. Nào là đệ tử của Cioran...
nhưng khốn nạn
nhất, như GNV còn nhớ, tờ TLS để dưới cái ô, dù: "Dẫn khách cho văn
chương".
Bài
viết đầu tiên mà TV giới thiệu, là bài phỏng vấn LL, của tờ Lire, và
sau
này, rất nhiều người nhắc tới, [nhưng chẳng có ai nhắc đến nguồn
dịch, người
dịch] câu sau đây của bà, trong bài phỏng vấn:
Tôi có cảm tưởng tôi cưu
mang
một xác chết. Rõ ràng, đó là Việt-nam mà tôi mang trong tôi, như một
đứa trẻ
chết.
Linda Lê trả
lời tờ Lire
Note:
Bản tiếng Việt, ra lò
liền sau khi đọc bài phỏng vấn trên báo giấy. Nay coi lại, và nhân
tiện, so với
nguyên tác, có mấy chỗ dịch sai, đã sửa lại.
Sorry
abt that. NQT
Trước 1975, Râu Kẽm
bị Thiệu
làm khó dễ tính ngăn chặn không cho ra tranh cử Tổng Thống, hồ sơ không
hợp lệ, nhưng khi hợp lệ, chàng ngồi vuốt râu, rút dù, đẩy Thiệu vào
thế độc diễn.
Thiệu
OK, 1 mình mình ngựa, và
phán, chuyện sống chết của 1 đất nuớc, đâu phải chuyện đùa?
GNV,
vào lúc này bỗng nhớ đến
câu nói hiển hách của Thiệu: Đâu phải chuyện đùa?
Nhắn
mấy ông mấy bà hăm hở rỏ
máu mắt viết ‘ai điếu’: Đâu phải chuyện đùa, mà bầy trò văn chương, gọt
rũa câu
kệ, nấu nướng ăn nhậu, nào món xào măng, xáo măng, hay gán ghép một ông
thầy dùi
còi hụ với 1 vị thiền sư?
*
Linda Lê bị
coi
không phải nhà văn Mít, vì viết bằng tiếng Tây, nhưng có vẻ như bà rất
rành hai
‘vấn nạn lớn’ mà nhà văn Mít mắc phải, và gọi đó là hai tảng đá ngầm mà
bà cố
tránh khi bơi lội giữa những con chữ. (1)
Một, là thái độ tự biếm, và
một, thái độ thương thân trách phận.
Cái trò
tự biếm, tự biến này,
đám Bắc Kít rành lắm. Sau cái cú CGDL bị bắt khẩn cấp, đám bloggers
vuông chiếu
chén rượu vội vàng delete còm, hoặc khoá mẹ còm, hoặc lặn luôn, chờ dịp
nhà nước
bớt xiết thòng lọng, lại nhi nhô tiếp, trong khi chờ đợi thì tự bằng
lòng với
quá khứ giết Ngụy, đưa Ngụy đi tù cải tạo, bằng lòng với những tội ác
mà chúng
gọi đó là thành quả cách mạng!
Cái sự
băng hoại của nước Mít
bây giờ là do ngậm miệng ăn tiền, tiền ở đây, ngoài bổng lộc, còn là
vinh quang
giết người, chết người, của cuộc chiến chống Mỹ cứu nước. Ông nào, bà
nào cũng đầy
mình chiến công, làm sao nói? Biết nói gì đây? Chẳng lẽ xổ toẹt? Nếu
làm như thế,
hóa ra công cốc ư? Cả cuộc chiến thần thánh, hóa ra chỉ để cho một dúm
người hưởng
lợi.
Cái trò
tự bôi xóa mình trước cường quyền, thì đám Bắc Kít cực
vướng
phải, và họ tự nhủ, ‘tránh voi chẳng xấu mặt nào’, và nếu cần, thì ngồi
dị mọ viết
tự kiểm, như nhà thơ tình nổi tiếng HC đã từng làm!
Còn cái trò thương thân trách
phận, hờn oán, thì đám Miền Nam
lại quá rành, nào là thân phận nhược tiểu da vàng, nào là nỗi bơ vơ của
bầy
ngựa hoang….
Ngay từ những
năm
đó, GNV đã nhận ra điều này, và đã lên tiếng báo động, nhưng lại bị chê
là đố kỵ,
bè phái, dìm tài… của đám chết nhát, tối
ngày ngồi sa lông Quán Chùa, tụi mi làm sao dám trực diện cuộc chiến
như chúng
tao, những nhà văn thực sự cầm súng?
(1) Il
faut coûte que coûte
parvenir à ne pas s'abolir ni à être dans le ressentiment. Le sentiment
de
confort et la rancœur sont les deux grands récifs entre lesquels
j'essaie de
naviguer:
Có tránh đừng sa vào tự biếm, tự xoá mình,
và hờn giận oán thù. Hài lòng thoải mái, và chua chát oán hận là hai
tảng đá ngầm mà tôi
luôn cố tránh khi lái con tầu đi giữa biển.
Linda Lê :
“J'aime que les livres soient des brasiers"
Nhưng, có bạn đọc TV cắt
nghĩa, khác, về 'tự biếm': Đảng ra lệnh, "Biến!"
Vai trò của mi xong
rồi, chờ xong Đại Hội Đảng, sẽ có nhiệm vụ mới!
Linda Lê :
“J'aime que les livres soient des brasiers"
Tôi thích những cuốn sách phải là những lò
lửa cháy rực
14 tuổi, rời
VN qua Pháp. Hai lò cừ này tạo ra cùng lúc một tính cách hiền hòa và
một lối viết
đau thương - giống như một con thú bị lột da - và căng thẳng, như dưới
luồng điện
cao thế.
“Khi tôi viết
tôi muốn như một người đi trên dây”. Linda Lê giải thích. Cronos, là
cuốn sách
mới nhất của bà, nhà xb Christian Bourgois, 164 trang, 16 Euro.
Vẫn trên
cùng đề tài.
Như những
nhân vật với những cái tên đặc thù, Nữ Độc Thủ [La Manchote, trong Les
Trois
Pâques], Sola [trong Tưởng nhớ,
In Memoriam], Una [Cronos]
của bà,
Linda Lê bước
đi, trong cô đơn, lặng lẽ, tự mình làm chủ mình, độc lập một cách thật
dữ dằn,
tàn khốc. Cuốn tiểu thuyết đầu tay, Một
con ma cà rồng thật dịu dàng, được viết bằng tiếng Pháp vào năm 23
tuổi, đánh
dấu sự thành tựu của một lối viết baroque [kỳ dị], u ám, ảm đạm, và, kể
từ đó, luống
cầy do lối viết tạo ra ngày một sâu thêm, nhờ được nuôi dưỡng bằng một
sự đọc bền
bỉ, cần cù, không làm sao đếm được, những tác phẩm của những bậc kỵ sĩ
độc hành
của văn chương thế giới, như Ingeborg Bachmann, Louis-René des Forêts,
Kobo Abe
hay Stig Dagerman.
Được viết để
tưởng nhớ người cha đã mất, Thư Chết [1999], cho tới
nay vẫn luôn luôn là một tác phẩm trần trụi, như bị lột da, lóc vẩy,
và cũng thật mê hoặc, đòn phép, giống như lời bùa chú của một vị nữ phù
thuỷ. Tác
phẩm của Linda Lê là một lời ai điếu khổng lồ, quá khổ, và mỗi tác phẩm
thì như
là một phản chiếu của một tác phẩm kia, khác. Với cuốn mới nhất, Cronos, một bi
kịch về độc tài, là một sự hoang dã dữ dằn, bật ra từ đó. Và cũng thật
khó mà nhận
ra, hay tìm thấy, cái giọng nói dịu dàng, thầm thì của bà ở trong sự
hung bạo
bao lâu nay bị kiềm chế này.
Ngoài những cuốn tiểu thuyết, bà còn viết
nhiều tuyển tập tiểu luận phê
bình, về những nhà văn mà bà mến phục, như nữ thi sĩ người Nga, Marina
Tsvetaïeva. Tại sao những cuốn sách của sự mến phục đó?
Tôi cực kỳ yêu mến những
bản văn của sự vinh danh, tưởng nhớ,
bởi vì chúng khơi lên sự thèm đọc, và tạo những thông đồng. Tôi mơ
thành lập
một cộng đồng gồm những người thích đọc tôi, họ sẽ được mời gặp, và làm
quen với
những tác giả mà tôi mến mộ. Tôi thích được chia sẻ những châm ngôn của
Georges
Perros hay giọng thơ rã rời của nhà thơ Rumani, Gherasim Luca. Thật đa
dạng, nhưng
họ tạo nên một tổ quốc, một xứ sở của sự tuyển chọn. Một thứ địa dư
tinh thần định
nghĩa tôi, nói cho mọi người biết, tôi là ai. Tôi thật tình mong, những
độc giả,
đến lượt họ, cũng sẽ nhận ra những đồng điệu văn nhân, ở trong họ.
*
Câu trả lời
của Linda Lê khiến Gấu nhớ tới 3 búa, tương truyền là của Trình Giảo
Kim, một
nhân vật trong Thuyết Đường, được ông
anh nhà thơ truyền lại cho Gấu: Hãy đọc thật nhiều, và sẽ có 1 ngày,
mày tìm ra
vị sư phụ của mày, và cùng với ông ta, là dòng văn chương thích hợp với
mày.
Và ông nói thêm,
viết văn là phải có thầy. Nghề nào thì cũng có thầy, nhưng nghề văn,
cần thầy
nhất!
Những cuốn sách
của sự ngưỡng mộ. Xứ sở của sự tuyển chọn, những văn nhân đồng điệu ở
trong ta… là cũng ý đó.
GNV suy ra 1
điều, là, nhà văn Mít, ít có, và nếu có, thì có thật nhiều, và toàn nhà
văn dởm, vì đếch có thầy!
Có một ông,
cũng viết lách, chắc cũng đọc GNV, khá nhiều, phán về Gấu, đệ tử của
Camus, và
của TTT!
Nhảm!
Gấu hay nhắc
tới TTT, đến Gấu Cái phát bực, nhưng TTT, và Camus không phải Thầy của
GNV!
Trong Thuyết
Đường, TGK đang đêm nằm ngủ, thì được 1 vị thần đến gặp truyền
cho một bài búa
thần sầu. Tỉnh giấc, ông bèn chạy vội ra sân, đi lại bài búa. Mới đi
được đúng
3 đường, bà vợ, từ trong nhà hét ra, thằng khùng kia, đang đêm mò dậy,
múa may gì đó? Vô đây mà búa nè!
Thế là ông
chồng giật mình, quên hết cả bài búa, chỉ còn đúng 3 đường! Đánh đấm
với bất cứ
ai, kẻ nào chịu nổi 3 búa, đến búa thứ tư, thì đều bèn bật cười, sao
hết xí oắt
rồi hả?
Hồi còn trai
tráng, GNV đi được ba, bốn, năm, sáu búa một đêm, là chuyện thường.
Nhiều đêm,
thi đua cùng những cú pháo kích của VC,
cũng là chuyện thường!
Xạo Hết Chỗ Nói!
*
Làm thế nào họ… ‘tới’
với bà?
Tôi cho rằng, sức
mạnh của một số nhà văn, là khi họ bật ra từ hồi ức, ngay trong cuộc
sống thường
nhật, vào những hoàn cảnh nào đó của nó. Cioran nói cuốn sách bảnh
nhất, là ‘người
bạn vào lúc khốn khó’. Với tôi, rất nhiều nhà văn là những bạn quí vào
những lúc
khốn khó như thế! Tôi đặc biệt nghĩ đến ông bạn quí Robert Walser, với
cái vóc
dáng dửng dưng, lừng lững, bất cần đời, mặc dù bị đời choảng cho nhiều
vố thật đích
đáng. Tôi thường dành cặp mắt xanh của
mình
cho những tác giả mà người đời gọi là tuyệt vọng. Tôi nhận ra trong cái
vẻ âm u
của họ một âm điệu rất âm u, và tôi thường múc ra từ những âm u đó của
họ, những
sức sống, nghị lực cho riêng tôi, trong tất cả những ngày tháng ở trên
đời,
ngay cả những ngày tôi không đọc họ. Nhiều khi, đang lang thang
trên đường
phố, nhìn một đấng bộ hành đi qua, và thế là tôi bèn nghĩ, ông này có
thể là... Robert
Walser. Một ông khác thì lại khiến tôi nghĩ đến một nhân vật của Dos.
Tôi có cảm
tưởng văn chương đan dệt tôi vào với đồng loại, với những liên hệ mang
tính nhân
loại, tình người. Tôi vốn từ lâu là một con bé thật nhút nhát. Nhờ
những cuốn sách
mà tôi hé mở lòng mình ra trước cuộc đời.
Tuổi thơ
của bà trải qua tại
quê hương của bà, là Việt Nam.
Văn chương là thế nào đối với bà, khi đó?
Tôi luôn luôn cảm thấy rất xa
lạ đối với Việt Nam,
do sự học hành trong tiếng Pháp, do cung cách, cách ứng xử của tôi,
luôn luôn
dụt dè, thụt lui. Chị em tôi, và tôi hoàn hoàn không giống những đứa
trẻ ở đó.
Chính là cái cảm giác cô đơn, cách biệt thật xâu sa đó đã khiến tôi bỏ
chạy,
vượt thoát, thật sớm sủa, qua những cuốn sách. Ngay từ khi còn nhỏ, tôi
đã phát
triển một thứ ham muốn, đói thèm đối với tất cả những gì ở cách xa tôi,
những
gì có vẻ thật khổng lồ, quá khổ đối với tôi.
Thí dụ?
Những tác phẩm của Victor
Hugo, khổng lồ đối với tôi! Từ mê mẩn vóc dáng khổng lồ ở nơi Hugo, tôi
mò qua
tính khí bạo phát, nổ như tạc đạn, ở nơi thiên tài sáng tạo người
tchèque,
Ladislas Klima. Với ông này, cũng lại là một sự trái ngược hẳn với con
người
của tôi, vốn rất ư dịu dàng, đôi khi vẫn có những khoảnh khắc căng
thẳng cao
độ.
Bà viết để bẻ gẫy, triệt
tiêu
sự căng thẳng, hay là để duy trì nó?
Duy trì chứ. Khi viết, tôi muốn
như đi trên một sợi dây căng thẳng, luôn luôn là vậy. Nếu đôi khi tôi
không hài
lòng và nếu tôi sửa đổi một số bản văn của những cuốn sách của tôi, thì
chính là
vì, vào những lúc đó, tôi không vượt qua được dòng điện cao thế, thì cứ
nói như
vậy.
Sợi dây căng thẳng, dòng
điện
cao thế, ở đâu ra vậy?
Tôi luôn có cảm tưởng là tiếng
Pháp gây khó cho tôi, nếu tôi không cố kiếm cho bằng được, cách viết
của riêng tôi. Viết
như thế, thường xuyên là một sự thử thách. Có khi tôi ngồi hàng giờ
đồng hồ, chẳng
kiếm ra, dù chỉ một từ vừa ý… và sau cùng bỏ đi lang thang, nổi quạo
với chính
mình, cho đến khi tìm ra ra từ. Tôi nhận ra chính là trong khi tản bộ
như
thế mà tôi tìm ra những ý nghĩ sáng ngời, trong chuyển động… Trong khi,
nếu cứ
ngồi lỳ ở bàn, vô phương. Tôi cần phải bước những bước lớn, chẳng thèm
nhìn
chung quanh, chẳng cần nhìn thấy gì, xoáy vào những ý nghĩ của mình.
Tôi luôn
luôn tự nhủ mình, phải là một bản văn phát hào quang, ‘phát sáng’, đó
là từ một
tôi thật mê.
Cách viết của bà chẳng giống
ai, chẳng thuộc về 1 típ nào cả. Không phải một cách viết trôi, chảy,
mà được làm bởi những khảm khắc, những chạm nổi, những
cú láy. Nó gây cảm tưởng về những cú rít, huýt, cắn, xé, ngoạm…. Ngôn
ngữ của bà
đã được cấu tạo như thế nào?
Nó được tạo nên bằng một sự
trộn lẫn dịu dàng. Khi còn con nít, tôi nói tiếng Việt với cha tôi,
tiếng Pháp
với mẹ tôi. Giữa chị em, chúng tôi nói với nhau bằng 1 thứ tiếng pha
trộn giữa
tiếng Việt và tiếng Pháp. Bây giờ chúng tôi chỉ nói tiếng Pháp. Đã lâu
lắm rồi,
tôi không nói tiếng Việt nữa. Thứ tiếng đó chỉ còn lại trong tôi, như
là những mẩu,
mảnh, lâu lâu lại thốt ra, nghe thật kỳ
cục.
Câu
kệ trong tiểu thuyết
của bà đọc nghe lạ tai. Bà thích những từ hiếm, những sắp xếp khác
thường…
Tôi
luôn luôn tự bảo mình, phải là một bản văn ‘phát quang’, giống như lân
tinh. Đó
là từ tôi thích. Tôi luôn hướng tới đó, nhưng không muốn để lộ ra sự cố
gắng,
không coi đây là một kiểu bài tập. Tôi mê tính phát quang của những từ,
và những
cuốn sách phải như là những lò lửa. Tôi đã viết Thư Chết gần
như trong trạng
thái cháy bừng bừng như thế đó.
Cuốn
sách mới của bà, Cronos,
miêu tả sự vận hành, guồng máy của một chế độ độc tài tàn khốc. Đây là
cuốn tiểu
thuyết dữ dằn, khốc liệt nhất của bà…
Lạ
lùng thay, một vài cuốn thật dữ dằn, thật hung bạo đối với tôi, trong
lúc tôi
viết chúng, nhưng cuốn này thì không. Tôi dệt nó với sự kiên nhẫn của
Pénélope,
chậm rãi, êm ả, ngày này qua ngày khác, cảm thấy mình sáng suốt hơn
thường lệ.
Tôi ngạc nhiên vì thấy mình thay đổi từ ngữ, với những nhân vật sử dụng
một từ
biểu rất quen thuộc, phải nói là tục tĩu. Tôi thật thú vị khi để nhân
vật là viên
Bộ trưởng Nội vụ phải nói, tìm cho ông ta những từ ngữ nói lên tất cả
sự suồng
sã, dung tục, mà lại không hề phải miêu tả điều này.
Người
ta nhận ra một vài
khuôn mặt lịch sử trong nhân vật độc tài, như Hitler ở Đức, hay Ne Win
ở Miến Điện…
Bà lấy nguồn cảm hứng ở đâu vậy?
Có
những ảnh hưởng ngầm trong không khí chung của sự đàn áp, và đe dọa:
cuốn phim Rome,
thành phố mở cửa của Roberto Rossellini, một vài vở kịch của Edward Bond. Và có những hồi tưởng cá nhân về điều có
thể
coi như là khí hậu, ở trong đó bầy ra sự nghi kỵ và tố giác, khi những
cuốn sách
phải ở lề phải, phải theo đúng đường hướng của Đảng. Tôi đã sống hai
năm dưới một
chế độ tàn nhẫn, sau khi Sài Gòn thất thủ, từ 1975 tới 1977, trước khi
bỏ đi Pháp
vĩnh viễn. Tôi lúc đó 12 tuổi. Lẽ dĩ nhiên tôi làm sao nhớ đầy đủ, biết
tất cả,
nhưng tôi biết thật rõ là không khí thay đổi. Cha tôi mất việc làm. Ông
là một
kỹ sư, và ông trở thành một tên sơn vẽ bảng hiệu. Rất nhiều người bỏ
chạy. Những
trí thức bị buộc tội hữu phái thì bị đầy đi trại cải tạo. Và trên tất
cả, nạn đói
đe dọa, do cấm vận. Xứ sở bị cắt ra khỏi thế giới. Tôi nghĩ là đã có
thay đổi,
chế độ có vẻ thoáng hơn. Tới điểm nào? Tôi không biết, bởi vì những
người ly
khai vẫn tiếp tục bị bỏ tù. Đã 10 năm tôi chưa trở về lại Việt Nam…
Note:
Đoạn trên, bị thiến bỏ, trong bài dịch in trên Sài Gòn Tiếp Thị ở trong nước.
Bà vừa được học
bổng Cioran cho một dự án viết sách về những người vô tổ quốc…
Tôi chỉ mới bắt
đầu viết. Và sẽ là một suy tưởng về sự khác biệt, về cái còn lại của chủ nghĩa nhân bản.
(1) Tôi muốn trở lại với một số
khuôn mặt thật thân quí đối với tôi, như Marina Tsvetaïeva, và nói tới
những nhà
văn ít được biết tới, như Benjamin Fondane,
một
người viết bằng tiếng Pháp. Cả hai đều là nạn nhân của những chế độ
toàn
trị. Sau khi biết lưu vong, họ có một kết thúc bi thảm. Tsvetaïeva tự tử khi trở về lại Liên Xô,
sau 14 năm lưu vong tại
Pháp, và Benjamin Fondane thì chết
tại Auschwitz… Trong cuốn sách này
tôi còn nói tới một
số nhà văn, là những di dân nội xứ. Những tiểu thuyết gia như Thomas Bernhard người đã tố cáo những
tì vết của xứ
sở của chính họ và chẳng cảm thấy đồng điệu gì với đồng bào của mình.
Sẽ là một
sự kính trọng, tỏ lòng biết ơn, gửi tới tất cả những người rất chịu câu
của nhà
thơ vùng Bretagne,
Armand Robin: “Với mọi
mảnh đất, thì ta vẫn sẽ
chỉ là một kẻ xa lạ”.
Đúng là những lời dữ dằn, ác liệt luôn rong ruổi cùng với
tôi.
(1)
Nous qui vivons à l'"ère de l'Épilogue", sur
les ruines de
l'Auschwitz et du Goulag, devons-nous
"réapprendre à
être humain"? Faut-il inventer un nouvel humanisme?:
Chúng ta sống thời
kỳ
Chung Cuộc, trên những điêu tàn của Lò Thiêu và Lò Cải Tạo, liệu chúng
ta phải
lại học làm người? Phải phát kiến ra một chủ nghĩa nhân bản mới?
Francois L'Yvonnet phỏng vấn Steiner, trong Man Rợ Dịu Dàng, La
Barbarie Douce, thực hiện tại Paris, ngày 3 Tháng Hai, 2000.
Thư
gửi bạn văn
*
Antoine
SPIRE : Un jour, vous
avez mis en scène ce vieux talmudiste qui dit :
" Nous prions pour la
venue du Messie, mais pas tous ! Il y a des Juifs qui, dans le secret,
chuchotent à Dieu de ne pas venir. "
George STEINER : C'est
reprendre une boutade merveilleuse du grand philosophe allemand, Hegel.
Pas du
tout un ami des Juifs. Hegel disait : "Le Tout-Puissant vient et dit à
un
Juif : Voilà. Tu as le choix : soit le salut éternel, soit le journal
du matin,
et le Juif choisit le journal du matin."
Cette boutade est très
profonde. Nous sommes un peuple fasciné par l'Histoire, fasciné par la
tourmente même de notre destin, et parfois je me dis (en souriant
j'espère -
mais je n'en suis pas tout à fait sûr) : que ce serait ennuyeux que la
venue du
Messie.
Quel énorme ennui s'il n'y
avait plus l'Histoire ! (1)
Source
Giai
thoại trên, có gì dây mơ
rễ má với ngày 30 Tháng Tư, 1975.
Giá mà Thiên Sứ, tức cái đám
VC, đừng có tới, nhỉ!
Tới một
cái, nhìn thấy của cải, thực phẩm trần gian, là 1
cõi thiên đàng hạ giới Miền Nam, lập tức, chúng biến thành Quỉ, thành
những tên
ăn cướp, những tên nhận hàng! [Miền Nam nhận họ, Miền Bắc nhận
hàng, mà!]
(1) Dịch… thoáng:
Antoine SPIRE : Ông
có đưa ra một tay già, thông tuệ kinh tan-mút, nói:
Chúng ta cầu nguyện
Chúa Cứu Thế tới, nhưng đâu hẳn như thế, bởi là vì có những đấng Do
Thái, trong
bóng tối, thì thầm với Thượng Đế: Này, đừng có nhập thế đấy nhé!
George STEINER: Tôi mô phỏng Hegel. Tay
này không ưa dân Do Thái. Một bữa ông ta kể chuyện tiếu lâm, Thượng Đế
vi hành,
gặp một tên Do Thái, và đề nghị: Mày chọn gì, giữa 2 món này, hoặc là
cứu chuộc,
hoặc tờ nhật báo buổi sáng, hắn ta bèn chọn tờ báo.
Căng lắm đấy, cái câu chuyện tiếu lâm này. Chúng tôi là 1 dân tộc bị
hớp hồn bởi
lịch sử, bởi những đỉnh cao thời đại, bước ngoặt vĩ đại… là
cái số mệnh
của chúng tôi, và thỉnh thoảng, tôi tự nhủ thầm, có khi còn mỉm cười và
nhủ thầm:
Giá mà “Chúa Cứu Thế”, tức anh VC Giải Phóng, đừng có tới, thì thật đỡ
khổ biết
là chừng nào!
TTT,
hẳn là bị ám ảnh bởi 1 câu
chuyện tiếu lâm như trên, thành thử khi đọc Trầm Tư của 1 tên tử tù của
Hồ Hữu
Tường, trong đó, ông mơ tưởng Đức Phật sẽ có ngày trở lại với dân Mít,
nhà
thơ hoảng quá, viết:
Giấc mơ Đức Phật trở lại thì cũng nát tan như mảnh đồng Bắc
Kít chằng chịt những bờ, và bờ thì nhiều hơn là ruộng.
Ui chao, một khi đồng liền
thành một mảnh, qua Cải Cách Ruộng Đất, qua tập thể hoá… là Quỉ Đỏ xuất
hiện,
thay vì Đức Phật!
Tội nghiệp dân Mít!
Hà, hà!
*
Linda Lê :
“J'aime que les livres soient des brasiers"
Bà cảm thấy thế nào khi sống
tại nước Pháp hiện nay?
Tôi gần
như luôn luôn cảm thấy
mình sống trong tình trạng lưu vong. Tôi tin rằng mặc dù sống ở Pháp đã
lâu vậy
mà tôi chưa bao giờ nói: đây là xứ sở của tôi. Nhưng tôi cũng không nói
Việt Nam
là xứ sở của
tôi. Tôi coi tiếng Pháp là tình yêu sâu đậm của mình. Đó là cái neo độc
nhất cắm
vào thực tại mà tôi luôn thấy, thật hung bạo, Tôi rất lo ngại về sự
bùng phát của
một thứ chủ nghĩa quốc gia dữ dằn ở Âu Châu. Tôi có cảm tưởng Âu Châu
ngày càng
trở nên lạnh nhạt, và càng ngày càng bớt bao dung. Có lẽ chúng ta đang
ở
trong một thời hòa bình chỉ ở ngoài mặt, có vẻ như hòa bình, những cuộc
xung đột
ngầm chỉ chờ dịp để bùng nổ, tôi sống trong sợ hãi một cú bộc phát lớn.
Trong Cronos, bà đưa ra một lời
kêu gọi, về một sự phản kháng. Phản kháng như thế nào, theo một hình
thức nào,
vào lúc này, theo bà?
Đó là
thứ tình cảm bực tức,
muốn làm một cái gì đó, muốn nổi loạn, khi tôi theo dõi những biến
động, Đôi
khi tôi cảm thấy gần như ở trong tình trạng bị chúng trấn áp đến nghẹt
thở. Tới mức có lúc tôi ngưng không đọc báo hàng ngày, không nghe tin
tức
trên đài nữa.
Như nữ nhân vật Cronos, tôi thỉnh thoảng ở trong tình trạng cảm thấy
mình bị cự
tuyệt, bị sự chối từ cám dỗ….
Linda Lê :
“J'aime que les livres soient des brasiers"
Bà cảm thấy thế nào khi sống
tại nước Pháp
hiện nay?
Tôi gần như luôn luôn cảm thấy
mình sống
trong tình trạng lưu vong. Tôi tin rằng mặc dù sống ở Pháp đã lâu vậy
mà tôi
chưa bao giờ nói: đây là xứ sở của tôi. Nhưng tôi cũng không nói Việt Nam là
xứ sở của
tôi. Tôi coi tiếng Pháp là tình yêu sâu đậm của mình. Đó là cái neo độc
nhất
cắm vào thực tại mà tôi luôn thấy, thật hung bạo, Tôi rất lo ngại về sự
bùng
phát của một thứ chủ nghĩa quốc gia dữ dằn ở Âu Châu. Tôi có cảm tưởng
Âu Châu
ngày càng trở nên lạnh nhạt, và càng ngày càng bớt bao dung. Có lẽ
chúng ta
đang ở trong một thời hòa bình chỉ ở ngoài mặt, có vẻ như hòa bình,
những cuộc
xung đột ngầm chỉ chờ dịp để bùng nổ, tôi sống trong sợ hãi một cú bộc
phát
lớn.
Trong Cronos, bà đưa ra một lời
kêu gọi,
về một sự phản kháng. Phản kháng như thế nào, theo một hình thức nào,
vào lúc
này, theo bà?
Đó là thứ tình cảm bực tức,
muốn làm một
cái gì đó, muốn nổi loạn, khi tôi theo dõi những biến động, Đôi khi tôi
cảm
thấy gần như ở trong tình trạng bị chúng trấn áp đến nghẹt thở. Tới mức
có lúc
tôi ngưng không đọc báo hàng ngày, không nghe tin tức trên đài nữa. Như
nữ nhân
vật Cronos, tôi thỉnh thoảng ở trong tình trạng cảm thấy mình bị cự
tuyệt, bị
sự chối từ cám dỗ…. Như nữ nhân vật này, tôi chỉ có thể chiến đấu bằng
ngòi bút.
Có thể 1 ngày nào đó những biến động bắt buộc tôi phải hành động khác
đi. Nhưng
vào lúc này, trong xã hội mà tôi sống trong đó, khí giới độc nhất của
tôi là viết.
Dù có thể chẳng được hồi đáp
Tôi luôn viết với thứ tình cảm
là tôi có
thể giảng đạo ở giữa sa mạc. Nhưng điều đó không đánh gục tôi. Ngược
lại. Một cách
nào đó, vậy mà lại hay. Đừng bao giờ cảm thấy mình viết ra là được chấp
nhận. Nếu
không bạn sẽ bị ru ngủ bởi sự hài lòng, thoải mái. Bằng mọi cách, cố mà
đừng để
xẩy ra tình trạng tự hoang phế, hay thương thân trách phận. Tình cảm
hài lòng,
và oán hận là hai tảng đá ngầm lớn mà tôi cố gắng tránh né.
Những cuốn sách của bà hay nói tới đề tài
bị bỏ bùa…
Đề tài này luôn ám ảnh tôi. Nó
đầy rẫy ở
trong những tiểu thuyết của Henry James, trong có những phụ nữ bị mồi
chài bởi
những tên sở khanh. Văn chương tuyệt vời nhất là khi nó mê hoặc, quyến
rũ. Tôi
mê những nhân vật giống như là một cái mồi, sẵn sàng phơi mình ra để mà
được… làm
thịt. Bản thân tôi, cũng đã từng bị mê hoặc, hết còn chủ động được,
trước một vài
người, trong đời tôi, và tôi luôn quan tâm tới điều này.
Tất cả
đã bị cắt đứt. Và nhà
văn Conrad, tên phản phúc (ce renégat) đã phản bội tiếng nói của nó,
gia đình
của nó, xứ sở của nó, là một khuôn mẫu đối với tôi. Với ông ta, trở về
với mình
có điều chi giống như là để thanh toán. Tôi cảm thấy tôi là một "khách
trú"- "métèque", tiếng dùng để chỉ những người ngoại quốc, nhất
là dân địa trung hải sống ở Pháp, hành xử của họ bị coi khó chịu, đối
với dân
bản xứ. CTND - viết văn bằng tiếng Pháp. Tôi nói "khách trú" với rất
nhiều kiêu ngạo. Tôi là một kẻ lạ ở trên đời, với cái thực, với cuộc
sống, với
xứ sở mà tôi đang sống, với xứ sở của riêng tôi.
Linda Lê
Báo Le Magazine Littéraire mới nhất,
về
Simone de Beauvoir, trong mục thường xuyên của nó, Sổ Đọc, [Carnet de
Lecture],
có một bài viết tuyệt vời về nhân vật Kurtz, của Trái Tim Của Bóng Đen, của
Conrad, nhân dịp tái xuất bản tuyệt tác này. Ông Từ giữ đền "Sổ Đọc"
này, Enrique Vila-Matas, là người Tây Ban Nha, viết bằng tiếng Tây Ban
Nha,
được dịch qua tiếng Pháp Kurtz
des ténèbres [Kurtz
của bóng đen].
Vila-Malta viết về Conrad:
Ông gia nhập truyền thống rất xa xưa, theo đó, cái gọi là kỷ luật, sự
tu luyện
phải đến từ bên trong, bởi vì đây chính là sức mạnh tâm thần bật ra từ
thiên
tài về nơi chốn của chính bạn, le genius loci, nói một cách khác, từ
chính
chúng ta.
[Joseph Conrad adhérait à la
tradition la
plus ancienne, selon laquelle la discipline doit venir de l'intérieur,
puisqu'il s'agit d'une force mentale émise par notre propre génie du
lieu, le
genius loci, autrement dit nous-mêmes. L'homme ne se libère pas en
donnant libre
cours à ses impulsions et en se montrant changeant et incapable de se
contrôler, mais en soumettant la force de sa nature à un projet
prédominant, à
un code mental d'acier qui sache éliminer sa liberté la plus sauvage et
le
situer dans le cadre d'une vie disciplinée, en faisant appel aux
desseins
intérieurs du génie du lieu.]
*
Còn một bài viết nữa, trong cùng số báo, cũng thật tuyệt, của Linda Lê,
trong
mục thường xuyên của bà, "Trở về với những tác giả cổ điển". "Tẩu
khúc
của thần chết",
Missa sine nomine, nguyên tác tiếng Đức, của Ernst
Wiechert. Một
bản di chúc tâm linh của một người sống sót trại tù Buchenwald.
Bài viết cũng khiến Gấu liên tưởng đến Cánh Đồng Bất Tận.
Đối diện với điều không thể nói được, không thể gọi tên, viết về sự
phạm tội và
cứu chuộc, liệu vẫn còn có nghĩa?
Câu trả lời:
Tiếng nói của tôi được vời tới, và nó kể
[Ma voix a été appelée, et elle raconte].
Của
Gió và Nước
Hình
ảnh chúng ta về Dos,
"đau cái đau", của sự thái quá, đến biến thành sáo rỗng. Chúng ta
nhìn Dos như là một nhà tâm lý học, tâm thần học của những hoàn cảnh
cực điểm,
một tiểu thuyết gia, với những nhân vật, mà Borges đã từng khôi hài, bị
đẩy tới
tình trạng sướng quá, hạnh phúc quá, đến đành phải tự tử!
Nhưng
chúng ta còn biết, điều
quan trọng này, về Dos: ông là nhà văn quá mẫn cảm về sự hiện hữu của
cái ác,
và sự phạm tội. Chính vì điểm này mà Ivanov [tác giả cuốn Dostoevsky,
Tragédie,
Mythe, Religion], đã so sánh ông với Dante: cái giải pháp độc nhất cho
nỗi đau
khổ của con người, chỉ có thể là: Thượng Đế.
Có một
Dos khác, ít người để
ý: Một Dos của Nước Nga Thánh [la Sainte Russie].
Nguyễn
Ngọc Tư là một nhà văn
quá mẫn cảm về sự hiện hữu của một cái ác, và sự phạm tội?
NKTV
Tẩu khúc của thần chết (1)
par Linda Lê
(1)
Nhan đề một bài thơ của
Paul Celan. Coi:
Mẹ có đau khổ không như Mẹ đã
từng đau khổ?
Cuốn
phim của Marc Rothemund,
Sophie Scholl, Những ngày cuối cùng, đã thành công trong việc làm tái
sinh một
nàng Antigone, cùng với người anh của nàng, thành lập nhóm Hồng Trắng,
La Rose
Blanche, người tin tưởng vào sức mạnh của chữ viết, khí giới bí mật
chống lại
sự man rợ của chủ nghĩa Hitler. Chính trong tác phẩm của Ernst
Wiechert, một du
kích đã chọn lựa ở lại Đức, trong thời kỳ Nazi, mà nàng [Antigone] đã
dấn thân
hết mình vào công cuộc chống lại "những bộ máy đè bẹp nhân loại"
["les machines à écraser l'humanité"], (chữ của Simone Weil, một
khuôn mặt sáng ngời khác nữa, của lực lượng Kháng Chiến).
Missa sine nomine, di chúc
tâm linh của Ernst Wiechert, xuất bản năm 1950 - tác giả trốn thoát
Buchenwald,
qua Thuỵ sĩ sống từ năm 1948, vừa mới mất, thọ 63 tuổi - là một cuốn
tiểu
thuyết của một nhà nhân bản, người, đã đứng ở "cửa Địa Ngục", tự hỏi,
liệu LỜI [le Verbe] có còn là khởi đầu của tất cả....
retour
aux classiques
par Linda Le
FUGUE DE MORT
le
testament spirituel
d'Ernst Wiechert, rescapé de Buchenwald
Le film
de Marc Rothemund,
Sophie Scholl, Les Derniers jours, avait réussi, en 2005, à ressusciter
cette
Antigone qui, tout comme son frère, fondateur du groupe La Rose
blanche,
croyait à la puissance de l'écrit, arme secrete employée pour s'opposer
à la barbarie
hitlérienne. C'est dans l'œuvre d'Ernst Wiechert, maquisard ayant
choisi de
rester en Allemagne pendant le nazisme, qu'elle puisa la volonté de se
dresser
contre ces « machines à écraser l'humanité » (l'expression est de
Simone Weil,
autre figure lumineuse de la Résistance).
Missa sine nomine, testament spirituel
d'Ernst Wiechert, publié en 1950 - rescapé de Buchenwald et installé en
Suisse
depuis 1948, il venait de mourir à l'âge de 63 ans -, est le roman d'un
humaniste qui, pour s'être trouvé « aux portes de l'enfer », se demande
si le
Verbe peut encore être au commencement de tout, si les « découragés »
ont
raison d'espérer une « merveilleuse transformation » de leur cœur à
l'écoute de
l'ultime mélodie de Mozart, si le conteur n'est pas impudent quand il
excipe de
l'universalité pour vanter sa « marchandise ».
Dans sa préface à cette chronique d'une
désespérance surmontée, Pierre-Emmanuel Dauzat, esprit hétérodoxe
auquel nous
devons des essais brillants et dérangeants sur le christianisme et sur
la
representation de l'Holocauste, rappelle que, surveillé par les sbires
de
Goebbels et regardé avec suspicion par ses pairs exilés, Thomas Mann
notamment,
Wiechert avait, en 1939, au cours de son « émigration intérieure »,
enterré
sous quelque arbre de son jardin un témoignage, Le Bois des morts, où
il
dénonçait les camps d'extermination. « II faut que je lui dise que j'ai
vu
mourir des milliers d'hommes, sans bouger le petit doigt. Qu'il ne faut
plus
demander : "Abel, qu'as-tu fait de ton frère?" Car les frères ont été
millions », soupire Amédée, le protagoniste de Missa sine nomine, sorti
anéanti
de la « fosse aux bêtes » et incapable, même au milieu de ses proches,
de
renouer avec la sérénité.
Ernst
Wiechert, qui avait, dans La
Commandante (éd. Calmann-Lévy, 1963), mis en scène une sorte de Colonel
Chabert, revenu d'une captivité en Afrique et tentant d'enterrer son
passé,
décrit ici le difficile retour à la vie d'un enfant du siècle de fer.
Il a dû
apprendre à lire l'alphabet de l'abjection dans les pages arrachées au
Livre de
Satan, il a assisté à la métamorphose de
son semblable en assassin, « assassin par jeu ». Face à l'innommable,
écrire
sur la culpabilité et l'expiation a-t-il encore un sens ? La réponse
avait déjà
été donnée par le messager du Bois des morts: « Ma voix a été appelée,
et elle
raconte. » Leçon de ténèbres, Missa sine nomine, conçue presque au même
moment
que le poème de Paul Celan sur la mort, « ce maître d'Allemagne » qui
lance ses
grands chiens sur les hommes et leur offer une « tombe dans le ciel »,
est un
splendide défi aux forces caïnites.
Traduit de l'allemand par
Jacques Martin
Préface de Pierre-Emmanuel
Dauzat
*
Đây là
đề tài ‘ban phát’, thay vì ‘giải phóng’ bà 'Thấm
Vân Thấm Dần Thấm Tới Đất' [mô phỏng cái tít “Mưa không ướt đất” của 1
nữ văn sĩ
nổi tiếng trước 1975 ở Miền Nam] từng đề cập.
Và một trong những tiểu thuyết thần sầu của Henry James mà LD nhắc tới
ở đây là Washington
Square.
Cuốn này đã
được quay thành phim, với nhân
vật thần sầu, Monty Cliff, đóng vai anh chàng sở khanh đào mỏ.
Nhân
trong
nước đang ì xèo về phim Cánh Đồng
Bất Tận chuyển thể từ tiểu thuyết của
Nguyễn
Ngọc Tư, TV bèn ‘lệch pha’qua nhân vật đàng điếm sở khanh Monty Cliff,
một trong
những kép độc được mấy em gái thời Gấu mới lớn mê mẩn, không chỉ 1 anh
ta, mà còn, nào là Elvis
Presley,
Gregory Peck, Clark Gable... tên nào Gấu cũng thù, do hồi đó Gấu
mê một
em, và
thần tượng của em là những đấng trên
Gấu Cái cũng mê Elvis Presley lắm, từng trốn học đi coi phim có anh ta
thủ vai chính!
Điểm
Sách London 7 Oct 2010
MONTGOMERY
CLIFT was a lush,
a loser and a masochist; for more than 15 years he was also one of the
finest
actors in America - as Clark Gable put it, 'that faggot is a hell of an
actor.'
His beauty, his drinking, his homosexuality, his failure and his
unaccountable
talent have all re-formed themselves as elements of the icon that
stands in for
Clift, a potent image of the suffering star. Having seen himself in
Howard
Hawks's Red River (1948), Clift, so the story
goes, knew that fame was coming to him, and grabbed the opportunity to
get
drunk anonymously one last time. In the years of his renown, it could
seem as
though his aim was to hold on to that anonymity while in the throes of
stardom.
For all that, he clearly loved the limelight, and in some perverse way
tried to
turn celebrity into concealment. The sad joke of his career was that
his fame
outlived his success; after Red River, he
couldn't even be anonymous in failure.

Toute œuvre doit être
politique, en ce sens qu’elle
s’interroge sur la place de l’individu parmi ses pareils, sur sa
contribution à
la préservation de certaines valeurs morales, telles que la fraternité
et
l’humanité, sur son adaptation, difficile ou non, aux circonstances,
selon les
caprices de la roue de la Fortune, qui avantage quelques élus au
détriment du
reste du troupeau. Toute œuvre, accomplie dans l’ombre, se révèle ainsi
insurrectionnelle : elle ne laisse pas en repos le lecteur, obligé
de révoquer
ses principes en doute, de se demander si son insertion dans un corps
social ne
se fait pas aux dépens de sa singularité, s’il ne sacrifie pas aux
conventions
pour se ménager une issue de secours quand il est amputé de ses
ressources."
Linda Lê
Blog NL
Mọi tác phẩm phải có
tính chính trị, theo nghĩa, nó truy
vấn chỗ đứng của cá nhân giữa đồng loại, sự đóng góp của cá nhân đó
trong
việc bảo
tồn một vài giá trị đạo đức, như tình anh em, tình nhân đạo, sự thích
ứng của người đó, khó
khăn hay không, trước hoàn cảnh, do tính thất thường của Số Mệnh,
nó ưu tiên
cho một vài kẻ được chọn lựa, và bỏ mặc cả bầy còn lại. Mọi tác phẩm,
được hoàn
tất trong bóng tối, đều bật ra bằng nổi loạn, bằng chống đối lại quyền
lực: nó
chẳng hề để cho độc giả nghỉ ngơi, buộc người đọc phải hồ nghi, và coi
lại
những nguyên tắc của mình, phải tự hỏi, việc gia nhập của mình vào tổng
thể xã
hội liệu có mất đi tính đặc thù của riêng mình không, liệu người đó có
hy sinh
những quy ước, để tìm ra một lối thoát, một khi nguồn sống, nguồn viết,
tài nguyên của mình bị
chặt chỉa?
*
Linda Lê :
“J'aime que les livres soient des brasiers"
Linda
Lê may mắn còn có chỗ bỏ
neo, khi bà chọn tiếng Pháp, và tiếng Pháp chọn bà.
Trường hợp W.G.
Sebald, mới thảm. Ông không có 1 thứ tiếng để viết, dù viết bằng tiếng
Đức, như
đoạn sau đây cho thấy.
Mặc dù cái sự nổi tiếng bất thần, cái chết
thê lương của ông thật khó mà
gọi là cái chết của một tác giả người Đức nổi tiếng. Mặc dù cả nghiệp
viết, ông
viết bằng tiếng mẹ đẻ, đất mẹ chẳng hề biết tới ông, 1 kẻ vắng mặt cả
về thể
xác lẫn tinh thần. Ông sống ở Norwich, thuộc Anh trên 30 năm và chết ở
đó vì tai
nạn xe hơi, thật lặng lẽ, chẳng tham gia vào bất cứ một sinh hoạt nghệ
thuật,
hay dòng chính dòng phụ nào, nói chi dòng văn học tiếng Đức.
Ở Đức, sách của ông cũng được điểm, nhưng ngoài ra là chấm hết, đại
chúng
chẳng hề biết đến ông. Khi được dịch ra tiếng Anh, ông được nồng nhiệt
chào
đón, nhất là ở Mẽo. Susan Sontag hê lớn, đây này, làm sao nói nhà
văn nhớn,
văn chương nhớn không còn nữa?
Nhưng với Mẽo, hay bất cứ 1 nước nào khác, cái chuyện ông ghẻ lạnh với
đời,
với đất mẹ, và với chính ông, thì không có gì là ghê gớm: ông là một di
dân viết
về di dân, vậy thôi.
Liệu có thể coi ông là nhà văn Đức? Cũng khó
nói. Thứ tiếng Đức mà ông
sử dụng
có vẻ kỳ kỳ so với đám nhà văn Đức chính cống.
Ông là nhà văn Anh? "Tôi sống ở Anh trên 30 năm nhưng vẫn chẳng cảm
thấy
ít ra đây là nhà của mình".
Có vẻ như ông chẳng có nhà, cả ở trong đời
thực, lẫn trong tác phẩm.
The Permanent Exile of W.G. Sebald
On 14 December 2001, German novelist Winfried
Georg Sebald, who had spent the greater part of his life as an emigrant
in England,
died
in a car crash. Observers of that year’s Christmas festivities in
Sebald’s
native country couldn’t help noticing that the writer’s death had come,
at
least for the German publishing industry, as something of a Christmas
gift.
Every last book store’s Christmas decoration featured Sebald’s works.
The
literary press unequivocally named Sebald author of the year. A friend
told me
that his father, a middle-aged German physician, had received four, and
given
away three, Sebald novels as Christmas presents.
And yet, in spite of Sebald’s sudden
celebrity,
his tragic death could by no means be called that of a celebrated
German
author. Even though he had stuck to his native language throughout his
entire
career as a writer, Sebald had always remained peculiarly absent from Germany’s
literary world. Spatially removed – he had been living in Norwich for more
than thirty years when he
died – Sebald had led a rather secluded life, and had shown little
inclination
to participate in any kind of literary scene, let alone the German one.
This reluctance on the part of Sebald, the
person, to promote the books of Sebald, the author, resulted in a
peculiar
situation. In Germany,
his books were initially well reviewed, but otherwise went largely
unnoticed.
When translated into English, however, his works quickly became
surprisingly
successful, especially in the USA,
where Susan Sontag went so far as to propose Sebald as a possible
answer to her
rhetorical question ‘Is literary greatness still possible?’. To the
German
public, Sebald’s success in the English-speaking world came as a bit of
a
mystery, as no one could quite imagine how his peculiar German style
could
possibly be translated into English – the slowness of it, its
longwinded
sentences, its abundance of archaisms, its overall reminiscence of the
nineteenth century.
Obviously the reception of Sebald’s work in
the
English-speaking world and in Germany
was fundamentally different. In the English translations, the
foreignness of
Sebald’s style seemed natural and self-evident – after all, Sebald was
an
emigrant writing about emigrants. In German, where his style felt no
less
outlandish – as it seemed to date from a bygone era – Sebald’s books
created a
kind of awkwardness, as readers were unsure whether to regard his way
of
writing as headstrong traditionalism or self-conscious anachronism.
Either way,
Sebald’s success in the Anglo-Saxon world did not go unnoticed in Germany:
in the
years before his death, his novels finally started to find their way
into the
book shops, and Sebald received the prestigious Heinrich Heine Award.
Was Sebald a German author? He wrote in
German,
but the use to which he put his native tongue was so different from any
contemporary form of the language that this can hardly count as a
criterion.
Was Sebald an English author? ‘I have lived here for thirty years,’ he
said
shortly before his death, ‘and yet I do not feel in the least at home
here.’ It
seems as if there was no such thing as a home country for Sebald
anymore, only,
as for the emigrants in his novels, the loss of home countries. It
seems as if
Sebald had emigrated, permanently, into his books. Thus it would be
wrong to interpret
the above quote in the sense that Sebald did not enjoy living in Norwich. He had
been a
teacher at the University of East Anglia for many years, was Founding
Director of
the British Centre for Literary Translation, and among his students and
colleagues,
Max – as Sebald called himself in England – is remembered
with
warmth.
His role as a teacher of Creative Writing
classes, it may be added, was another factor which estranged Sebald
from Germany’s
literary world, as such workshops are
a phenomenon largely unheard of and often frowned upon in Germany.
It was
chiefly with this background that I interviewed Sebald in 2000, about
his
experiences with teaching aspiring authors, and about his view of the
differences between England
and Germany.
A conversation which might help us, now, to understand a little bit
better
where this permanent emigrant saw himself.
Source
Linda
Lê, phải đọc những bài
viết của bà, khi giữ mục ‘Trở về với [những tác giả] cổ điển’. Mỗi bài
viết là
1 viên ngọc quí. Tinh thần viết của bà không trụ vào 1 nước, 1 ngôn
ngữ. Còn kinh nghiệm 'lưu vong' ở nơi bà, là của thứ nhà văn lớn, 1 quê
hương
không đủ
cho họ.
Nhà văn
Mít chưa hề có thứ
kinh nghiệm này.
Còn cái
gọi là chính trị, toàn
trị của bà, GNV sợ rằng, nó na ná của Steiner (1), khi tiếc hùi hụi,
phải
chi mình
có mặt ở Lò Thiêu!
Linda Lê rời xứ Mít năm 14 tuổi, bà cũng đã có tí ti
kinh
nghiệm về mấy ông VC toàn trị rồi!
Hà, hà!
Thú
thực, GNV không khoái đọc
Linda Lê, nhà sáng tác, nhưng quá mê nhà tiểu luận, nhà điểm sách, khi
bà còn giữ
mục của bà, trên tờ Le Magazine Littéraire.
(1)
Quê hương của một con người,
thì cũng chỉ là một mảnh không gian - có thể một căn phòng khách sạn,
hay băng
ghế nơi công viên gần nhất - nơi con mắt của nhân dân hay sự phiền hà
của một
chế độ thư lại, Đông cũng như Tây, vẫn còn cho phép một con người, và
tác phẩm
của người đó. Cây có rễ, người có chân để mà bỏ đi, sau khi lương tâm
của nó
nói: Không! Không có gì tởm hơn là chuyện sẵn sàng làm thịt kẻ khác,
nhân danh
quốc gia này, nọ, cờ đỏ, vàng. Chủ nghĩa quốc gia là nọc độc của lịch
sử hiện
đại.
[George Steiner: The Cleric
of Treason].
*
Linda Lê :
“J'aime que les livres soient des brasiers"
Bóng ma của một ông bố.
Tiểu sử:
3 tháng Chín, 1963: Sinh tại
Đà Lạt (Việt Nam).
Cha là kỹ sư. Ông chỉ nói tiếng Việt, ngược hẳn với bà mẹ của Linda Lê.
1968: Cuộc tổng tấn công Tết
Mậu Thân của Cộng Sản tại Miền Nam Việt Nam. Trên đường di tản, lần
đầu
tiên trong đời, Linda Lê nhìn thấy những xác chết ở bên đường.
1969. Gia đình định cư tại
Sài Gòn.
1975: Quân đội Bắc Việt tiến
vào Sài Gòn
1977. Linda Lê, mẹ, và ba chị
em của bà, rời Việt Nam
định cư tại Havre. Ông bố không có ý định rời bỏ đất nước, đã ở lại.
1981: Học lớp dự bị
(préparatoire) tại trung học Henri-IV.
Thập niên 80: Xuất bản hai
cuốn đầu tay, "những tiểu luận về tiếng nói" (des "essais de
voix"), mà sau đó bà chối bỏ (renier), một thứ "văn phong cứng nhắc
như bị nịt, quá mang tính ứng dụng", chúng không còn có trong thư mục
những cuốn sách của bà.
1992: Cuốn sách mặc khải của
bà, tiểu thuyết "Những phúc âm của tội ác", do nhà Juliard ấn hành.
1995. Ông bố, mà từ lâu, cả
hai vẫn thường xuyên liên lạc qua thư từ, tính làm một chuyến du lịch
Pháp.
Nhưng chết trước đó ít lâu. Linda trở về Việt Nam lo
việc an táng.
1995-1997: Linda Lê viết
"Les Trois Parques" (Ba vị nữ thần số mệnh), một thứ "huis
clos" (hộp kín), gồm mấy chị em, (hai chị em ruột, một chị em họ),
trong
khi chờ đợi ông bố. Ông này chết, ở cuối cuốn tiểu thuyết. Liền sau đó,
bà trải
qua một cơn khủng hoảng tưởng biến bà trở thành điên và câm. "Tôi có
cảm
tưởng sống trong những cơn ác mộng, trong đó, con người kêu la mà chẳng
có âm
thanh nào thoát ra khỏi cổ họng. Tôi có cảm giác như bị ai bóp họng,
nghẹt thở.
Lần đầu tiên, tôi có cảm tưởng rằng những con chữ cũng chẳng có thể
giúp đỡ gì
cho tôi."
1998: Viết trở lại. Xuất bản
"Tiếng Nói", nhà xb Christian Bourgois (từ năm 1993).
( L'Express số đề ngày 17
tháng Năm 2002)
Jennifer Tran chuyển ngữ
Trang Linda Lê
Văn
phong của Linda Lê, theo
GNV, làm nhớ tới Kertesz, qua bài viết Ngôn
Ngữ Lưu Vong, thứ ngôn ngữ không
trụ vào được một nơi chốn, một quốc gia...
Trong bài “J'aime que les livres
soient des brasiers" bà cũng
cho biết, tiếng Pháp gây khó cho bà,
[nhưng ngược lại, bà cũng gây khó cho nó theo tôi].
Khó
dịch LD lắm, nó đòi hỏi,
phải thật rành văn học thế giới. Phải có ám ảnh về lưu vong, về cái
chết, về tự
huỷ...
Nhân LD về VN, giới thiệu thêm
một bài viết của LD, về Melville, trên
Le Magazine Littéraire, số đặc biệt về Dos, Mars, 2010
Melville,
entre Neptune et Saturne
Titan mélancolique,
l'inventeur de Moby Dick et de Bartleby se disait un « plongeur de la
pensée ».
Un nouveau tôme de ses œuvres paraît dans La Pléiade.
Par
LINDA LÊ
«A quoi
bon fignoler ce qui,
de par son essence même, est d'aussi courte vie qu'un livre moderne.
Quand bien
même j'écrirais les Évangiles en ce siècle, je finirais dans le
ruisseau »,
confiait Herman Melville en juin 1851, pendant qu'il parachevait Moby
Dick, à
son ami Nathaniel Hawthorne, lequel voyait en lui, comme il le notait
dans son
journal, un homme résigné à être anéanti, incapable ni de croire ni
d'être à
l'aise dans son incroyance, aimant raisonner sur ce qui dépasse le
savoir
humain. Melville, écrivain populaire à ses débuts, ayant connu un
succès
flatteur avec Taipi et Omoo - récits
d'aventures polynésiennes
qui lui valurent, disait-il, une réputation abominable, car il risquait
de
passer à la postérité en tant qu'« homme qui a vécu parmi les
cannibales» -,
devint rapidement, dès qu'il se tourna vers le roman allégorique
saupoudré
d'ingrédients métaphyysiques, un« héros de la plume» impécunieux, en
butte à
une critique d'une froideur ou d'une hostilité désolantes, à l'origine
de la
mévente de ses livres.
Tôt descendu dans l'arène,
après la faillite puis la mort de son père, il avait été, tout jeune
encore,
employé de banque, avait travaillé à la ferme d'un de ses oncles, avant
de se
faire maître d'école, puis de s'engager comme mousse sur un navire
marchand en
partance pour Liverpool et, en 1840, à l'âge de 21 ans, de rejoindre
l'équipage
d'un baleinier, qu'il déserta en 1842 pour se retrouver chez les
cannibales. Ce
furent les plus longs voyages qu'il entreprit. De ces expéériences, il
tira la
matière de trois ouvrages, Taipi
(1846), Omoo (1847) et Redburn (1849).
Dès lors, ayant à peu
près cessé de rouler sa bosse, il s'installa dans une ferme de
Pittsfield, dans
le Massachusetts, mena une existence de terrien, tout en se voulant, de
manière
de plus en plus opiniâtre, un« plongeur de la pensée » et en composant,
après Redburn et La Vareusee Blanche,
récits maritimes dont il minimisa la portée en
les qualifiant de corvées accomplies à des fins lucratives, des romans
cyclopéens qui ne rencontrèrent que l'incompréhension ou
l'indifférence. À bout
de ressources, il envoya à des magazines américains des contes où,
selon
l'expression de Philippe Jaworski, le préfacier de l'édition de La
Pléiade, les
narrateurs sont les « greffiers de l'insolite, du merveilleux ou de
l'inquiétant ». Il fit
aussi un séjour en Orient et, à son retour, donna des conférences sur
les
thèmes les plus variés, essaya en vain d'obtenir un poste de consul,
alla vivre
à New York où, en 1866, il fut nommé inspecteur des douanes, emploi
qu'il
devait seulement quitter à la fin de 1885, ayant entre-temps mené à
bien des
poèmes, sans déroger, c'est-à-dire en s'en tenant à ce «quelque chose
d'intraitable» en lui qui le poussait à dynamiter les conventions.
Visionnaire au cerveau encyclopédique,
Protée ayant touujours soin d'innover, analyste clairvoyant des
contradictions
humaines (les géants de la littérature, disait-il, excellent à décrire
les
incohérences d'un caractère, puis à les débrouiller pour le vif plaisir
du
lecteur), liseur avide, pratiquant des classiques tels que Shakespeare,
Montaigne, Rabelais, Dante, mais aussi Fenimore Cooper, découvert dans
l'enfance, et Robert Burton, l'auteur de L’Anatomie
de la mélancolie, célébré dans l'adolescence (Melville n'avait pas
seulement une grande familiarité avec leurs œuvres, il en incorporait
la
substance même, comme il le fit avec les productions de Hawthorne),
prophète
doué d'un génie comique et d'un incomparable talent de conteur
tragique, Noé
accueillant dans son arche en papier des « hommes au rebut », voleur de
feu
dont la mission était de jeter à bas toutes les idées reçues, Melville
datait
de sa vingtième année son véritable développement mental: il rentrait
des mers
du Sud et décidait de se vouer corps et âme à l'écriture.« Nul ne peut
lire un
bel auteur et le savourer jusqu'aux os sans se faire ensuite une image
idéale
de l'homme et de son esprit. Et si vous cherchez bien, vous trouverez
presque
toujours que l'auteur vous a fourni quelque part son propre portrait »,
notait
Melville dans Hawtborne et ses mousses,
hommage rendu par un disciple à un maître. Où trouver, dans les
publications de
Melville, un reflet de lui-même? Chez le drôle d'individu en quête du
pays des
fées dans La Véranda? Chez l'ironiste
de cette merveille extravagante qu'est Moi
et ma cheminée? Chez l'inexplicable Bartleby, le scribe qui répond
à tout:
«Je préférerais pas », formule de résistance passive, refus de soi qui,
d'après
Blanchot, ne se crispe pas sur le refus, mais ouvre à la défaillance, à
la
perte d'être, à la pensée? Ou chez l'humble biographe d'Israël Potter
qui, d'un
livre dépenaillé, sauvé des mains des chiffonniers, fait une chronique
foisonnante de la vie d'un obscur combattant de la guerre
d'Indépendance '?
Gilles Deleuze faisait
observer que dans la littérature melvillienne se côtoient deux espèces
de
personnages: à un pôle, les monomaniaques ou les démons, tels le
luciférien
capitaine Achab dans Moby Dick ou le
satanique Claggart qui, dans le dernier récit de Melville, commencé en
1888 et
sans cesse remanié, Billy Budd,
marin, accuse injustement ce dernier d'être un intrigant et un
fomentateur de
sédition; à l'autre pôle, des anges ou des saints hypocondres: Bartleby
le
copiste, Billy Budd l'innocent condamné à être pendu à la grand-vergue,
Cereno,
l'un des protagonistes de Benito Cereno,
longue nouvelle sur l'esclavagisme et la philanthropie, qui permit à
Melville
de faire de la mer un théâtre, lieu d'affrontement. Un bateau est un
microcosme. C'est, dans Billy Budd,
fable christique inspirée d'un fait divers, un huis clos où un enfant
trouvé
bénit un père de substitution. C'est, dans Benito
Cereno, une cargaison d'esclaves mutinés face à un représenntant du
Nouveau
Monde et à celui du Vieux Continent. C'est, dans L'Escroc
à la confiance, une société composite aux prises avec un
filou qui, sous de multiples avatars, se fait passer pour un
cosmopolite et un
citoyen du monde, allant jusqu'à conclure avec un sceptique un accord
stipulant
qu'il lui rembourserait toute perte découlant de sa confiance en
l'humaanité.
Parue en 1857, cette« mascarade », cette farce plurivoque est sans
doute le
roman le plus déconcertant de Melville qui, à travers des discussions
portant
aussi bien sur Platon, Shakespeare, la métempsycose, la haine des
Indiens, que
sur la bonté, revient sur un motif tissé de livre en livre, la charité
ou la
suspecte bienveillance, tout en s'amusant à créer des originaux et à
dérouter
par ses« rapides coups de sonde jetés à l'axe même de la réalité ».
L'imposture, la folie, la trahison, la solitude et le silence,
l'orgueil et la
chute, les naufrages spirituels et les glorieuses ascensions, la
dépravation et
la nosstalgie de la pureté, sont au cœur des fictions prométhéennes de
Melville, aventurier de l'absolu qui s'est éternisé en étant à
l'avant-poste de
la modernité.
NOUVEAUTÉS
HERMAN MELVILLE
Œuvres, t.
IV, édition de Philippe Jaworski avec la collaboration de David
Lapoujade et
Hershel Parker, éd. Gallimard, « Bibliothèque de La Pléiade ",1424 p.,
55
€ jusqu'au 31 mai 2010.
Derniers poèmes,
édition d'Agnès Derail et Bruno Monfort, préface de Philippe Jaworski,
éd. Rue
d'Ulm, 220 p., 15 €.
LE
MAGAZINE LITTÉRAIRE MARS
2010
*
La frange crantée de linda le
ressemble à
un casque corinthien (1)
Dịch giùm, cau tren, thoi.
Tks
Khoe luon: Cung mong vay.
*
La
frange diềm, tua viền crantée cắt khấc, cắt nấc de linda le ressemble à
un
casque mũ cát corinthien xem hinh casque corinthien : http://qc.images.search.yahoo.com/search/images?p=casque+corinthien&toggle=1&cop=mss&ei=UTF-8&fr=yfp-t-716
Kho thiet – phai biet an du -
Chac
giong nhu cai mu casque co nhieu tang.
Vao google xem cai mu corinthien nhu the nao, casque thoi Trung co.
(1) Dịch… tạm:
Cái riềm cắt khấc
của Linda Lê thì giống như một cái mũ cát thời Trung Cổ.
Có vẻ như người phỏng vấn muốn
diễn tả mái tóc của Linda Lê, và từ đó, ra hình tượng, một nữ kỵ sĩ
thời Trung
Cổ, chăng?
Coi hình:

CASQUE CORINTHIEN NOIR ...
Linda Lê :
“J'aime que les livres soient des brasiers”
Le 22 août
2010 à 16h00
Tags :
Rentrée littéraire
Linda
Lê
LE FIL
LIVRES - A 14 ans, elle quittait le Vietnam pour la France. Deux
creusets qui
ont forgé tout à la fois son caractère paisible et son écriture
écorchée, sous
haute tension. “Quand j'écris, j'aime bien être sur le corde raide”,
explique
Linda Lê, dont le dernier roman, “Cronos”, vient de sortir. A 16h, elle
nous
offre un extrait du livre, lu par elle-même.
SUR LE MEME
THEME
La frange
crantée de Linda Lê ressemble à un casque corinthien : dégagée sur les
yeux et
plus longue sur le nez, elle camoufle, tout en laissant passer son
regard
acéré. Comme ses personnages aux noms singuliers, la Manchote (Les
Trois
Parques), Sola (In memoriam), Una (Cronos), Linda Lê marche en
solitaire,
secrète, farouchement indépendante. Née au Vietnam en 1963, elle s'est
exilée
au Havre, avec sa mère et ses sœurs, en 1977. Son premier roman, Un si
tendre
vampire, écrit en français à 23 ans, marque l'avènement d'une écriture
baroque
et crépusculaire qui n'a cessé de creuser son sillon depuis, nourrie
par la
lecture assidue d'innombrables cavaliers seuls de la littérature
mondiale, tels
Ingeborg Bachmann, Louis-René des Forêts, Kobo Abe ou Stig Dagerman.
Hommage à
son père disparu, Lettre morte (1999) reste son ouvrage le plus
écorché, le
plus ensorcelant. L'œuvre de Linda Lê a des allures de gigantesque
oraison
funèbre, dont chaque pièce semble être le reflet de l'autre. Avec son
nouveau
roman, Cronos, tragédie de la dictature, elle laisse aujourd'hui
éclater une
féroce sauvagerie. De cette violence longtemps contenue, rien ne
transparaît
dans sa voix si douce, si chuchotante.
En dehors de
vos romans, vous avez écrit plusieurs recueils critiques sur des
écrivains que
vous aimez, comme la poétesse russe Marina Tsvetaïeva. Pourquoi ces
livres
d'admiration ?
J'aime
énormément les textes d'hommage, parce qu'ils attisent l'appétit de
lecture et
créent des connivences. Je rêve de former une communauté de gens qui
auraient
du plaisir à me lire et qui seraient aussi invités à faire connaissance
avec
des auteurs que j'admire. J'aime partager les aphorismes de Georges
Perros ou
la poésie disloquée du poète roumain Gherasim Luca. Aussi divers que
soient ces
auteurs, ils forment ma patrie d'élection. C'est une géographie mentale
qui me
définit. J'espère toujours que les lecteurs reconnaîtront aussi des
frères en
littérature en eux.
Comment ces
auteurs se manifestent-ils à vous ?
Je crois que
la force de certains écrivains, c'est qu'ils surgissent à la mémoire
dans les
situations de la vie quotidienne. Cioran disait que le meilleur livre
est «
l'ami des heures difficiles ». Pour moi, beaucoup d'écrivains ont été
les amis
des heures difficiles. Je pense notamment à Robert Walser, avec sa
nonchalance
et son impassibilité, malgré tous les revers qu'il a subis. J'ai une
certaine
prédilection pour les auteurs qu'on dit désespérés. Je trouve leur
noirceur
très tonique, et je puise chez eux mon énergie de tous les jours, même
quand je
ne les lis pas. Parfois, dans la rue, je me dis que tel passant
pourrait être
Robert Walser, tel autre me fait penser à un héros dostoïevskien. J'ai
l'impression que la littérature m'aide à tisser des liens avec mes
semblables.
J'ai été longtemps d'une très grande timidité. C'est à travers les
livres que
je me suis un peu ouverte au monde.
“Dès
l'enfance, j'ai développé une gourmandise pour tout ce
qui me semblait colossal, démesuré.”
Vous avez
passé votre enfance dans votre pays natal, le Vietnam. Que représentait
la
littérature pour vous ?
Je me suis
toujours sentie très étrangère au Vietnam, de par mes études en
français, et
mon comportement, souvent en retrait. Mes sœurs et moi ne ressemblions
pas du
tout aux enfants de là-bas. Ce profond sentiment d'isolement m'a
incitée très
tôt à m'évader à travers les livres. Dès l'enfance, j'ai développé une
gourmandise pour tout ce qui était très loin de moi, pour tout ce qui
me
semblait colossal, démesuré.
Par exemple
?
Les œuvres
de Victor Hugo, titanesques pour moi ! J'ai gardé un peu le goût de
cette
démesure, que j'ai cherchée par la suite à travers le démiurge tchèque
Ladislas
Klima, d'un tempérament explosif. Là encore, c'est tout le contraire de
moi,
qui suis d'un caractère très paisible, avec toutefois des moments de
grande
tension.
Ecrivez-vous
pour briser cette tension ou pour l'entretenir ?
Je
l'entretiens. Quand j'écris, j'aime bien être sur la corde raide,
toujours. Si
parfois je ne suis pas satisfaite et si je remanie certaines versions
de mes
livres, c'est justement quand j'ai l'impression de n'avoir pas été
traversée
par ce courant de haute tension.
D'où vient
cette tension ?
J'ai
toujours l'impression que la langue française représente quelque chose
de trop
difficile si je n'essaie pas d'abord de chercher ma propre écriture.
Ecrire est
donc souvent une épreuve. Je reste parfois des heures, parce que je
vois qu'un
mot ne convient pas du tout... Jusqu'à ce que j'aille faire une
promenade où je
peste contre moi-même, et que je finisse par trouver. J'ai souvent
remarqué que
c'est en déambulant que je trouve les idées les plus lumineuses. Dans
le
mouvement... Tandis que quand je m'acharne et que je reste à ma table,
rien ne
vient. Il faut que je marche à grandes enjambées, sans rien voir, tout
à mes
pensées...
“Je me dis
toujours qu'il faut qu'un texte ‘phosphorise’.
C'est un mot que j'aime bien.”
Votre
écriture est totalement atypique. Ce n'est pas une écriture qui coule,
c'est
une écriture faite d'incrustations, de reliefs, d'allitérations. Cela
donne une
impression de sifflements, de morsures... Comment s'est constituée
votre langue
?
Par un doux
mélange. Enfant, je parlais vietnamien avec mon père, et français avec
ma mère.
Entre sœurs, nous parlions un mélange de vietnamien et de français.
Maintenant,
nous ne parlons que français. Cela fait très longtemps que je n'ai pas
parlé
vietnamien. Il ne me reste que des bribes, qui remontent de temps en
temps et
qui sonnent d'une manière étrange.
Les phrases
de vos romans sonnent elles aussi d'une manière étrange. Vous aimez les
mots
rares, les assemblements inhabituels...
Je me dis
toujours qu'il faut qu'un texte « phosphorise ». C'est un mot que
j'aime bien.
J'essaie toujours de tendre vers cela, mais sans effort, sans que ce
soit un
exercice. J'aime l'incandescence des mots, que les livres soient des
brasiers.
J'ai écrit mon roman Lettre morte presque dans un état de combustion.
Votre
nouveau livre, Cronos, décrit les rouages d'une dictature atroce. C'est
le plus
violent de vos romans...
Etrangement,
certains livres ont été violents pour moi quand je les écrivais, mais
pas
celui-ci. Je l'ai tissé avec une patience de Pénélope, tranquillement,
jour
après jour, en me sentant plus perspicace que d'ordinaire. Ma surprise,
c'est
que j'ai changé de vocabulaire, avec des personnages qui utilisent un
registre
très familier, presque trivial. J'ai eu un grand plaisir à faire parler
le
ministre de l'Intérieur, à trouver les paroles qui disent toute la
vulgarité du
personnage, sans jamais la décrire.
“Je ne suis
pas retournée au Vietnam depuis dix ans...”
On reconnaît
quelques figures historiques dans le personnage du dictateur, comme
Hitler en
Allemagne, ou Ne Win en Birmanie... Quelles ont été vos sources
d'inspiration ?
Il y a des
influences souterraines dans l'atmosphère générale de pression et de
menace :
le film Rome ville ouverte, de Roberto Rossellini, et certaines pièces
d'Edward
Bond. Et il y a des réminiscences personnelles de ce que peut être un
climat où
règnent la suspicion et la délation, où les livres doivent être dans la
ligne
du parti. J'ai vécu deux années sous un régime assez dur, après la
chute de
Saigon, entre 1975 et 1977, avant de partir définitivement pour la
France.
J'avais 12 ans. Bien entendu je ne me rendais pas compte de tout, mais
je voyais
bien que l'atmosphère changeait. Mon père avait perdu son emploi. Il
travaillait comme ingénieur, et il est devenu peintre d'enseignes.
Beaucoup de
gens commençaient à fuir. Des intellectuels accusés de droitisme
étaient
envoyés dans des camps de rééducation. Et, surtout, la famine menaçait,
à cause
de l'embargo. Le pays était coupé du monde. Je crois que, depuis, le
régime
s'est libéralisé. A quel point ? Je l'ignore, puisque les dissidents
continuent
d'être emprisonnés. Je ne suis pas retournée au Vietnam depuis dix
ans...
Vous venez
d'obtenir la bourse Cioran pour un projet de livre sur les apatrides...
J'ai
seulement commencé à l'écrire. Ce sera une réflexion sur l'altérité,
sur ce
qu'il reste de l'humanisme. Je voudrais revenir sur certaines figures
qui me
sont chères, comme Marina Tsvetaïeva, et parler d'écrivains plus
méconnus,
comme le poète roumain Benjamin Fondane, qui a beaucoup écrit en
français. Tous
deux ont été victimes de totalitarismes. Après avoir connu l'exil, ils
ont eu
une fin tragique. Tsvetaïeva s'est suicidée à son retour en URSS, après
quatorze ans d'exil en France, et Benjamin Fondane est mort à
Auschwitz... Dans
ce livre, je parlerai aussi de certains écrivains qui ont été des
émigrés à
l'intérieur. Des romanciers comme Thomas Bernhard, qui ont dénoncé les
tares de
leur propre pays, qui ne se sentaient pas du tout au diapason de leurs
compatriotes. Ce sera un hommage à tous ceux qui ont pu s'approprier le
mot du
poète breton Armand Robin : « Je serai pour toute terre un étrange
étranger. »
Ce sont des paroles fortes qui m'ont toujours accompagnée.
“Je suis
très inquiète de voir la résurgence d'un
nationalisme exacerbé en Europe.”
Comment vous
sentez-vous dans la France d'aujourd'hui ?
Je me sens
presque toujours en exil. Je crois que même si je vis en France depuis
longtemps je ne me suis jamais dit : là est mon pays. Mais je ne me dis
pas non
plus que le Vietnam est mon pays. Je porte à la langue française un
amour
profond. C'est mon seul point d'ancrage dans une réalité que je
continue de
trouver très violente. Je suis très inquiète de voir la résurgence d'un
nationalisme exacerbé en Europe. J'ai l'impression que l'Europe est
devenue de
plus en plus frileuse et de plus en plus intolérante. Peut-être que
nous sommes
dans une époque de paix apparente, mais il y a des conflits
sous-jacents près
d'exploser, et je vis dans la crainte d'une conflagration.
Dans Cronos,
vous lancez un appel à la résistance. Quelle forme peut-elle prendre
aujourd'hui, selon vous ?
J'ai
toujours un sentiment d'accablement et de révolte quand je suis les
événements.
Je me sens parfois presque terrassée. A tel point que parfois je ne lis
plus
les journaux, je n'écoute plus la radio. Comme l'héroïne de Cronos,
j'ai
parfois la tentation du déni. Comme elle, je me dis que je ne suis
qu'une
ferrailleuse de la plume. Je ne peux me battre qu'en écrivant.
Peut-être qu'un
jour les événements m'obligeront à agir autrement. Mais, pour
l'instant, dans
la société dans laquelle je vis, ma seule arme reste l'écriture.
Au risque de
ne pas être pas entendue...
J'écris
toujours avec le sentiment que je peux prêcher dans le désert. Mais
cela ne
m'abat pas. Au contraire. D'une certaine manière, peut-être que c'est
tant
mieux. Il ne faut pas se sentir sans cesse approuvé. Sinon, on se
laisse aller
à une sorte de confort. Il faut coûte que coûte parvenir à ne pas
s'abolir ni à
être dans le ressentiment. Le sentiment de confort et la rancœur sont
les deux
grands récifs entre lesquels j'essaie de naviguer.
“La
littérature n'est peut-être jamais aussi intéressante que lorsqu'elle
se penche
sur l'envoûtement.”
Vos livres
parlent souvent d'emprise...
Ce thème m'a
toujours hantée. Il y a beaucoup de cela dans les romans de Henry
James, où des
femmes tombent sous l'emprise d'hommes assez pervers. La littérature
n'est
peut-être jamais aussi intéressante que lorsqu'elle se penche sur
l'envoûtement. J'aime les personnages de proie. Moi-même ayant subi
l'emprise
magnétique et négative de certaines personnes dans ma vie, je me suis
toujours
intéressée à cela.
Votre œuvre
est aussi hantée par le thème de la dualité...
Oui, je me
sens très duelle, même plurielle souvent, et la plupart du temps
habitée par
des fantômes. Au fur et à mesure que je mène à bien des livres, je me
sens
enrichie par l'évocation de personnages qui, grâce à ce que j'écris,
sortent un
peu de l'ombre. Au premier rang, il y a mon père, à qui j'ai toujours
tenu à
rendre hommage. Il voulait être peintre, et il a renoncé à son ambition
en
ayant une famille. Il a été un modèle, et mes soeurs plaisantaient
toujours en
disant que j'étais son disciple. Quand je suis arrivée en France et que
je lui
écrivais, alors qu'il était resté au Vietnam, il me disait qu'il
croyait
beaucoup en moi, qu'il ne savait pas ce que j'allais pouvoir faire,
mais qu'il
fallait que je tente quelque chose qui le surprenne. C'est lui qui m'a
incitée
à devenir écrivain.
Quand
l'héroïne de Cronos parle de la déchéance de son père, elle dit : «
Autrefois,
c'était lui qui détenait les clés du savoir, désormais, j'ai charge
d'âme. »
Avez-vous l'impression d'avoir charge d'âme vous aussi ?
C'est
peut-être un peu présomptueux, mais je me sens cette mission de
recueillir les
vies naufragées, même si mon embarcation n'est pas toujours sûre.
J'espère
toujours faire revivre des individus que j'ai croisés sur ma route et
qui ont
eu une influence sur moi. Etre auteur, c'est se faire le porte-parole
de ceux
qui ne sont plus là. J'ai l'obligation morale de rendre hommage à ceux
qui ont
été des soutiens pendant toute mon existence. Cela va des auteurs que
j'ai lus
à mes amis les plus proches. Par exemple, dans mon dernier essai, Au
fond de
l'inconnu pour trouver du nouveau, j'ai tenu à saluer mon éditeur,
Christian
Bourgois, qui a été comme un mentor pour moi. Depuis sa mort, quand je
viens
aux éditions Bourgois, j'ai toujours une pensée très forte pour lui. Je
date ma
naissance littéraire du moment où je l'ai rencontré. Il m'a fait naître
à
moi-même. Il m'a protégée aussi.
“Peut-être
faut-il parfois connaître les gouffres
pour trouver ne serait-ce qu'un peu de
lumière...”
Protégée
contre quel danger ?
Contre
moi-même ! Il a attendu avec patience quand j'avais la raison un peu
chancelante, et que j'avais du mal à appréhender la réalité. Sa femme,
Dominique, et lui ont été d'un grand soutien.
Quelle trace
cette période de « raison chancelante » a-t-elle laissée en vous ?
Les moments
où l'on tombe dans un puits sans fond sont assez stériles. Il n'en sort
rien,
si ce n'est une suspicion à l'égard du monde, qui fait qu'on ne peut ni
agir ni
réfléchir posément. J'ai vécu ces périodes où j'étais d'une grande
fragilité
comme des moments où je perdais toute notion de ce qu'est la vie
réelle. Est-ce
que cela m'a apporté quelque chose ? Je ne le crois pas. C'est survenu
sans que
je m'en rende compte, et j'ai été incapable de produire quoi que ce
soit.
Peut-être faut-il parfois connaître les gouffres pour trouver ne
serait-ce
qu'un peu de lumière... C'est seulement quand la raison a pris le
dessus que
j'ai pu écrire de nouveau. Ces instants de souffrance étaient peut-être
liés à
une trop grande tension. J'étais dans une exaltation maladive. J'ai
toujours la
crainte de voir ressurgir ces épisodes, parce que ce sont des heures où
je n'ai
plus la maîtrise de moi-même. Or je tiens pour essentiel le fait d'être
maître
de soi et d'écrire toujours avec clarté, en étant sûre de ce qu'on
avance.
Propos
recueillis par Marine Landrot
Télérama n°
3162
“Cronos”.
Ed. Christian Bourgois, 164 p., 16
EUR.
Tôi thích những cuốn sách phải là những lò
lửa cháy rực
14 tuổi, rời
VN qua Pháp. Hai lò cừ này tạo ra cùng lúc một tính cách hiền hòa và
một lối viết
đau thương - giống như một con thú bị lột da - và căng thẳng, như dưới
luồng điện
cao thế.
“Khi tôi viết
tôi muốn như một người đi trên dây”. Linda Lê giải thích. Cronos, là
cuốn sách
mới nhất của bà, nhà xb Christian Bourgois, 164 trang, 16 Euro.
Vẫn trên
cùng đề tài.
Như những
nhân vật với những cái tên đặc thù, Nữ Độc Thủ [La Manchote, trong Les
Trois
Pâques], Sola [trong Tưởng nhớ,
In Memoriam], Una [Cronos]
của bà,
Linda Lê bước
đi, trong cô đơn, lặng lẽ, tự mình làm chủ mình, độc lập một cách thật
dữ dằn,
tàn khốc. Cuốn tiểu thuyết đầu tay, Một
con ma cà rồng thật dịu dàng, được viết bằng tiếng Pháp vào năm 23
tuổi, đánh
dấu sự thành tựu của một lối viết baroque [kỳ dị], u ám, ảm đạm, và, kể
từ đó, luống
cầy do lối viết tạo ra ngày một sâu thêm, nhờ được nuôi dưỡng bằng một
sự đọc bền
bỉ, cần cù, không làm sao đếm được, những tác phẩm của những bậc kỵ sĩ
độc hành
của văn chương thế giới, như Ingeborg Bachmann, Louis-René des Forêts,
Kobo Abe
hay Stig Dagerman.
Được viết để
tưởng nhớ người cha đã mất, Thư Chết [1999], cho tới
nay vẫn luôn luôn là một tác phẩm trần trụi, như bị lột da, lóc vẩy,
và cũng thật mê hoặc, đòn phép, giống như lời bùa chú của một vị nữ phù
thuỷ. Tác
phẩm của Linda Lê là một lời ai điếu khổng lồ, quá khổ, và mỗi tác phẩm
thì như
là một phản chiếu của một tác phẩm kia, khác. Với cuốn mới nhất, Cronos, một bi
kịch về độc tài, là một sự hoang dã dữ dằn, bật ra từ đó. Và cũng thật
khó mà nhận
ra, hay tìm thấy, cái giọng nói dịu dàng, thầm thì của bà ở trong sự
hung bạo
bao lâu nay bị kiềm chế này.
Ngoài những cuốn tiểu thuyết, bà còn viết
nhiều tuyển tập tiểu luận phê
bình, về những nhà văn mà bà mến phục, như nữ thi sĩ người Nga, Marina
Tsvetaïeva. Tại sao những cuốn sách của sự mến phục đó?
Tôi cực
kỳ yêu mến những
bản văn của sự vinh danh, tưởng nhớ,
bởi vì chúng khơi lên sự thèm đọc, và tạo những thông đồng. Tôi mơ
thành lập
một cộng đồng gồm những người thích đọc tôi, họ sẽ được mời gặp, và làm
quen với
những tác giả mà tôi mến mộ. Tôi thích được chia sẻ những châm ngôn của
Georges
Perros hay giọng thơ rã rời của nhà thơ Rumani, Gherasim Luca. Thật đa
dạng, nhưng
họ tạo nên một tổ quốc, một xứ sở của sự tuyển chọn. Một thứ địa dư
tinh thần định
nghĩa tôi, nói cho mọi người biết, tôi là ai. Tôi thật tình mong, những
độc giả,
đến lượt họ, cũng sẽ nhận ra những đồng điệu văn nhân, ở trong họ.
Làm thế nào họ… ‘tới’
với bà?
Tôi
cho rằng, sức
mạnh của một số nhà văn, là khi họ bật ra từ hồi ức, ngay trong cuộc
sống thường
nhật, vào những hoàn cảnh nào đó của nó. Cioran nói cuốn sách bảnh
nhất, là ‘người
bạn vào lúc khốn khó’. Với tôi, rất nhiều nhà văn là những bạn quí vào
những lúc
khốn khó như thế! Tôi đặc biệt nghĩ đến ông bạn quí Robert Walser, với
cái vóc
dáng dửng dưng, lừng lững, bất cần đời, mặc dù bị đời choảng cho nhiều
vố thật đích
đáng. Tôi thường dành cặp mắt xanh của
mình
cho những tác giả mà người đời gọi là tuyệt vọng. Tôi nhận ra trong cái
vẻ âm u
của họ một âm điệu rất âm u, và tôi thường múc ra từ những âm u đó của
họ, những
sức sống, nghị lực cho riêng tôi, trong tất cả những ngày tháng ở trên
đời,
ngay cả những ngày tôi không đọc họ. Nhiều khi, đang lang thang
trên đường
phố, nhìn một đấng bộ hành đi qua, và thế là tôi bèn nghĩ, ông này có
thể là... Robert
Walser. Một ông khác thì lại khiến tôi nghĩ đến một nhân vật của Dos.
Tôi có cảm
tưởng văn chương đan dệt tôi vào với đồng loại, với những liên hệ mang
tính nhân
loại, tình người. Tôi vốn từ lâu là một con bé thật nhút nhát. Nhờ
những cuốn sách
mà tôi hé mở lòng mình ra trước cuộc đời.
Tuổi thơ
của bà trải qua tại
quê hương của bà, là Việt Nam.
Văn chương là thế nào đối với bà, khi đó?
Tôi luôn luôn cảm thấy rất xa
lạ đối với Việt Nam,
do sự học hành trong tiếng Pháp, do cung cách, cách ứng xử của tôi,
luôn luôn
dụt dè, thụt lui. Chị em tôi, và tôi hoàn hoàn không giống những đứa
trẻ ở đó.
Chính là cái cảm giác cô đơn, cách biệt thật xâu sa đó đã khiến tôi bỏ
chạy,
vượt thoát, thật sớm sủa, qua những cuốn sách. Ngay từ khi còn nhỏ, tôi
đã phát
triển một thứ ham muốn, đói thèm đối với tất cả những gì ở cách xa tôi,
những
gì có vẻ thật khổng lồ, quá khổ đối với tôi.
Thí dụ?
Những tác phẩm của Victor
Hugo, khổng lồ đối với tôi! Từ mê mẩn vóc dáng khổng lồ ở nơi Hugo, tôi
mò qua
tính khí bạo phát, nổ như tạc đạn, ở nơi thiên tài sáng tạo người
tchèque,
Ladislas Klima. Với ông này, cũng lại là một sự trái ngược hẳn với con
người
của tôi, vốn rất ư dịu dàng, đôi khi vẫn có những khoảnh khắc căng
thẳng cao
độ.
Bà viết để bẻ gẫy, triệt
tiêu
sự căng thẳng, hay là để duy trì nó?
Duy trì chứ. Khi viết, tôi muốn
như đi trên một sợi dây căng thẳng, luôn luôn là vậy. Nếu đôi khi tôi
không hài
lòng và nếu tôi sửa đổi một số bản văn của những cuốn sách của tôi, thì
chính là
vì, vào những lúc đó, tôi không vượt qua được dòng điện cao thế, thì cứ
nói như
vậy.
Sợi dây căng thẳng, dòng
điện
cao thế, ở đâu ra vậy?
Tôi luôn có cảm tưởng là tiếng
Pháp gây khó cho tôi, nếu tôi không cố kiếm cho bằng được, cách viết
của riêng tôi. Viết
như thế, thường xuyên là một sự thử thách. Có khi tôi ngồi hàng giờ
đồng hồ, chẳng
kiếm ra, dù chỉ một từ vừa ý… và sau cùng bỏ đi lang thang, nổi quạo
với chính
mình, cho đến khi tìm ra ra từ. Tôi nhận ra chính là trong khi tản bộ
như
thế mà tôi tìm ra những ý nghĩ sáng ngời, trong chuyển động… Trong khi,
nếu cứ
ngồi lỳ ở bàn, vô phương. Tôi cần phải bước những bước lớn, chẳng thèm
nhìn
chung quanh, chẳng cần nhìn thấy gì, xoáy vào những ý nghĩ của mình.
Tôi luôn
luôn tự nhủ mình, phải là một bản văn phát hào quang, ‘phát sáng’, đó
là từ một
tôi thật mê.
Cách viết của bà chẳng giống
ai, chẳng thuộc về 1 típ nào cả. Không phải một cách viết trôi, chảy,
mà được làm bởi những khảm khắc, những chạm nổi, những
cú láy. Nó gây cảm tưởng về những cú rít, huýt, cắn, xé, ngoạm…. Ngôn
ngữ của bà
đã được cấu tạo như thế nào?
Nó được tạo nên bằng một sự
trộn lẫn dịu dàng. Khi còn con nít, tôi nói tiếng Việt với cha tôi,
tiếng Pháp
với mẹ tôi. Giữa chị em, chúng tôi nói với nhau bằng 1 thứ tiếng pha
trộn giữa
tiếng Việt và tiếng Pháp. Bây giờ chúng tôi chỉ nói tiếng Pháp. Đã lâu
lắm rồi,
tôi không nói tiếng Việt nữa. Thứ tiếng đó chỉ còn lại trong tôi, như
là những mẩu,
mảnh, lâu lâu lại thốt ra, nghe thật kỳ
cục.
Câu
kệ trong tiểu thuyết
của bà đọc nghe lạ tai. Bà thích những từ hiếm, những sắp xếp khác
thường…
Tôi
luôn luôn tự bảo mình, phải là một bản văn ‘phát quang’, giống như lân
tinh. Đó
là từ tôi thích. Tôi luôn hướng tới đó, nhưng không muốn để lộ ra sự cố
gắng,
không coi đây là một kiểu bài tập. Tôi mê tính phát quang của những từ,
và những
cuốn sách phải như là những lò lửa. Tôi đã viết Thư Chết gần
như trong trạng
thái cháy bừng bừng như thế đó.
Cuốn
sách mới của bà, Cronos,
miêu tả sự vận hành, guồng máy của một chế độ độc tài tàn khốc. Đây là
cuốn tiểu
thuyết dữ dằn, khốc liệt nhất của bà…
Lạ
lùng thay, một vài cuốn thật dữ dằn, thật hung bạo đối với tôi, trong
lúc tôi
viết chúng, nhưng cuốn này thì không. Tôi dệt nó với sự kiên nhẫn của
Pénélope,
chậm rãi, êm ả, ngày này qua ngày khác, cảm thấy mình sáng suốt hơn
thường lệ.
Tôi ngạc nhiên vì thấy mình thay đổi từ ngữ, với những nhân vật sử dụng
một từ
biểu rất quen thuộc, phải nói là tục tĩu. Tôi thật thú vị khi để nhân
vật là viên
Bộ trưởng Nội vụ phải nói, tìm cho ông ta những từ ngữ nói lên tất cả
sự suồng
sã, dung tục, mà lại không hề phải miêu tả điều này.
Người
ta nhận ra một vài
khuôn mặt lịch sử trong nhân vật độc tài, như Hitler ở Đức, hay Ne Win
ở Miến Điện…
Bà lấy nguồn cảm hứng ở đâu vậy?
Có
những ảnh hưởng ngầm trong không khí chung của sự đàn áp, và đe dọa:
cuốn phim Rome,
thành phố mở cửa của Roberto Rossellini, một vài vở kịch của Edward Bond. Và có những hồi tưởng cá nhân về điều có
thể
coi như là khí hậu, ở trong đó bầy ra sự nghi kỵ và tố giác, khi những
cuốn sách
phải ở lề phải, phải theo đúng đường hướng của Đảng. Tôi đã sống hai
năm dưới một
chế độ tàn nhẫn, sau khi Sài Gòn thất thủ, từ 1975 tới 1977, trước khi
bỏ đi Pháp
vĩnh viễn. Tôi lúc đó 12 tuổi. Lẽ dĩ nhiên tôi làm sao nhớ đầy đủ, biết
tất cả,
nhưng tôi biết thật rõ là không khí thay đổi. Cha tôi mất việc làm. Ông
là một
kỹ sư, và ông trở thành một tên sơn vẽ bảng hiệu. Rất nhiều người bỏ
chạy. Những
trí thức bị buộc tội hữu phái thì bị đầy đi trại cải tạo. Và trên tất
cả, nạn đói
đe dọa, do cấm vận. Xứ sở bị cắt ra khỏi thế giới. Tôi nghĩ là đã có
thay đổi,
chế độ có vẻ thoáng hơn. Tới điểm nào? Tôi không biết, bởi vì những
người ly
khai vẫn tiếp tục bị bỏ tù. Đã 10 năm tôi chưa trở về lại Việt Nam…
Bà vừa được học
bổng Cioran cho một dự án viết sách về những người vô tổ quốc…
Tôi chỉ mới bắt
đầu viết. Và sẽ là một suy tưởng về sự khác biệt, về cái còn lại của chủ nghĩa nhân bản.
(1) Tôi muốn trở lại với một số
khuôn mặt thật thân quí đối với tôi, như Marina Tsvetaïeva, và nói tới
những nhà
văn ít được biết tới, như Benjamin Fondane,
một
người viết bằng tiếng Pháp. Cả hai đều là nạn nhân của những chế độ
toàn
trị. Sau khi biết lưu vong, họ có một kết thúc bi thảm. Tsvetaïeva tự tử khi trở về lại Liên Xô,
sau 14 năm lưu vong tại
Pháp, và Benjamin Fondane thì chết
tại Auschwitz… Trong cuốn sách này
tôi còn nói tới một
số nhà văn, là những di dân nội xứ. Những tiểu thuyết gia như Thomas Bernhard người đã tố cáo những
tì vết của xứ
sở của chính họ và chẳng cảm thấy đồng điệu gì với đồng bào của mình.
Sẽ là một
sự kính trọng, tỏ lòng biết ơn, gửi tới tất cả những người rất chịu câu
của nhà
thơ vùng Bretagne,
Armand Robin: “Với mọi
mảnh đất, thì ta vẫn sẽ
chỉ là một kẻ xa lạ”.
Đúng là những lời dữ dằn, ác liệt luôn rong ruổi cùng với
tôi.
Bà
cảm thấy thế nào khi sống
tại nước Pháp
hiện nay?
Tôi gần như luôn luôn cảm thấy
mình sống
trong tình trạng lưu vong. Tôi tin rằng mặc dù sống ở Pháp đã lâu vậy
mà tôi
chưa bao giờ nói: đây là xứ sở của tôi. Nhưng tôi cũng không nói Việt Nam là
xứ sở của
tôi. Tôi coi tiếng Pháp là tình yêu sâu đậm của mình. Đó là cái neo độc
nhất
cắm vào thực tại mà tôi luôn thấy, thật hung bạo, Tôi rất lo ngại về sự
bùng
phát của một thứ chủ nghĩa quốc gia dữ dằn ở Âu Châu. Tôi có cảm tưởng
Âu Châu
ngày càng trở nên lạnh nhạt, và càng ngày càng bớt bao dung. Có lẽ
chúng ta
đang ở trong một thời hòa bình chỉ ở ngoài mặt, có vẻ như hòa bình,
những cuộc
xung đột ngầm chỉ chờ dịp để bùng nổ, tôi sống trong sợ hãi một cú bộc
phát
lớn.
Trong Cronos, bà đưa ra một lời
kêu gọi,
về một sự phản kháng. Phản kháng như thế nào, theo một hình thức nào,
vào lúc
này, theo bà?
Đó là thứ tình cảm bực tức,
muốn làm một
cái gì đó, muốn nổi loạn, khi tôi theo dõi những biến động, Đôi khi tôi
cảm
thấy gần như ở trong tình trạng bị chúng trấn áp đến nghẹt thở. Tới mức
có lúc
tôi ngưng không đọc báo hàng ngày, không nghe tin tức trên đài nữa. Như
nữ nhân
vật Cronos, tôi thỉnh thoảng ở trong tình trạng cảm thấy mình bị cự
tuyệt, bị
sự chối từ cám dỗ…. Như nữ nhân vật này, tôi chỉ có thể chiến đấu bằng
ngòi bút.
Có thể 1 ngày nào đó những biến động bắt buộc tôi phải hành động khác
đi. Nhưng
vào lúc này, trong xã hội mà tôi sống trong đó, khí giới độc nhất của
tôi là viết.
Dù có thể chẳng được hồi đáp
Tôi luôn viết với thứ tình cảm
là tôi có
thể giảng đạo ở giữa sa mạc. Nhưng điều đó không đánh gục tôi. Ngược
lại. Một cách
nào đó, vậy mà lại hay. Đừng bao giờ cảm thấy mình viết ra là được chấp
nhận. Nếu
không bạn sẽ bị ru ngủ bởi sự hài lòng, thoải mái. Bằng mọi cách, cố mà
đừng để
xẩy ra tình trạng tự hoang phế, hay thương thân trách phận. Tình cảm
hài lòng,
và oán hận là hai tảng đá ngầm lớn mà tôi cố gắng tránh né.
Những cuốn sách của bà hay nói tới đề tài
bị bỏ bùa…
Đề tài này luôn ám ảnh tôi. Nó
đầy rẫy ở
trong những tiểu thuyết của Henry James, trong có những phụ nữ bị mồi
chài bởi
những tên sở khanh. Văn chương tuyệt vời nhất là khi nó mê hoặc, quyến
rũ. Tôi
mê những nhân vật giống như là một cái mồi, sẵn sàng phơi mình ra để mà
được… làm
thịt. Bản thân tôi, cũng đã từng bị mê hoặc, hết còn chủ động được,
trước một vài
người, trong đời tôi, và tôi luôn quan tâm tới điều này.
Tác phẩm của bà
còn bị ám ảnh bởi đề tài nhị phân, hai mặt...
Đúng thế. Tôi cảm
thấy mình rất hai mặt, và hơn thế nữa, đa mặt, đa thân; những hồn ma
luôn trú
ngụ ở nơi tôi, và theo với đà viết, có được những cuốn sách, cùng lúc,
tôi cảm
thấy mình giầu có thêm lên, như thể tôi gọi dậy được những hồn ma, và
họ nhập
thân vào những nhân vật của tôi, nhờ tôi viết, mà những hồn ma ló dạng.
Trước
tiên là cha tôi, một người mà tôi luôn mong muốn thể hiện lòng kính
trọng. Ông đã
từng muốn là một họa sĩ, và đã từ bỏ tham vọng khi có một gia đình. Ông
là một khuôn
mẫu, và mấy bà chị cô em của tôi luôn nói đùa, tôi là đệ tử của ông.
Khi tôi tới
Pháp định cư, tôi viết thư cho ông, ở lại Việt Nam, ông trả lời, ông
rất tin tưởng
ở nơi tôi, và tuy ông không biết tôi sẽ làm gì, dự định ra sao, thế
nào, nhưng ông
tin rằng, tôi phải làm được một cái điều gì đó làm ông ngạc nhiên.
Chính ông đã
xui khiến, phải nói là, xúi đẩy, tạo hứng khởi cho tôi để trở thành nhà
văn.
|