Pages on Kafka
Beckett by Auster
|
From
Cakes
to Stones
A note on Beckett's French
Note: Gấu vẫn
nghĩ tay Auster này chỉ viết tiểu thuyết. Không ngờ viết phê bình tiểu
luận thật
ác. Nhất là những bài viết về thơ. TV sẽ giới thiệu tiếp, bài viết
về Già Ung, và về Celan: Thơ lưu vong, The poetry of Exile.
Tuyệt.
Từ
Bánh tới Ðá
Một ghi chú
về Tiếng Tây của Beckett.
Mercier and Carnier là cuốn tiểu thuyết thứ nhất của Bekett viết
bằng tiếng Tây. Hoàn tất
vào năm 1946, nhưng được giữ lại không cho xb, tới 1970; nó cũng là
cuốn cuối,
trong những tác phẩm dài hơn, được chuyển qua tiếng Anh. Cái sự trễ nải
này có
vẻ như cho thấy, Beckett không mặn với nó. Giả như ông không bệ Nobel,
[mà ông đã từng than, thật là đại họa, khi được tin], có thể nó chẳng
được trình mặt với đời. Sự
dùng dằng này ở nơi tác giả, xem ra hơi bị lạ, bởi là vì, nếu nó là 1
tác phẩm
của thời kỳ di chuyển, thì liền lập tức, nó đưa chúng ta trở lại với Murphy and Watt, và khiến chúng ta hướng
tới những tuyệt tác của những năm đầu của thập niên 1950; tuy nhiên đây
quả là
một tác phẩm sáng chói, với những nét mạnh và quyến rũ của riêng nó,
chẳng bàn
cãi lôi thôi, đây không phải một tác phẩm lập lại, một phó bản, của bất
cứ một
trong sáu cuốn tiểu thuyết của Beckett. Ngay cả khi không ở đỉnh cao,
thì
Beckett vẫn là Beckett, và đọc ông, thì không như đọc, bất cứ 1 tay nào
khác.
Mercier and Camier và là hai gã
đựa rựa,
chừng nửa đời người, quyết định bỏ mọi thứ ở lại phía sau, và chơi một
chuyến
đi. Như Bouvard
của Flaubert, như Laurel và Hardy [Thằng
Ốm và Thằng Mập], như những “cặp-giả”, khác trong những tác phẩm của
Beckett, họ không phải là những hai
nhân vật
khác nhau, mà là hai phần tử của một thực tại bộ đôi, và “một chẳng thể
sống, nếu
thiếu một”. Mục đích của chuyến đi, hướng đi, nơi tới thì chẳng bao giờ
được nói
thẳng ra. “Cả hai đã bàn bạc, cân nhắc cái được cái mất, cái mặt tối,
cái mặt hồng.
Ðiều chính xác độc nhất mà họ có
được,
sau những bàn bạc, là, chuyến đi sẽ không rơi vào miền không tên”.
Beckett,
sư
phụ của dấu phẩy, và chỉ bằng vài câu văn, vài cú phẩy, là gạt bỏ mọi
khả
thể về một cái “goal” của chuyến đi.
Thật giản dị, Mercier
và Camier OK gặp nhau, và gặp
nhau [sau lầm
lẫn thương đau, bởi vì, xém tí nữa là Gấu Ðực vờ Gấu Cái, đúng vào lúc
bả cần đến
Gấu Ðực nhất!], và lên đường! Họ chẳng bao giờ đi tới đâu, chỉ hai lần
vượt qua
hai thành phố, một Hà Nội, một Sài Gòn. Thực sự, vượt những thành phố
giới hạn
hoàn toàn không phải là diễn tiến của cuốn sách. Cuốn sách không phải
là về Mercier
và Camier làm cái gì, mà là về,
họ
là ai, là
cái gì.
Chẳng
có gì xẩy ra. Hay, chính xác hơn, cái xẩy ra là cái không
xẩy ra. Ðược trang bị bằng đủ thứ vui nhộn, nào ô dù, túi xách, áo mưa,
hai nhân
vật quanh quẩn trong thành phố, và vùng phụ cận, gặp đồ vật, con người:
họ thường
ngưng, nghỉ ở đủ những thứ hạng những quán, những ba, những nơi chốn
công cộng;
kết giao với một em điếm có trái tim ấm áp tên là Helen, họ làm thịt
một anh cớm;
họ mất dần đồ đạc mang theo, và mỗi người mỗi ngả. Ðó là những sự kiện
ở bên
ngoài trời, tất cả đều được kể một cách thật chính xác, thông minh và
duyên dáng,
và cảm động, và được xen kẽ bằng vài đoạn miêu tả đẹp tuyệt vời (“Biển
thì không
xa, nhìn thấy nó, quá một tí những thung lũng phía đông, chân biển nhợt
nhạt như
tường trời nhợt nhạt”). Nhưng cái cực riêng của cuốn tiểu thuyết, cái
mà dân phê
bình gọi là bản chất, substance, thì nằm ở trong những cuộc chuyện trò
của
Mercier và Camier:
Nếu đếch có mẹ gì để nói,
thì nói mẹ làm gì. Camier
Chúng ta có điều để nói. Mercier.
Thế thì tại nàm sao chúng ta không thể nói? Camier.
Nhưng chúng ta cố. Mercier
Trong 1 đoạn thần sầu của
Nói về Dante, Talking about Dante, Mandelstam viết:
Ðịa ngục,
và nhất là Lò Luyện Ngục,
vinh danh dáng đi của con người [nhất là cái
dáng cao
đen, đi nhẹ như đêm vào đời GNV, như đã từng được TCS vinh danh,
“Từ vườn
khuya bước về, bàn chân ai rất nhẹ, tựa hồn những năm xưa. Borges cũng
tán về đoạn
này, cũng nhắc tới Lò Luyện Ngục, y chang Mandelstam,
qua câu thần sầu, BHD đi
trong cái đẹp, như đêm: She
walks in beauty, like the night]
Bài nhớ thi
sĩ
Tặng già Ung
Gửi M.T.
Sáng nay thức
giấc trong nhà giam
Anh nhớ những
câu thơ viết thời trẻ
Bừng cháy
trong lòng anh bấy lâu u ám quạnh quẽ
Ánh lửa mênh
mang buổi tình đầu
Mưa bụi rì
rào
Gió náo nức
mù tối
Trễ muộn mùa
xuân trên miền cao
Đang lay thức
rừng núi biên giới
Đã qua đã
qua chuỗi ngày lạnh lẽo, anh tự nhủ
Cũng qua cơn
khô cạn khác thường
Tắt theo ngọn
nắng chon von mê hoặc đầu óc quái gở
Từng thiêu đốt
anh trên đồi, theo vào đêm dập vùi anh đớn đau
Từ lúc nào
anh đứng trân trối cô đơn
Hôn ám trời
sơ khai nhìn qua song cửa ngục
Hoang vu thơ
hát lời lá cỏ heo hút
Dẫn anh về tận
nẻo nguồn hừng đông lẩn lút
(Hừng đông Hừng
đông ôi
Hừng đông anh kêu khẽ cảm động muốn khóc
Mai, Mai xa,
Mai như hoa, Mai hoa. Mai về tình thơ hôm nay)
Em có hay kẻ
tội đồ biệt xứ một buổi về ngang cố quận
Xao xuyến
ngây ngô hắn dò hỏi lớp bóng mờ tàng ẩn
Đêm vây
hãm
lụn dần
Thủ thỉ mưa
ru ngày khốn đốn
Em, soi bóng
em hồn nhiên ngược lối thời gian
Lặng lẽ anh
gầy lửa tinh mơ đầm ấm.
(Lào Cai
5/77,
Vĩnh Phú
1/78)
[Ấn bản trên
talawas]
Bài nhớ
thi
sĩ
Nhớ Già Ung*
Gửi MT
Lào Kay 4/78
Vĩnh Phú
1/79
Thanh Tâm Tuyền: Thơ
Ở Đâu Xa
Ghi chú của
tác giả:
Già Ung:
Giuseppe Ungaretti (1898-1970). Thi sĩ Ý
Ghi chú của
người sao lục:
Bài nhớ Thi
Sĩ của Thanh Tâm Tuyền, qua thi sĩ Nguyễn Hà Tuệ, còn là sĩ
quan cải tạo, đã được
nhạc sĩ Hồ Đăng Tín phổ nhạc, hát giữa bạn tù, tại trại Tân Lập K2.
Độc giả
[Thính giả?] đầu tiên của bài thơ, là trại viên Nguyễn Chí Kham.
TTT có hai bài
thơ tù, có tí cá nhân, là cái tình cảm của 1 tên Bắc Kít, về thăm lại
Ðất Bắc
quê hương ngày nào của ông, như 1 tên tù.
Bài này, và bài
Chiều cuối năm qua xóm nghèo.
Không phải tự
nhiên, mà ông đề tặng Mai Thảo. Vì ông biết bạn ông khó mà có ngày về.
Còn cái
lý do, tại sao gửi Già Ung, thì để đọc bài của Auster viết, biết đâu
chúng ta
hiểu ra.
Mai Hoa là tên bà xã của ông, Nam Kít.
Cũng là 1 cách giới thiệu quê hương nhà chồng!
Chiều cuối
năm qua xóm nghèo
Mưa bay lất
phất gió căm căm
Đường lầy
trơn nhà cửa tối tăm
Trốn đâu lũ
trẻ mặt lem luốc
Co ro đứng
coi tù qua thôn
Vác bó cuốc
nặng bước loạng choạng
Về trong xây
xẩm buổi tàn đông
Lạnh lẽo nhà
ai không đèn lửa
Ảm đạm lòng
ta chiều cuối năm
78 (Thơ ở đâu
xa)
Bài nhớ Thi Sĩ của Thanh
Tâm Tuyền, qua
thi sĩ Nguyễn Hà Tuệ, còn là sĩ quan cải tạo, đã được nhạc sĩ Hồ Đăng
Tín phổ
nhạc, hát giữa bạn tù, tại trại Tân Lập K2.
Milosz
viết:
Trong một
tiểu luận, Brodsky gọi Mandelstam là
một thi sĩ của văn hóa. Brodsky chính ông, cũng là 1 thi sĩ của văn
hóa, và hẳn
là vì lý do này, ông tạo sự hài hòa với dòng sâu thẳm của thế kỷ, trong
đó con
người, bị đe dọa mất mẹ cái giống người, khám phá ra quá khứ như là một
mê cung
chẳng hề có tận cùng. Lặn sâu vô mê cung, chúng ta khám phá ra cái gì
sống sót
quá khứ là kết quả của nguyên lý phân biệt dựa trên đẳng cấp.
Mandelstam, ở
trong Gulag, điên khùng bới đống rác tìm đồ ăn, [ui chao lại nhớ Giàng
Búi], là
thực tại về độc tài bạo chúa và sự băng hoại thoái hoá bị kết án phải
tuyệt
diệt. Mandelstam đọc thơ cho vài bạn tù là khoảnh khoắc thần tiên còn
hoài hoài.
Khoảnh khắc
thần tiên còn hoài hoài, là cái cảnh
cả lán tù nghe Bài nhớ thi sĩ.
Lúc đó,
quản giáo làm gì nhỉ?
Chắc là phải
diệt
tuyệt!
Câu
thơ khủng nhất, thê lương nhất, với riêng Gấu, là câu:
Em có hay kẻ tội đồ biệt xứ một buổi về
ngang cố quận
Ấy là bởi
vì
Gấu về bảnh lắm!
|