Tưởng niệm Susan Sontag
Susan Sontag, the writer and activist whose powerful intellect helped
shape
modern American thinking for nearly half a century, died yesterday at
the age
of 71. Wednesday December 29, 2004
The Guardian
Tác
giả Nhìn nỗi đau của những người khác, Susan Sontag vừa mới mất, ngày
28 tháng
Chạp, 2004, thọ 71 tuổi
1.
Phỏng
vấn Susan Sontag
PV: Cuộc
phỏng vấn này bị hoãn mấy
lần, vì những chuyến đi của bà tới Sarajevo, mà nghe bà nói, đây là một trong những kinh
nghiệm dữ dằn
nhất trong đời. Tôi đang nghĩ tới chiến tranh và sự hiện diện của nó,
tái đi
tái lại, trong tác phẩm của bà.
Sontag: Tôi đã từng tới Bắc Việt, hai lần, khi Mỹ ném bom. Chuyến đầu,
tôi kể
lại trong "Đi Hà Nội, Trip to Hanoi". Và khi xẩy ra cuộc chiến Yom
Kippur War vào năm 1973, tôi tới Israel thực hiện phim Đất Hứa, ngay
tại tiền
tuyến. Bosnia là cuộc chiến thứ ba của tôi.
-Trong Đất Hứa, bà viết, "Đề tài của tôi là chiến tranh, và bất cứ thứ
gì
dính dáng tới chiến tranh, mà lại có vẻ sạch quá - nguyên văn, 'mà
không nói
lên tính cụ thể khốn kiếp của huỷ diệt và chết chóc' - là bố láo."...
Bà
có tính viết về Sarajevo?
Không, tôi muốn nói, chưa. Chắc là còn lâu. Và không phải dưới dạng
tiểu luận,
hay phóng sự. Con trai tôi, David Rieff, tới đó trước tôi, và đã viết
một thứ
phóng sự-tiểu luận về nó. Một người trong gia đình viết về sự diệt
chủng ở
Bosnia, là đủ rồi. [Vả chăng].... tới đó để chứng kiến, để than thở, để
chường
bản mặt của mình ra, như muốn nói lên một kiểu mẫu trí thức, nghĩa là
không
đồng lõa... như vậy cũng là đủ rồi. Đó là những bổn phận của một con
người, một
con người tin vào hành động đúng, không phải của một nhà văn.
[Trích Điểm Sách Paris]
"Trong một đoạn tuyệt vời của phim Xa quá Vietnam [Far From Vietnam],
nhà
làm phim người Pháp, Godard đã cho rằng, thật tốt, nếu mỗi người chúng
ta làm
bật ra, một con người Việt nam, từ bên trong của chính chúng ta, đặc
biệt, với
những người không thể tới đó [ông bị Hà Nội từ chối không cho giấy nhập
cảnh,
khi tính tới quay phim về Bắc Việt]. Quan điểm của Godard, từ Che mà
ra, là, để
phá vỡ bành trướng Mỹ, cách mạng có nhiệm vụ tạo ra "hai, ba, nhiều
Việt
nam", theo tôi thật là đúng. Trong bốn năm qua, Việt nam bám chặt lấy
tôi,
ở trong đầu, ở dưới da, ở một chỗ quái quỉ nào đó trong dạ dầy.
Nhưng..."
Susan Sontag: Chuyến đi Hà Nội
2.
Susan Sontag
DQ
Ông ta “tự chôn mình vào trong sách,
đọc, hàng đêm, từ chập tối tới sáng sớm, hàng ngày, từ sáng sớm tới
chập tối, và vì ngủ ít quá, đọc nhiều quá, não của ông trở trên khô
kiệt, và ông trở nên khùng”.
Don
Quixote, giống như Madame
Bovary, là bi kịch của sự đọc (the tragedy of reading). Nhưng
cuốn tiểu thuyết của Flaubert là một mẩu của chủ nghĩa hiện thực: trí
tưởng tượng của Emma bị hư ruỗng bởi thứ sách mà bà đọc, những câu
chuyện bá láp, tầm phào nhằm thoả mãn một đầu óc lãng mạn. Với Don
Quixote, một người hùng của sự thái quá, vấn đề không nặng ở chỗ những
cuốn sách thì dở, mà hoàn toàn do số lượng đọc. Đọc không chỉ làm méo
mó, mà, bắt cóc, trí tưởng tượng của anh ta. Anh ta nghĩ, cả thế giới
nằm ở bên trong một cuốn sách. [Theo Cervantes, mọi thứ, mọi điều Don
Quixote nghĩ, nhìn, hay tưởng tượng đều đẻ ra từ việc đọc của anh ta].
Ngược hẳn với Emma, tính sinh sự sự sinh của sách, hay thói ham đọc
sách quá độ, khiến anh ta chới với, bứt ra khỏi sự
chừng mực, và hư ruỗng. Nó làm anh ta khùng; nó làm cho anh ta trở nên
sâu thẳm, hào hùng, phong nhã nhất mực.
Không chỉ nhân vật chính của cuốn tiểu
thuyết, mà cả người kể chuyện cũng mê mẩn đọc. Người kể chuyện trong Don Quixote cho biết, anh ta thèm
đọc đến nỗi không tha mấy mẩu giấy nằm lăn lóc trên đường phố. Tuy
nhiên, nếu hậu quả của việc đọc thái quá của Don Quixote là khùng điên,
việc đọc thái quá của người kể chuyện đưa đến cái gọi là sáng tác, làm
tác giả một bản văn [authorship].
Đúng là bản “hùng ca” đầu tiên, vĩ đại
nhất về… ghiền. Don Quixote
vừa tố cáo định chế văn chương, vừa réo rắt mời gọi
nó. Một cuốn sách còn hoài, chẳng bao giờ cạn kiệt. Đề tài của nó là
tất cả (trọn thế giới) và chẳng gì cả (cái nằm bên trong đầu của một
con người, tức là sự khùng điên). Cứ thế tiến tới, cứ kéo mãi ra, cứ ăn
thịt mình, nhìn lại mình, đốt đuốc chơi đêm, bất cần mọi chuyện, bồi
thêm mãi, tự nhân mình ra mãi: Cuốn tiểu thuyết của Cervantes đúng là
hình ảnh thứ thiệt, thật tuyệt vời, về "truyện ở trong truyện", [mise-en-abime, tiếng Pháp trong
nguyên bản], (1), tức đích thị văn chương, và cơn lung linh rồ dại của
việc sáng tác, với sự khoáng trương cuồng điên của nó.
Một nhà văn trước tiên là một độc giả
- một độc giả phát rồ, một độc giả đạo tặc, một độc giả hỗn xược cứ rao
to lên rằng, ta có thể làm hay hơn cái ta đọc. Tuy nhiên, sự tình thực
sự là, khi vị tác giả còn sống vĩ đại nhất soạn câu chuyện ngụ ngôn
chung quyết của mình về thiên chức nhà văn, ông ta bịa ra một nhà văn
đầu thế kỷ 20, ông này chọn cho mình, như là tác phẩm tham vọng nhất,
là viết (những chương hồi của) Don
Quixote. Lại một lần nữa. Y hệt như chính nó (đã từng). Bởi vì, Don Quixote, hơn hết thảy bất cứ
một cuốn sách nào đã từng được viết ra, là văn chương. (2)
Nguyễn Quốc Trụ dịch
[nguyên tác được in trong tập tiểu
luận Where the Stress Falls, nhà xb Picador USA, Farrar, Strauss, and
Giroux, New York, và được 'scan', dưới đây].
(1): "Mise-en-abime" không có gì liên
quan đến vực thẳm hết. Nó là một "figure de style", lần đầu tiên do
Gide dùng, sau đó được sử dụng lại để chỉ hiện tượng trong truyện có
truyện, trong tiểu thuyết có tiểu thuyết, có những suy tư về bản thân
tác phẩm, hay thể loại tác phẩm..
Trân trọng cám ơn bạn Cao Việt Dũng đã mail cho biết ý nghĩa của cụm từ
này.
NQT
MISE-EN-ABIME:
Literally, "placement en abîme," where "en abîme" itself refers to
the habit of representing a small shield inside a larger one in
traditional heralds and coats-of-arms. By extension, most
any "story-within-a-story" situations can be called
an example of mise-en-abîme. The device is especially common
in modern literature, television and films, but it occasionally
appears in art. Some of Velázquez's bodegones show religious scene
tucked into the background of a genre scene with very different
kinds of activity (e.g., Old Woman Cooking Eggs).
Từ điển Robert....II,
cụm từ "en abyme": 1. Huy hiệu học. "Nói về một hình vẽ được
đặt chìm (en abyme) trong một hình vẽ, huy hiệu khác". Từ điển
Trévoux 1771: "Sự so sánh với phương thức đặt một huy hiệu chìm
trong một huy hiệu khác". ("La comparaison avec le procédé du blason
qui consiste, dans le premier, à en mettre un second "en abyme") (A.
Gide). 2. Ký hiệu học. Một tác phẩm được trình bày ở bên
trong một tác phẩm khác, hệ thống ý nghĩa của hai tác phẩm này
như nhau: một chuyện kể ở bên trong một chuyện kể, một cuốn phim trong
một cuốn phim, một bức họa trình bày một bức họa khác....
(2) Cả đoạn cuối này, Susan Sontag
vinh danh Cervantes, cha đẻ của văn học tiểu thuyết Tây Phương, người,
nhờ đã đọc những câu chuyện võ hiệp thời trung cổ, mà sáng tác ra nhà
hiệp sĩ lang thang Don Quixote.
Bà sử dụng thủ pháp "truyện ở trong truyện", qua hình ảnh nhà văn Jorge
Luis Borges (1899-1986), người đã dựng nhân vật Menard, người đã
viết lại hoàn toàn Don Quixote.
Đúng ra, không thể nói là "đã viết lại
hoàn toàn" Don Quixote, mà là
"viết Don Quixote", như
Coetzee nhận định, trong bài viết về Tuyển Tập Giả Tưởng của Borges
[trong Stranger Shores, tiểu luận văn học, 1986-1999, nhà xb Viking]:
"Pierre Menard, một nhà văn thường thường cùng thời với Paul Valéry, tự
mình để cuốn hút hoàn toàn vào thế giới của Cervantes, nhờ vậy có thể
viết - chứ không phải viết lại,"rewrite" - Don Quixote, từng từ một, word for
word."
Nhà văn vĩ đại nhất còn sống, là chỉ
Borges. Câu chuyện ngụ ngôn chung quyết, là để chỉ "Pierre Menard,
Author of the Quixote", một
bài viết của Borges.
NQT
DQ
HE "SO BURIED HIMSELF in his books
that he spent the nights reading from twilight to daybreak and the days
from dawn till dark; and so from little sleep and much reading, his
brain dried up and he lost his mind."
Don Quixote, like Madame
Bovary, is about the tragedy of reading. But Flaubert's novel is a
piece of realism: Emma’s imagination is corrupted by the kind of books
she reads, vulgar tales of romantic satisfaction. With Don Quixote, a
hero of excess, the problem is not so much that the books are bad; it
is the sheer quantity of his reading. Reading
has not merely deformed his imagination; it has kidnapped it. He thinks
the world is the inside of a book. (According to Cervantes, everything
Don Quixote thought, saw, or imagined followed the pattern of his
reading.) Bookishness makes him, in contrast to Emma Bovary, beyond
compromise or corruption. It makes him mad; it makes him profound,
heroic, genuinely noble.
Not only the hero of the novel but
also the narrator is someone besotted by reading. The narrator of Don
Quixote reports that he has a taste for reading even torn papers
lying in the streets. But whereas the result of Don Quixote's excessive
reading is madness, the result of the narrator' s is authorship.
The first and greatest epic about
addiction, Don Quixote is both a denunciation of the
establishment of literature and a rhapsodic call to literature. Don
Quixote is an inexhaustible book, whose subject is everything
(the whole world) and nothing (the inside of someone's head—that is,
madness). Relentless, verbose, self-cannibalizing, reflexive, playful,
irresponsible, accretive, self-replicating—Cervantes’s book is the very
image of that glorious mise-en-abime which is literature, and
of that fragile delirium which is authorship, its manic expansiveness.
A writer is first of all a reader—a
reader gone berserk; a rogue reader; an impertinent reader who claims
to be able to do it better. Yet, justly, when the greatest
living author composed his definitive fable about the writer's
vocation, he invented an early-twentieth-century writer who had chosen
as his most ambitious work to write (parts of) Don Quixote.
Once again. Exactly as is (was). For Don Quixote, more than any
book ever written, is literature.
[1985]
3
Joan Acocella
Lời Bạt
Susan Sontag viết cho báo này [Người
Nữu Ước], tuy không
liên tục, nhưng ròng rã trên ba chục năm. Bà mất bữa Thứ Ba vừa rồi,
trước sự
ngạc nhiên của tất cả mọi người, mặc dù, ai cũng biết bà bị ung thư, và
thuốc
thang chữa trị từ hồi thập niên 1970, nhưng chẳng bao giờ bà để tâm đến
chuyện
này, cũng như không để cho ai để tâm đến nó, rằng, bịnh này có thể giết
bà. Một
ý nghĩ như thế đó, là một vi phạm, violation, đối với sự cần thiết sâu
xa nhất
của bà, the deepest need, the need to live, cần sống và có được kinh
nghiệm mà
thế giới đem tới cho bà.
Một lần, viết về tuổi thơ, và những
bữa ăn thịt nướng trong
gia đình, bà cho biết, "Tôi ăn, ăn, và ăn... Tôi luôn luôn đói."
Luôn luôn đói, bà giữ cho mình suốt
đời là như vậy đó. Bà
đọc mọi thứ, và viết đủ thứ: tiểu thuyết, truyện ngắn, kịch, tiểu luận
văn học,
phim ảnh, chính trị. Bà làm phim. Bà đọc diễn văn. Bà đi Bắc
Việt, Cuba,
và Bosnia,
và
từ đó, gửi về những bài tường thuật. Gần như chẳng có điều gì bà nghĩ,
bà không
thể làm được, và chẳng có điều gì bà không tính làm, và làm thật lẹ,
liền tức
thì.
Khi tôi bắt đầu phỏng vấn bà, vào năm
1999, cho một bài báo
thuộc loại chân dung nhìn nghiêng [profile] của báo này [The New
Yorker], bà
vừa trải qua một chuỗi những chữa chạy mới, rất, rất ư hung bạo
[agressive],
căn bịnh ung thư, và chúng gây tổn thương về thần kinh ở nơi bà. Bà
phải sử
dụng thuốc giảm đau, đúng ra, tôi muốn nói, lúc đó bà sống bằng những
thuốc
giảm đau, the painkillers; bà phải nhìn xuống chân, mỗi khi bước.
Nhưng, nhằm
nhò gì ba thứ lẻ tẻ đó, bà cười, khi tiếp tôi. Bà dang rộng hai tay, ôm
lấy
trọn một cuộc đời mới của bà. Trước đó, bà là một nhà viết tiểu luận.
Bây giờ,
bà là một tiểu thuyết gia. Thực ra, bà đã từng viết tiểu thuyết, hai
cuốn, ngay
lúc khởi nghiệp, vào thập niên 1960. Bà không thích chúng lắm, vì vậy
mà bà trở
thành một nhà phê bình, đúng ra phải nói, nhà phê bình nổi tiếng nhất,
và nhà
phê bình trẻ có ảnh hưởng nhất, của thập niên 60 và 70, khuôn mặt trung
tâm nổi
cộm của một đảo nghịch mỹ học, "the aesthetic bouleversement", của
thời kỳ đó: sự hấp thụ, absorption, văn hóa đại chúng vào văn hóa cao,
huỷ bỏ
thể loại cổ điển, để đổi lấy sự đứt đoạn, nét gẫy, vết rạn hiện đại,
làm lễ tấn
phong cho ý thức tan hoang, rã rời, đêm tóc rối, thay cho chủ nghĩa
hiện thực,
những nền tảng đạo đức, những lớp lang mở đầu, thân bài, và kết luận.
Nhưng vào
năm 1999, tất cả mọi chuyện đó chấm hết, nếu kể như chúng đã là những
quan tâm
của bà trước đó. Bà đã cho xuất bản một cuốn sách như thế vào năm 1992,
"Người Tình Hoả Diệm Sơn", "The Volcano Lover", viết về cuộc
tình đã trở thành truyền thuyết giữa Lord Byron với người đàn bà có
chồng, là
Emma Hamliton. Cuốn sách là một best-seller. Bây giờ, bà vừa mới kết
thúc một
tác phẩm mang nhiều tham vọng hơn, so với cuốn trước, một cuốn tiểu
thuyết lịch
sử, "Ở Mỹ", "In America", và bà đang khởi sự một cuốn tiểu
thuyết khác, về nước Nhật hiện đại.
Thật không rõ, trong
tương lai, chuyện gì sẽ xẩy ra, đối với
một Susan Sontag với một nghiệp viết nhiều mặt như thế. Có thể việc
viết tiểu
thuyết sẽ chỉ được coi là thứ yếu. "Người Tình Hoả Diệm Sơn" là một
đỉnh cao của chủ nghĩa hiện thực hiện đại mang tính tâm lý, nhưng rõ
ràng là,
so với những tiểu thuyết khác của bà, nó tách biệt hẳn ra, theo nghĩa,
không
mặn mà, xứng hợp với những cuốn còn lại. Nếu có một cái gì khác, ngoài
cuốn
tiểu thuyết đó ra, ở trong những thành tựu đỉnh cao của bà, như người
ta thật
dễ dàng nhận ra, và sẽ nhớ mãi, thì đó là những tiểu luận mang tính phê
bình,
hầu hết viết về những nhà văn, những nhà làm phim, mà bà thu gom và cho
in
trong "Chống Dẫn Giải", "Against Interpretation" (1966),
cuốn sách đã làm bà nổi tiếng;
"Những Phong Cách Về Ý Chí Cấp Tiến", "Styles of Radical
Will" (1969), "Sinh dưới một vì sao xấu xố", "Under the
Sign of Saturne" (1980). Cuốn sách sẽ còn sống dai khác nữa, là "Về
Phim Ảnh", "On Photography" (1977). Cuốn này, như "Người
Tình Hoả Diệm Sơn", là một best-seller, nhưng, đây là một chuyên khảo
về
quyền lực xa [the distancing power] của hình ảnh, nó thực sự không
trông mong
có được một thứ vinh quang mang tính bình dân, hay đại chúng. Trong
những bài
viết ở trong đó, Susan Sontag kết hợp một đam mê cho nhiều cách mới mẻ
trong
cái nhìn (Godard, Artaud, "ngẫu hứng", "happenings") với sự
trung thành với những giá trị mang tính cổ điển (chân lý, cái đẹp, sự
thanh
lịch), và từ đó, xây dựng một cây cầu cho chúng ta, chỉ cho chúng ta
bằng cách
nào, làm sao xâm nhập được Cái Hiện Đại, The Modern.
Sau đó, khi mà hiện
đại sau cùng đã hất cẳng [supplanted] cổ
điển, bà đổ dồn đóng góp của mình cho sự phát triển này. Cũng như thế,
là với
những phát triển mang tính chính trị. Vốn là một người tả phái dấn
thân, bà đã
từng ca ngợi những chế độ ở Cuba, ở Bắc Việt Nam, vào thập niên 1960,
và đã
diễn tả "giống trắng", "the white race", như là "ung
thư của lịch sử nhân loại". Điều này làm bà bị mất cảm tình rất nhiều,
từ hữu
phái. Rồi thì, vào năm 1982, bà công khai tuyên bố "Chủ nghĩa Cộng sản
là
chủ nghĩa Phát xít", ngược hẳn những gì bà ca ngợi và tin tưởng trước
đó,
điều này càng làm cho phái hữu có lý do để mất cảm tình thêm với bà
(Thế đấy,
bây giờ đã mở mắt ra chưa!), trong khi
cùng lúc, làm tả phái nghỉ chơi, bỏ chạy bà!
Nhưng, như cách bà
nhìn, bà được sinh ra, là để nói ra những
quan điểm mạnh bạo như thế đó. Và để thay đổi chúng, như là thế giới
thay đổi.
Bà trải qua những năm đầu đời ở Paris, thành thử ở trong bà có điều chi
gần gụi
với Pháp hơn so với Hoa Kỳ: một trí thức của đám đông, một con người
với quyền
của người đó, có thể nói, với bổn phận của người đó, là đưa ra, trình
tới cho
bàn dân thiên hạ, những tư tưởng, những ý nghĩ, như là sự đóng góp của
mình cho
công cuộc bàn luận của xã hội, về cuộc sống của nó. Bà thì cũng thật là
hăm hở,
thật là tình cảm, dễ xúc động. Mắt bà đẫm lệ, khi nói về những chuyện
như là
chính quyền Miến Điện, hay Hilton Kramer, hay "Anh em nhà Karamazov",
(tác phẩm của Dostoevsky). Với bà, đọc và kinh nghiệm không chỉ là
những sự
kiện mang tính tâm thần, tâm linh; bà đón nhận chúng như là đón nhận
những ngọn
phi tiêu lửa. Không có bà, thành phố Nữu Ước như trở nên lạnh lẽo hơn.
Joan Acocella.
[Người Nữu Ước, số đề
ngày 10 Tháng Giêng, 2005)
NQT dịch