Nguyễn Quốc Trụ
phụ trách
CHUYỂN NGỮ
|
Tưởng
niệm Susan Sontag
Joan
Acocella
Lời
Bạt
Susan
Sontag viết cho báo này [Người Nữu Ước], tuy không
liên tục, nhưng ròng rã trên ba chục năm. Bà mất bữa Thứ Ba vừa rồi,
trước sự
ngạc nhiên của tất cả mọi người, mặc dù, ai cũng biết bà bị ung thư, và
thuốc
thang chữa trị từ hồi thập niên 1970, nhưng chẳng bao giờ bà để tâm đến
chuyện
này, cũng như không để cho ai để tâm đến nó, rằng, bịnh này có thể giết
bà. Một
ý nghĩ như thế đó, là một vi phạm, violation, đối với sự cần thiết sâu
xa nhất
của bà, the deepest need, the need to live, cần sống và có được kinh
nghiệm mà
thế giới đem tới cho bà.
Một
lần, viết về tuổi thơ, và những bữa ăn thịt nướng trong
gia đình, bà cho biết, "Tôi ăn, ăn, và ăn... Tôi luôn luôn đói."
Luôn
luôn đói, bà giữ cho mình suốt đời là như vậy đó. Bà
đọc mọi thứ, và viết đủ thứ: tiểu thuyết, truyện ngắn, kịch, tiểu luận
văn học,
phim ảnh, chính trị. Bà làm phim. Bà đọc diễn văn. Bà đi Bắc
Việt, Cuba,
và Bosnia,
và
từ đó, gửi về những bài tường thuật. Gần như chẳng có điều gì bà nghĩ,
bà không
thể làm được, và chẳng có điều gì bà không tính làm, và làm thật lẹ,
liền tức
thì.
Khi
tôi bắt đầu phỏng vấn bà, vào năm 1999, cho một bài báo
thuộc loại chân dung nhìn nghiêng [profile] của báo này [The New
Yorker], bà
vừa trải qua một chuỗi những chữa chạy mới, rất, rất ư hung bạo
[agressive], căn
bịnh ung thư, và chúng gây tổn thương về thần kinh ở nơi bà. Bà phải sử
dụng
thuốc giảm đau, đúng ra, tôi muốn nói, lúc đó bà sống bằng những thuốc
giảm
đau, the painkillers; bà phải nhìn xuống chân, mỗi khi bước. Nhưng,
nhằm nhò gì
ba thứ lẻ tẻ đó, bà cười, khi tiếp tôi. Bà dang rộng hai tay, ôm lấy
trọn một
cuộc đời mới của bà. Trước đó, bà là một nhà viết tiểu luận. Bây giờ,
bà là một
tiểu thuyết gia. Thực ra, bà đã từng viết tiểu thuyết, hai cuốn, ngay
lúc khởi
nghiệp, vào thập niên 1960. Bà không thích chúng lắm, vì vậy mà bà trở
thành
một nhà phê bình, đúng ra phải nói, nhà phê bình nổi tiếng nhất, và nhà
phê
bình trẻ có ảnh hưởng nhất, của thập niên 60 và 70, khuôn mặt trung tâm
nổi cộm
của một đảo nghịch mỹ học, "the aesthetic bouleversement", của thời kỳ
đó: sự hấp thụ, absorption, văn hóa đại chúng vào văn hóa cao, huỷ bỏ
thể loại
cổ điển, để đổi lấy sự đứt đoạn, nét gẫy, vết rạn hiện đại, làm lễ tấn
phong
cho ý thức tan hoang, rã rời, đêm tóc rối, thay cho chủ nghĩa hiện
thực, những
nền tảng đạo đức, những lớp lang mở đầu, thân bài, và kết luận. Nhưng
vào năm
1999, tất cả mọi chuyện đó chấm hết, nếu kể như chúng đã là những quan
tâm của
bà trước đó. Bà đã cho xuất bản một cuốn sách như thế vào năm 1992,
"Người
Tình Hoả Diệm Sơn", "The Volcano Lover", viết về cuộc tình đã
trở thành truyền thuyết giữa Lord Byron với người đàn bà có chồng, là
Emma
Hamliton. Cuốn sách là một best-seller. Bây giờ, bà vừa mới kết thúc
một tác
phẩm mang nhiều tham vọng hơn, so với cuốn trước, một cuốn tiểu thuyết
lịch sử,
"Ở Mỹ", "In America", và bà đang khởi sự một cuốn tiểu
thuyết khác, về nước Nhật hiện đại.
Thật
không rõ, trong tương lai, chuyện gì sẽ xẩy ra, đối với
một Susan Sontag với một nghiệp viết nhiều mặt như thế. Có thể việc
viết tiểu
thuyết sẽ chỉ được coi là thứ yếu. "Người Tình Hoả Diệm Sơn" là một
đỉnh cao của chủ nghĩa hiện thực hiện đại mang tính tâm lý, nhưng rõ
ràng là,
so với những tiểu thuyết khác của bà, nó tách biệt hẳn ra, theo nghĩa,
không mặn
mà, xứng hợp với những cuốn còn lại. Nếu có một cái gì khác, ngoài cuốn
tiểu
thuyết đó ra, ở trong những thành tựu đỉnh cao của bà, như người ta
thật dễ
dàng nhận ra, và sẽ nhớ mãi, thì đó là những tiểu luận mang tính phê
bình, hầu
hết viết về những nhà văn, những nhà làm phim, mà bà thu gom và cho in
trong
"Chống Dẫn Giải", "Against Interpretation" (1966),
cuốn sách đã làm bà nổi tiếng;
"Những Phong Cách Về Ý Chí Cấp Tiến", "Styles of Radical Will" (1969),
"Sinh dưới một vì sao xấu xố", "Under the Sign of
Saturne" (1980). Cuốn sách sẽ còn sống dai khác nữa, là "Về Phim
Ảnh", "On Photography" (1977). Cuốn này, như "Người Tình
Hoả Diệm Sơn", là một best-seller, nhưng, đây là một chuyên khảo về
quyền lực xa [the distancing power] của hình ảnh, nó thực sự
không trông
mong có được một thứ vinh quang mang tính bình dân, hay đại chúng.
Trong những
bài viết ở trong đó, Susan Sontag kết hợp một đam mê cho nhiều cách mới
mẻ
trong cái nhìn (Godard, Artaud, "ngẫu hứng", "happenings")
với sự trung thành với những giá trị mang tính cổ điển (chân lý, cái
đẹp, sự
thanh lịch), và từ đó, xây dựng một cây cầu cho chúng ta, chỉ cho chúng
ta bằng
cách nào, làm sao xâm nhập được Cái Hiện Đại, The Modern.
Sau
đó, khi mà hiện đại sau cùng đã hất cẳng [supplanted] cổ
điển, bà đổ dồn đóng góp của mình cho sự phát triển này. Cũng như thế,
là với
những phát triển mang tính chính trị. Vốn là một người tả phái dấn
thân, bà đã
từng ca ngợi những chế độ ở Cuba, ở Bắc Việt Nam, vào thập niên 1960,
và đã
diễn tả "giống trắng", "the white race", như là "ung
thư của lịch sử nhân loại". Điều này làm bà bị mất cảm tình rất nhiều,
từ
hữu phái. Rồi thì, vào năm 1982, bà công khai tuyên bố "Chủ nghĩa Cộng
sản
là chủ nghĩa Phát xít", ngược hẳn những gì bà ca ngợi và tin tưởng
trước
đó, điều này càng làm cho phái hữu có lý do để mất cảm tình thêm với bà
(Thế
đấy, bây giờ đã mở mắt ra chưa!),
trong khi cùng lúc, làm tả phái nghỉ chơi, bỏ chạy bà!
Nhưng,
như cách bà nhìn, bà được sinh ra, là để nói ra những
quan điểm mạnh bạo như thế đó. Và để thay đổi chúng, như là thế giới
thay đổi. Bà
trải qua những năm đầu đời ở Paris, thành thử ở trong bà có điều chi
gần gụi
với Pháp hơn so với Hoa Kỳ: một trí thức của đám đông, một con người
với quyền
của người đó, có thể nói, với bổn phận của người đó, là đưa ra, trình
tới cho
bàn dân thiên hạ, những tư tưởng, những ý nghĩ, như là sự đóng góp của
mình cho
công cuộc bàn luận của xã hội, về cuộc sống của nó. Bà thì cũng thật là
hăm hở,
thật là tình cảm, dễ xúc động. Mắt bà đẫm lệ, khi nói về những chuyện
như là
chính quyền Miến Điện, hay Hilton Kramer, hay "Anh em nhà Karamazov",
(tác phẩm của Dostoevsky). Với bà, đọc và kinh nghiệm không chỉ là
những sự
kiện mang tính tâm thần, tâm linh; bà đón nhận chúng như là đón nhận
những ngọn
phi tiêu lửa. Không có bà, thành phố Nữu Ước như trở nên lạnh lẽo hơn.
Joan
Acocella.
[Người
Nữu Ước, số đề ngày 10 Tháng Giêng, 2005)
NQT dịch
|