...Đêm
ấy, 30 tháng 4 năm 75, Hà Nội vẫn mất điện. Trong bóng tối hầm hập,
tiếng
loa truyền thanh không dễ định vị như lúc ban ngày, vang xa hơn, chói
lói
hơn. Hai chị em Ngân kẽo kẹt đèo nhau về nhà trên cái xe đạp cũ. Từ
bệnh
viện K nơi mẹ và những bệnh nhân ung thư nằm - những người mà người
thân
đang cố giấu họ một cách vô ích chẩn đoán vô vọng của bác sĩ, nơi chỉ
có
những mắt nhìn mỏi mệt của người sống và hoang vu của người đang chết -
trở
ra phố, Ngân có cảm giác thế giới này không có thật. Người như nước
tuôn
về phía Bờ Hồ. Như cả thành phố dồn về đây, để đứng bên nhau, để cùng
lắng
nghe. Đoạn Hai Bà Trưng - Hàng Bài tắc cứng. Không rõ mặt ai trong tối.
Chỉ
những hơi thở nóng, nặng nề. Chỉ những tiếng lầm bầm xin lỗi của những
người
bị mắc xe đạp vào nhau hay sơ ý giẫm phải chân nhau. Bay náo nức trên
tất
cả, trên đám người không rõ mặt, trên vòm lá bắt đầu lồng lộng gió là
những
âm giai nao nức. 'Việt Nam trên đường chúng ta đi - Nghe gió thổi đồng
xanh
quê ta đó - Nghe sóng biển ầm vang xa tận tới chân trời - Nghe ấm lòng
những
khi đang dồn bước mà vui sao ta chẳng nói nên lời... Chặng đường xa ta
đi
giữa mùa xuân - Ta đi giữa tình thương... chiến trường xa dồn dập
bước...
Việt Nam... Việt Nam...' 'Yên hàn thật rồi.' Ai nói lầm thầm như mơ.
Đột
ngột vang lừng một giai điệu chưa bao giờ nghe... 'Như có Bác Hồ trong
ngày
vui đại thắng - Lời Bác nay đã thành chiến thắng huy hoàng...' Lại Việt
Nam.
Lại Hồ Chí Minh. Có cái gì cảm động lắm, vừa cảm động vừa nghẹn ngào
vừa
kỳ quặc nở dần ra trong bóng tối của ngày đại thắng.
Khi
đó Ngân chưa biết Trịnh Công Sơn. Chị cũng chưa biết tự hỏi mình nếu
vào
lúc đó hoặc trước đó người Hà Nội đã biết chẳng hạn 'Một buổi sáng mùa
xuân'
của Trịnh thì ấn tượng về ngày cuối cùng của cuộc chiến tranh đằng đẵng
ấy
đối với mỗi người sẽ như thế nào?
Đại
hội Đảng lần thứ tư sẽ diễn ra sau đó một năm. Trước đó là cuộc diễu
binh
lớn chưa từng thấy. Nhà Ngân chật cứng bà con ra tỉnh xem duyệt binh.
Mẹ
vẫn nằm bệnh viện, đang heo hắt những hơi thở cuối. Ai ra Hà Nội cũng
vào
thăm mẹ và mẹ vẫn cố hết sức để mỉm cười, để diễn tả niềm vui có thật
trong
lòng khi biết mình sẽ chết. Rằng con mình đã sống và sẽ sống. Vì đã là
hòa
bình. Nhưng, trong hòa bình đã bắt đầu một cái gì đó còn khó khăn hơn
cả
thời bom đạn. Sau này, ký ức về những ngày đó trong trí Ngân cứ tự xóa
từng
vệt. Chỉ còn duy nhất một ấn tượng: hè năm đó ve sao mà nhiều thế, và
mậu
dịch bán nhiều chanh thế. Ve ran ran đêm ngày như một lời tiên cảm về
những
mùa khô khát chưa tới. Chanh đổ từng đống bên hè phố, thơm mát đường
trưa
tháng sáu, rồi úa đi, nẫu đi, bốc mùi. Tại sao Ngân lại nhớ điều nhỏ
nhặt
ấy? Tại sao Ngân không mấy khi nghĩ tới những buổi trưa hai chị em lủi
thủi
đi xuyên thành phố mang cơm cho bố đang trông mẹ trong bệnh viện? Tại
sao
Ngân không nhớ những tiết học đột nhiên nhãng hẳn lời thầy giảng, trái
tim
đập nặng như muốn ngừng vì ý nghĩ có thể trên cái giường sắt đó ở viện
mẹ
đã tắt thở? Đấy có phải là phản ứng tự vệ để lẽo đẽo cho hết cái phần
đời
chưa kịp sống?
Lúc
đó, trong đầu óc cô gái mười ba tuổi không còn chỗ cho Trịnh Công Sơn.
Mà
có lẽ, với những người khác thì cũng thế. Đại hội Đảng IV thành công
rực
rỡ. Báo đăng. Đài nói. Công viên Thống Nhất thành rừng ánh sáng. Nghị
quyết
về các chỉ tiêu kinh tế đất nước phải đạt tới trong kế hoạch năm năm
tiếp
đó... Những con số... 'Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng...' Hai mốt
triệu
tấn lương thực thành mục tiêu trên giấy cho bà con nông dân hướng
tới...
'Hợp lý.' 'Nhảy vọt.' Đài nói. Báo đăng. Có thể đoan chắc chuyện ngờ
vực
không có trong lòng người dân bình thường. Cái chính là đang sống, còn
sống.
Vả chăng đánh Mỹ còn được thì làm gì chả được. Đã ở nước nào đại sứ Mỹ
phải
cuốn cờ cắp nách cút đâu. Không ai thấy chuyện giang sơn thu về một mối
mà
vào tìm thân nhân trong miền đất vừa giải phóng vẫn cần có đủ thứ giấy
chứng
nhận nhân thân của cơ quan phường phố là điều bất thường. Nếu có ngỡ
ngàng
thì chỉ là ngỡ ngàng về một miền Nam phồn vinh lắm đồ nhựa xanh xanh đỏ
đỏ,
lắm máy móc gia dụng cũ, lắm vải mỏng đẹp tuyệt mà vừa giặt vài ba nước
đã
rách và vào chợ Bến Thành không biết cách mặc cả thì chớ có mua bán gì.
Nếu
có ngờ vực thì chỉ là sự ngờ vực kín đáo trước những người đàn bà miền
Nam
ra thăm chồng đi tù, áo bà ba vải mỏng tang mà nét cắt trông cưng cứng,
quần
ống rộng đen nhấp nhoáng, dép lưới, đội mũ vải thay vì nón lá, miệng
lúc
nào cũng hờm sẵn một nụ cười giữ ý chẳng ăn nhập gì với cái nhìn căng
thẳng,
buồn bã. Họ luẩn quẩn trong căn phòng chật của người bà con Hà Nội, lo
xếp
xếp sắp sắp những gói những lọ những hộp bốc mùi thơm lừng. Toàn những
mùi
xa xỉ tra tấn mũi và lưỡi và dạ dày của đám con chủ nhà cùng chúng bạn.
Ngoài
phố, tiếng loa truyền thanh vẫn vang vang dội ngược vào nhau. Náo nức.
'...Chưa có bao giờ đẹp như hôm nay - Non nước mây trời lòng ta mê
say...' '...Từ ngày
hôm nay chỉ còn những tiếng ca...' '...Từ thành phố này Người đã ra đi
-
Bao năm ước mong đón Bác trở về...' Cũng đã chen vào những âm thanh mới
của
những cuộc chiến mới. Nức lòng. Hùng tráng. '...Chẳng kẻ thù nào ngăn
được
bước ta đi - Khí thế tiến công mang sức mạnh thần kỳ - Lời Tổ quốc vẫn
âm
vang sông núi...' '...Chúng con lên đường hình Tổ quốc trong tim...'
Trịnh
Công Sơn phản chiến của cuộc chiến đã qua không thể chen chân trong
dòng
chảy này của đời sống. Còn tình ca? Tình ca thích hợp với một cuộc
chiến nhất
định thắng chỉ có thể hát về những nỗi nhớ hai đầu, hai đầu dòng sông,
hai
đầu núi biếc, hai phương trời cách biệt, là sự chia xa thực chứ không
phải
là tưởng tượng, và không bao giờ là cô đơn. Vẫn còn nguyên trong trí
nhớ
Ngân giọng nữ trung nồng ấm và rạo rực của Vũ Dậu: '...Rất dài và rất
xa
là những ngày thương nhớ... Anh đang mùa hành quân pháo lăn dài chiến
dịch
- Bồi hồi đêm xuất kích chờ nghe tiếng pháo ran - Ngôi sao như mắt anh
trong
những đêm không ngủ - Giáo án em vẫn mở cho ánh sao bay vào - Ngày và
đêm
xa nhau những đêm dài thương nhớ - Thời gian trong cách trở vẫn cháy
ngời
tình yêu...' Vẫn còn nguyên... giọng hát và ánh mắt... gửi trao... hò
hẹn...
rụt rè... liều lĩnh... Quang... chiều Đại Lải năm nào: '...Một tiếng
chim
ngân - một làn gió biển - một sớm mai xuân bên cửa hầm dã chiến thấy
trời
xanh xao xuyến... ta vẫn thầm hái hoa tặng nhau...' Không một nhấp nháy
xao
xuyến trước tấm tình ấy, nhưng Ngân nhớ, nhớ tới bây giờ và chắc mãi về
sau
nữa, về người bạn cùng lớp sẽ hy sinh chỉ sau đó ít ngày, dù Ngân đã
chồng
con, đã mệt nhọc lắm bơ phờ lắm vì phải sống. Lứa tuổi Ngân khi ấy chưa
có
tình ca cho riêng mình. Vẫn phải ăn đong tình ca của các thế hệ trước.
Tiền
chiến là cái gì đó chỉ lõm bõm nghe 'các cụ' âm ư rồi thở dài sau những
bữa
ăn chiều còn hơn là đạm bạc. Còn cái món ỉ ôi sướt mướt 'Thi ơi Thi Thi
có
biết biết không Thi khi con tim yêu đương thầm chết...' nhà hàng xóm
khuân
từ miền Nam ra nghe lén qua cái Akai cũ to như hòm lương khô, cái món
ấy
làm cho xương thịt thiếu ăn cứ muốn rão ra và những trưa hanh hao Hà
Nội
đâm khó thở.
Khi
đó Ngân chưa biết Trịnh Công Sơn. Mà biết, liệu Ngân đã biết để mà mê
đắm?
Cô
gái mười sáu tuổi không hề nghĩ rằng chỉ sau đó mấy năm thôi mình sẽ
đổi
khác hoàn toàn. Càng thiết tha bao nhiêu thì càng có vẻ ơ hờ. Càng nồng
nhiệt
bao nhiêu thì càng cô độc. Trịnh Công Sơn? Rồi Ngân sẽ biết nhưng không
phải
ngay lập tức đã cảm được. 'Biển nhớ.' 'Tình nhớ.' 'Cuối cùng cho một
tình
yêu.' 'Rừng xưa đã khép.' '...Tình yêu như trái phá con tim mù lòa...
Một
mai thức dậy chợt hồn như ngất ngây... Chợt buồn trong mắt nai... Tình
yêu
như vết cháy trên da thịt người... Tình xa như trời... Tình gần như
khói
mây... Tình yêu như nỗi chết cơn đau thật dài... Tình cho nhau môi ấm
một
lần là trăm năm...' Tình nào mà chẳng như tình nào. Có gào thét than
van
cho lắm cũng có khác gì nhau lắm. Ngân sẽ còn phải nhắm mắt lăn đời
mình
qua những đam mê và khó nhọc của ngày sống thời hậu chiến rồi mới hiểu
ra
rằng những than van, những gào thét, những day dứt giữa những cơn say
dài
những cơn say vùi của Trịnh cần phải cảm không phải bằng trái tim đau
khổ
vì yêu hay vì đã chán yêu mà phải bằng trái tim hoang mang của người
biết
mình là duy nhất, lớn lao và nhỏ bé, tột cùng. '...Từ lúc đưa em về là
biết
xa ngàn trùng...' Đấy không còn là nỗi thiết tha tuyệt vọng của kẻ đang
yêu.
Đấy là nỗi bi thảm của người - xa - lạ, mến thương cuộc đời này, mê đắm
cuộc
đời này, cô độc tuyệt đối trong cuộc đời này và mỗi mối tình sống qua,
mỗi
người tình quen thêm chỉ là thêm một bước, vào hoang vu.
Ngân
hiểu ra điều ấy hơi bị sớm. Nhưng cần một buổi chiều, một cơn gió bời
bời
khua trong vòm sấu làm chao nghiêng một chiếc lá bên trời, một mùi
hương
thơm ngát của tách cà phê quán vắng, một con người sẽ bước ra khỏi đời
Ngân,
điều mà cả Ngân và người ấy khi chia tay đã không hề nghĩ.
*
...
Trời trở lạnh đột ngột. Phong phanh trong cái áo mỏng đứng run cầm cập
giữa
đám người chen chúc trước cửa hàng chất đốt, Ngân buồn nản nghĩ tới cái
cổ
họng nhạy cảm và lồng ngực ốm yếu của mình. Bài tập lớn chưa làm. Sắp
thi
điều kiện rồi. Rồi sau đó là kỳ thi tốt nghiệp. Nhưng trước mắt sẽ là
những
đêm không ngủ không chạy đâu cho thoát vì khó thở, sẽ là những ngày nằm
bẹp
dí trên giường kẹp giữa hai chồng sách sẽ đọc và đã đọc. Nhưng cũng
không
thể bỏ về. Đã xếp hàng suốt từ trưa tới giờ. Bìa chất đốt chiều nay hết
hạn.
Bố đi làm. Chị đi thực tập. Không còn trông được vào đâu. Ngân không
chờ
đợi cái tin ấy vào đúng lúc ấy.
Việt
dừng xe sát bên Ngân, nhẹ giọng: 'đặt lên đây' và đỡ lấy can dầu nặng
trĩu
trong tay Ngân. Có cái gì thương mến lắm trong mắt Việt. Ngân không
biết
khuôn mặt trắng xanh, cái áo cũ mỏng Ngân vừa co hai vạt quấn chặt tấm
thân
thanh mảnh, mái tóc dày buông lơi của mình đã siết lấy trái tim Việt
trong
khoảnh khắc đó của buổi chiều đó. 'Vừa lĩnh học bổng. Muộn muộn Việt
tới.
Đi nhé!' Vẫn là thương mến, nhưng thêm một chút gì như gượng nhẹ, như
vui
thầm trong mắt Việt, khi Ngân gật đầu. Việt không lên nhà, trước khi
quay
xe, Việt ngần ngừ rồi bảo: 'Phan viết thư về kể chuyện có cô bạn nhà ở
gần
gần đây'. Mặt Ngân không thể tái hơn được. Ngân mỉm cười. Cả ba là bạn
cũ...
Đen
hay nâu? Ngân đừng uống đen. Nâu nhé!' Vẫn Việt nói. Việt ngồi quay
lưng
ra cửa. Ngoài kia gió vẫn bời bời. Lá sấu quay tròn lấp loáng trong sắc
trời
xám sáng chỉ có vào những ngày cuối thu gió trở như thế này. Ngân cầm
cái
thìa, gẩy một chút bơ vào tách cà phê chị chủ quán vừa mang tới, chăm
chú
nhìn giọt bơ loang. Mùi cà phê ngầy ngậy và khắc khoải. Việt vẫn nói,
vẫn
nói. 'Vậy đấy. Phan đã có một cô bạn. Khi nói một cô bạn thì đã không
còn
là bạn. Phan đang xoay làm chuyển tiếp sinh...' Ngân lắng nghe, nghĩ,
tưởng
như mình thờ ơ. 'Không một ai biết chúng mình đã viết cho nhau những lá
thư
như thế nào. Cả Việt nữa. Nhưng lẽ nào Việt không biết chúng mình...'
Ngần
ấy năm Ngân thân tình với bao nhiêu người nhưng không thân thiết riêng
một
người nào. Không hẹn thề, không gì cả, nhưng những lá thư mang màu sắc
một
trời xa và những lá thư Ngân gửi đi bằng con tem mua từ đồng học bổng
chắt
bóp dán bằng cơm nguội đã riết Ngân vào trong ảo giác về một cái gì
tuyệt
đối và vĩnh viễn. Có thể gọi là tình bạn. Cũng có thể là tình yêu. Bởi
vì
chỉ có hai người, chỉ có khát khao, cảm hiểu. Thánh thiện. Nguyên chất.
Tất
cả bạn bè đều nghĩ thế. Mà đến hai gia đình cũng nghĩ thế. Việt chắc
càng
nghĩ thế. Vì Việt thân với Phan đến thế và vẫn là người chuyển thư Phan
cho
Ngân. 'Mấy năm rồi nhỉ? Chẳng bao lâu nữa tất cả sẽ ra trường...' Ngân
xoè
bàn tay hất mái tóc văng về phía sau lưng, cố gắng rời mắt khỏi một
chiếc
lá sấu đang vật lộn trong gió tìm cách đậu xuống hè phố: 'Việt vừa bảo
gì
Ngân? À, Việt được dự kiến ở lại trường? Tuyệt!...' Việt cắt ngang lời
Ngân,
thô bạo: 'Việt bảo Việt muốn có Ngân. Việt muốn sống cùng Ngân khi bọn
mình
ra trường. Việt không muốn cứ phải làm hộp thư sống hộp thư chết của
Ngân
với những ai ai! Ngân nói đi!' Việt chộp lấy bàn tay Ngân: 'Nói đi! Nói
đi!'
Ngân ngẩn người, tỉnh hẳn. Quán vắng. Chỉ có hai người và chị chủ quán
đang
hí hoáy thay băng mới. Trịnh Công Sơn! Sao lại Trịnh Công Sơn lúc này?
'...Đời
sao im vắng... Người về soi bóng mình giữa tường trắng lặng câm... Có
đường
phố nào vui cho ta qua một ngày... Có sợi tóc nào trôi trong trí nhớ
nhỏ
nhoi... Không còn không còn ai... Ta trôi trong cuộc đời... Không chờ
không
chờ ai...' Ngoài trời mưa giăng tự lúc nào. Ngân khẽ khàng rút những
ngón
tay ra khỏi bàn tay Việt, với tách cà phê nguội uống ực ực. Chua loét.
Vô
duyên. '...Có những ai xa đời quay về... về lại nơi cuối trời làm mây
trôi...'
Việt nhìn vào mắt Ngân, vẫy chị chủ quán rồi lặng lẽ ra mở khóa xe.
Ngân
ngồi nhìn phố chiều đông dần lên, nhìn những dáng người mải mốt trong
mưa
lất phất. Phía bên kia ngã tư, người ta đang dựng một tấm pano mới.
Bác.
Mặt gầy và mắt sáng. Tay chống nạnh. Và phía dưới là hàng chữ to đùng:
'Bác
đang cùng chúng cháu hành quân.' 'Bác đang cần chúng cháu hành quân...'
Ngân
lắc đầu, xua đi một nỗi nhớ. Phan. Phan hay gào câu hát láo lếu ấy. Cứ
tưởng
như Phan thì khó sống. Vậy mà lại chính Phan là người biết cách hòa hợp
trước
với cuộc đời này. '...Ngày ra đi với gió - ta nghe tình đổi mùa...' Đâu
rồi
ôi những non tơ?
Sau
này, Ngân không biết nên ơn hay nên oán Trịnh Công Sơn. Liệu không có
Trịnh
Công Sơn xót xa và giản dị đến ma quái, liệu không có giọng hát rền rền
mê
mệt một nỗi ai hoài trống trải của Khánh Ly, không rõ Ngân có chú tâm
hơn
không khi nghe Việt nói lời yêu dấu ấy. '...Ngày ra đi với gió... Ta
nghe
tình đổi mùa... Rừng đông rơi chiếc lá... Ta cười với âm u... Trên quê
hương
còn lại ta đi qua nửa đời không thấy một ngày vui... Đường trần rồi
khăn
gói... mai đây chào cuộc đời... nghìn trùng cơn gió bay...' Không bao
giờ
họ trở lại câu chuyện cũ, dù vẫn đến nhà nhau chơi, vẫn lang thang cùng
nhau,
vẫn lo lắng cho nhau. Nhưng buổi chiều ấy vĩnh viễn trở thành màn sương
mưa
phủ lấy một cõi chung riêng tư nhất mà không một ai muốn vén. '...Nhìn
lại
nhau con mắt lo âu xin vỗ về muôn yêu dấu... Nhìn lại nhau che những
cơn
đau...' Trịnh Công Sơn bất chợt, đã buộc Ngân phải soi ngắm lại cuộc
sống
quanh mình, phải nhìn thẳng vào từng ngày sống của mình.
Đấy
là những ngày kì quặc và buồn thảm. Nhưng hầu như không ai nhận thấy.
Có
biết một cuộc sống khác hơn đâu để mà ao ước rồi buồn. Chỉ những lo là
lo.
Toàn chuyện áo cơm phải từng ngày đối mặt. Niềm vui chiến thắng, đúng
hơn
là niềm vui yên hàn đã nhoè mờ theo thời gian. Niềm tin thì, không ai
muốn
nói và dám nói, nhưng cứ từng ngày mai một. Làm sao có thể tin vào một
sự
đổi thay kì diệu, rằng 'thắng giặc Mỹ ta sẽ xây dựng hơn mười ngày xưa'
khi
thành phố hình như mỗi ngày một xao xác và nghèo hơn, khi định lượng
gạo
còm cõi thế mà mậu dịch cũng không thể cung ứng. Làm sao có thể yên tâm
khi
chiều chiều nghe tiếng reo à à cuả bọn trẻ con là phải buông tất cả
sách
vở chạy ra chen lấn đổi bánh mì tem phiếu. Những cái bánh mì khô, rắn
và
chua mậu dịch bán thay gạo ấy Ngân lèn trong thùng gạo rỗng, vài ba hôm
lại
chờ lúc nhọ mặt người bê đi bán tống bán tháo được đồng nào hay đồng ấy
cho
mấy bà phe phẩy đầu ngõ. Những giờ học triết, kinh tế chính trị học,
chủ
nghĩa xã hội khoa học và lịch sử Đảng trở thành lạ lùng. Cái cần nhất
là
nhập tâm, không đối chiếu so sánh với đời sống hàng ngày làm gì cho
mệt.
Chân lý của chủ nghĩa là một cái gì đó không thể và không nên tìm cách
chứng
minh, bởi vì nó nằm ở thì tương lai, của những thế hệ sau nữa. Không lẽ
thế
hệ trẻ của dân tộc này lúc nào cũng phải thực hiện kỳ vọng vào tương
lai
của thế hệ già? Nghĩa là không một thế hệ nào được sống cho đúng nghĩa!
Ý
nghĩ này Ngân không bao giờ dám chia xẻ với một ai trong đám bạn bè.
Học
hành trở thành gánh nặng vô nghĩa, càng vô nghĩa khi biết chắc tốt
nghiệp
rồi sẽ không mấy đứa thi thố nổi. Sẽ có những đứa chễm trệ trong cơ
quan
một bộ nào ngay giữa Hà Nội nhờ vào thần thế ai đó. Còn những đứa như
Ngân,
hôm nay no đói thế nào ra phố vẫn tóc ngang vai, guốc cao, quần áo là
kỹ
lưỡng và vẫn rủ rê nhau cà phê cà pháo khi trong túi có tiền, ngày mai
chưa
biết bị bắn về phương trời nào của Tổ quốc, để rồi chết dí ở đấy với
đồng
lương đùa nhả, bao nhiêu điều học được cứ chột dần đi. '...Nơi em về
trời
xanh không em...?' Không ai có thể hỏi một câu như thế vào lúc ấy, ngay
cả
để trêu chòng nhau. Cho nên câu hát càng hoang mang, ứa một khát khao.
Bao
nhiêu lần lang thang trên phố, ngang qua mấy hàng thuốc lá có cô bán
hàng
xinh xắn, bao nhiêu lần Ngân tự hỏi đấy có phải là một nữ sinh viên đã
tốt
nghiệp chống lệnh công tác hay không? Đã tự hỏi liệu mình có dám đánh
đổi
tất cả cho một cuộc sống yên bình nửa vời và thảm đạm như thế ở thành
phố
thân thương này?
Mà
vẫn tự biết '...vai em gầy guộc nhỏ... như cánh vạc về chốn xa xôi...'
Từ
buổi chiều gió trở Việt bỏ về trước còn có bao nhiêu lần Ngân như thế
một
mình. '...Buổi chiều ngồi ngóng những chuyến mưa qua... Trên bước chân
em
âm thầm lá đổ...' 'Những chuyến mưa qua... ' Ôi Trịnh! Phải, Hà Nội mùa
thu
nhiều mưa lắm, hết mưa ngâu, hết bão rồi lại những cơn mưa dầm, lững
thững
đến rồi đi. Những cơn mưa buộc người ta ngồi lại, lặng lẽ nơi này, để,
đôi
khi, chỉ đôi khi thôi mà đau đớn mãi '...nhìn lại mình đời đã xanh
rêu...',
dù còn rất trẻ, chưa sống được bao nhiêu.
Giống
như là mộng mị. Vẫn sống đấy, vẫn lo toan đấy, vẫn nói cười đấy, vẫn
yêu
đương loạn xạ đấy, nhưng không thiết tha với một cái gì, ngoài khao
khát
về một cái gì tuyệt diệu lắm tồn tại đâu đó, có thật, nhưng mà mong
manh,
có lẽ còn vô nghĩa và vô ích giữa cuộc đời toàn những bươn chải không
đáng
như thế này. Không còn là lý tưởng đã hối thúc mấy thế hệ liền suốt mấy
chục
năm qua, đã một thời non trẻ hết mình tin tưởng. Những trang sách đẹp
chỉ
làm cho nỗi thiết tha thêm tuyệt vọng. '...Đôi khi ta lắng nghe ta...
nghe
sóng âm u dội vào đời...' Những ngày ấy đã tạo ở Ngân thói quen lang
thang
phố vắng một mình. Bao chiều. Bao đêm. Sương buông mờ phố nhỏ. Mùi lá
đốt
quyện trong sương buông lúc chiều hôm bình thản. Là cái gì chỉ thành
phố
này ngày ấy mới có. '...Gió heo may lại về... Chiều tím loang vỉa hè...
Rồi
mùa thu bay đi... Trong nắng vàng chiều nay...' Đèn đường bật sáng héo
hắt
dưới ánh chiều còn rớt lại và nhoè dần đi trong sương cuối thu mỗi lúc
một
phủ dày hơn. Hoa sữa dậy một vùng hương ấm cơn gió lạnh vừa xộc tới. Đã
mấy
mùa thu sang như thế. '...Đêm khuya nhìn đường phố... thành phố hoang
vu...'
Không phải một lần Ngân cảm giác được cảm giác của người nhạc sĩ ấy.
Cuối
phố đằng kia, nơi có hàng cây cao chứa đầy ánh sáng xanh tái của những
bóng
đèn cao áp mới được lắp, có đôi lần Ngân thấy Việt đạp xe rất chậm,
cũng
một mình, và Ngân đã rẽ sang lối khác. Đồng điệu ư và ích gì cho nhau?
Nói
gì với nhau? Rằng từ đấy đã yêu nhiều lần lắm rồi chăng? Rằng dù thế
vẫn
chưa biết thế nào là mê đắm? Rằng vẫn không thể cùng nhau! Hay không
dám!
Sợ làm xước những tin yêu. Vì không thể sống khác! Không thể từ bỏ đam
mê,
đam mê một cái gì rất đẹp, có thực mà vô ích. Như màu nắng hanh kia.
Như
tiếng vọng trong lá kia của gió. Như một con người vĩnh viễn trượt qua
đời
mình, vĩnh viễn mang đi mất của mình chút hy vọng, chút ảo giác vào một
cõi
sống bình yên, trong trẻo, lãng đãng. Và bởi thế, mọi mối tình đều dần
tàn
lụi, tắt ngấm. '...Từng người tình bỏ ta đi như những dòng sông nhỏ...
Ôi
những dòng sông nhỏ lời hẹn thề là những cơn mưa...' Không ai có lỗi.
Chỉ
có điều sống thật khó. Từng ngày rời rã, từng ngày hoang mang. '...Màu
nắng
hay là màu mắt em... Mùa thu mưa bay cho tay mềm... Chiều nghiêng
nghiêng
bóng nắng qua thềm... Bàn tay xanh xao đón ưu phiền... Ngày xưa sao lá
thu
không vàng... Em qua công viên bước chân âm thầm...' Là thật đấy, rất
thật,
mà vẫn như là hoang tưởng giữa những ngày rất nhiều sự kiện, kì quặc và
buồn
thảm ấy.
'...Ngọn
gió hoang vu thổi suốt xuân thì...' Thầm thì cùng Khánh Ly, bao giờ
Ngân
cũng kinh ngạc. Người nhạc sĩ ấy đã sống thế nào trước đó, ở một miền
đất
với Ngân cho đến bấy giờ vẫn là một miền đất lạ để viết nên bài ca đó.
Như
là cho cả thế hệ Ngân sau này, ở một miền khí hậu khác, với một nhịp
sống
khác. Ngân đã không thể nghĩ về Phan như cũ, nhưng không bao giờ Ngân
tiếc
nữa. Có lẽ mọi sự sẽ không thể là như thế nếu giữa hai đứa đã có một
chút
gì, một ước thề, chẳng hạn. Nhưng đã không hề có một điều gì như thế,
cũng
như không một lần trìu mến nắm tay, cũng như không một lần nói lời gì
từa
tựa như thương mến. Sau này, nhiều lần Ngân gặp lại Phan. Và cũng như
với
Việt, không bao giờ câu chuyện dài xưa được nối lại. Nhưng cái cảm giác
hiểu
nhau đến tận cùng, đến độ như thể chẳng hề trôi qua khoảng đời vừa bình
thản
vừa run rẩy tin yêu ấy thì vẫn còn lại đó, mặc dù Ngân rồi sẽ dần quen
chấp
nhận cái hữu hạn của con người. Sự lặng im đầy cẩn trọng của Phan, với
Ngân,
như một lời xin lỗi, xin lỗi khát khao xưa, đã vô tình để cho Ngân hiểu
Trịnh
Công Sơn, theo một cách nào đó. Người nhạc sĩ ấy đã đến và ở lại trong
trí
nhớ khắt khe của thành phố này, của Ngân, không phải bằng những bài ca
phản
chiến, không phải bằng tình ca viết cho một người con gái tuổi tên nào.
Rất
mỏng và rất nhẹ, mà dai dẳng, đầy ám ảnh là những bài ca Trịnh viết
dường
như cho chính mình, như về chính mình, kẻ sau này cuối đời sắp về lại
nơi
cuối trời còn tự dặn 'đừng tuyệt vọng tôi ơi đừng tuyệt vọng.' Câu ấy,
ở
tuổi xuân thì bọn Ngân không tự biết để mà nói. Cũng chưa có để mà hát.
Nhưng
đã sống nó một cách vô thức, bởi dù sao thì vẫn không thể chết, vẫn
muốn
biết '...ta là ai mà còn nghe dấu lệ... ta là ai mà còn trần gian
thế...'
Ta là ai? '...Ôi áo xưa lồng lộng đã xô dạt trời chiều...' sao vẫn
thiết
tha thương nhớ, như vẫn nhớ thương niềm vui hiếm hoi buổi sáng năm học
cuối
cùng ở ngôi trường ấy, gió đầu hè mát rượi đưa từ phố xa vào lớp học
lời
ca làm rung lên trong cả lũ con gái con trai mười bảy mười tám tuổi một
cái
gì mênh mang không thể đặt tên, tuyệt vời, diệu vợi. '...Gọi nắng trên
vai
em gầy đường xa áo bay... Gọi cho nắng chết trên sông em dài... Gọi tên
em
mãi suốt cơn mê này... Đời xin có nhau... Áo xưa dù nhàu cũng xin bạc
đầu
gọi mãi tên nhau...' Không có những gian nan của thời hậu chiến, mà
trước
hết, không có cái hoang mang bắt buộc chứ không phải là bất chợt, chứ
không
phải là vì rửng mỡ bới chuyện trầm tư của những ngày sống ấy, khi người
ta
luôn phải cúi nhìn hố thẳm giữa những điều trông thấy nghe thấy, chưa
chắc
Trịnh Công Sơn ở lại được với thành phố kiêu bạc này, như đã. Cũng như
nếu
không phải là Khánh Ly ma mị, rã rượi mà không sướt mướt, quạnh quẽ cơ
hồ
lãnh cảm, cứng cáp mà tan hoang, như đang lục lọi chính tâm hồn mình,
đã
chắc gì ngay lập tức... Thành phố này từ ấy có thêm một nỗi yêu thương:
Trịnh;
có thêm một nỗi nhớ: Trịnh Công Sơn. Giá không phải là như thế! Khi
những
thế hệ sau vẫn cứ luôn phải soi bóng mình, vẫn phải đau đớn vì đời im
vắng,
vẫn thấy dường như nỗi lòng mình đang được hát ca trong nhạc Trịnh, vẫn
tìm
tới Trịnh Công Sơn không phải như tìm tới một quý báu còn đọng lại thì
điều
đấy chỉ có nghĩa là cuộc sống không có dời đổi, như lẽ ra phải thế.
Trịnh
Công Sơn không nói hộ ai điều gì, không gửi gắm giùm ai điều gì. Trịnh
làm
thức dậy trong mỗi người cái điều bao lâu rồi bị nén bẹp dí, là ý thức
về
phía sâu khuất cuả mình và cuộc đời, để có thể níu vào chính mình mà
sống
tiếp, khi miên man thầm thì rên siết một nỗi hoang mang, khi day dứt
mãi
nỗi phù du tuyệt kỳ của kiếp. '...Ôi cát bụi tuyệt vời...' Ai biết sỏi
đá
không đau?
***
...
Mãi mãi về sau này, rất nhiều khi Ngân còn bàng hoàng ngỡ trong lồng
ngực
mình vẫn đập mãi trái tim mười sáu tuổi. 'Bao nhiêu năm rồi còn mãi ra
đi...
Đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt...' Lời ca réo gọi, nhắc mãi, rứt
mãi
về tuổi thiếu nữ hoang vu ấy. Chị hiểu rằng Trịnh ám ảnh còn hơn một
tình
chung. Và cay đắng. Sẽ không bao giờ, không có ai đạt tới được nỗi cô
đơn
ấy của người nghệ sĩ ấy. Trịnh bắt mỗi người phải nhìn cho ra đỉnh cô
đơn
của chính mình. 'Đâu là đỉnh cô đơn của mình?' Lần đầu tiên hiểu ra
rằng
Trịnh không phải là tri kỷ của ai ngoài Trịnh, và mình, cũng chỉ mình
là
tri kỷ của mình thôi, Ngân kinh hoàng.
Ngày
Trịnh mất, Ngân đã ở rất xa những buổi chiều nắng thủy tinh nơi quê
nhà.
Đi rồi... Tưởng rằng được quên thương nhớ... Mà không! '...Lòng thật
bình
yên mà sao buồn thế...' Nghe nói đám tang Trịnh là một đám tang huyền
thoại,
với cả biển người đưa. Nghe nói, người ta đồng thanh nhạc Trịnh trước
nấm
mồ chưa lấp. Nghe nói, có cả đoàn tăng ni đã đến nghiêng mình trước
linh
cữu Trịnh và xin hát gửi theo linh hồn gió nhẹ ấy 'Một cõi đi về'. Bài
hát
từ đó được người Sài Gòn coi là 'Chùa ca'. 'Mình sẽ hát thầm bài gì vào
lúc
ấy?' Chọn lựa này khó biết chừng nào. 'Tại sao mình không thể xúc động
như
bao người?' Ngân tự hỏi, tự hỏi. 'Liệu mình có đi viếng Trịnh nếu như
có
thể?' Nhưng ngay lúc tự hỏi mình như thế, Ngân đã biết rằng mình sẽ lại
xử
sự một cách không bình thường trong mắt bạn bè, quá ư là bình thản, y
như
năm nào những Nguyễn Tuân những Lưu Quang Vũ mất. Họ đã sống một cuộc
đời
không bình thường, với những đau đớn và vui sướng không thường, với
những
hi vọng và tuyệt vọng cao vút sâu hút. '...Bao nhiêu năm rồi còn mãi ra
đi...
Đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt... Đường chạy vòng quanh một vòng
tiều
tụy... Một bờ cỏ non một bờ mộng mị...' Giờ họ không còn phải than van
vì
đôi vầng nhật nguyệt trên vai cùng những day dứt của cõi sống hư hao
này.
Giờ họ được bước thẳng vào cõi chết. Nơi đó chắc có màu bình an sương
mù.
Sao không để cho họ nhẹ nhàng đi vào cõi ấy. Những lập lòe rực rỡ,
những
thống thiết trong lễ tưởng niệm bây giờ và và vui vẻ (chắc chắn) trong
những
lễ kỷ niệm năm năm mười năm hai mươi năm họ mất có phải dành cho người
đã
khuất? Chắc chi...
Trích
từ 'Gió của thời khuất mặt'
Lê
Minh Hà