Tình lơ…
Nguyễn Ngọc Tư
Lâu
rồi, má tôi có đi coi
phim Công lý báo thù người ta chiếu đằng sân Xã ủy. Dượng Bảy (lúc chưa
phải là
dượng Bảy) bữa đó cũng coi chung, ngồi kế bên má, gần cái phông vải
lớn. Coi
hát thì chỗ này là ngon lành nhất, nhìn đào kép rõ, mụt ruồi giả của họ
bị rớt,
hoặc áo vua rách mình cũng thấy, nhưng đây là chiếu bóng, cái phim từ
đầu tới
cuối chỉ ca hát với đánh nhau. Cứ mỗi lần nhân vật ra đòn là má tôi né,
thấy
máu má tôi che mắt kêu trời, tới cảnh mấy con trăn rắn lớn bò tới thì
khán giả
đều sụt lùi ngã rạp sắp lớp lên nhau la ó ré. Má tôi sợ tới quên trời
đất, dúi
mặt vô lưng người thanh niên lạ hoắc bên cạnh, tức dượng Bảy. Khi phim
gần hết,
nam nữ chính múa hát ứ ư thì dượng Bảy đã chính thức chạm vào ngón tay
út của
má.
Hết phim má tôi để lại một
cái lông ngỗng, em là cháu ông xã Nghiệp, rồi chìm mất vào dòng người.
Năm bữa
sau dượng Bảy (lúc đó sắp là dượng Bảy) nhờ một người bạn của ông ngoại
tới
nhà. Bữa đó má tôi chở mía đi lò đường để ép, dì Bảy ở nhà nấu cơm. Bạn
già của
ông ngoại khều dượng Bảy hỏi, “mầy thương đứa đó hả?”. Dượng ngó cái
người thấp
thoáng trong bếp, thấy cái eo thon, đuôi tóc dài, gương mặt nhỏ nhắn
xinh xẻo,
trên môi lúc nào cũng nhoẻn cười, dượng tưởng người quen liền gật đầu.
Tới đám
ăn trầu uống rượu mới hay dì Bảy có người chị sinh đôi, tức là má tôi.
Hai
người giống nhau đến mức khó mà phân biệt được, nên đã nhiều người há
hốc, “Ủa,
mới thấy con Bảy xách giỏ đi chợ cái độp giờ sao nó làm cỏ ở nhà rồi?”
Dượng
Bảy cũng cầm khay rượu há hốc ra, hết nhìn cô chị rồi tới cô em. Bẽ
bàng. Lỡ
làng.
- Cô không phải người tôi
thương.
Dượng Bảy phũ phàng nói thẳng
trong một tối say mèm, say đến nỗi thay vì chỉ thẳng dì Bảy thì dượng
dứ dứ vô
cái gối. Dì Bảy mắc cười quá, khẽ khều sườn chồng, nhỏ nhẻ, em bên này
nè anh.
“Tôi nhớ em từ bữa đi coi chiếu bóng tới giờ…”, dượng nói sau khi day
lại ôm
dì, sau khi cầm ngón út nhỏ nhắn của dì nắn mãi. Dì kệ, để tay mình ở
đó, mặt
héo lòng hon bỡi bàng hoàng, phải như bình thường dì đã thanh minh giòn
giã,
“Đây Bảy à nghen, con Bảy, không phải Sáu…” Nhưng dì biết nói gì cũng
muộn,
người nhầm lẫn là chồng dì, tối đó đúng tối tân hôn.
Bữa sau ra vườn đắp mấy họng
đìa, hồn vía để đâu mà dượng xắn lưỡi dá vô chân, máu chảy đầm đìa. Dì
Bảy bứt
lá chuối non nhai nghiến ngấu đắp lên vết thương của dượng, máu trôi bả
chuối
này dì đắp lên bã chuối khác, miệng không hay chát. Dượng lắc đầu nói,
cô không
phải người tôi thương, người ta kia thấy máu trên phim còn không dám
nhìn…
Hôm gặt, dì đẩy xuồng lúa bó
trên mương ruộng cạn, mồ hôi này chưa khô mồ hôi kia lại tươm bê bết,
lúc ăn
cơm dượng ngồi gần nhăn mặt, cô không phải người tôi thương, đàn bà gì
đâu mà
chua lè, người ta kia thơm phức như múi mít…
Năm sau vợ chồng cãi nhau,
bữa đó chồng có rượu nói ngang, tức quá vợ đá vô ống quyển của dượng
rồi té
chạy. Chồng rượt sát đằng sau. Lọt qua cây quao che khuất tầm nhìn, vợ
liền xõa
tóc đủng đỉnh đi ngược lại, hỏi lớn, “dượng Bảy, cầm chổi chà chạy đâu
gấp
vậy?”. Chồng tưởng chị vợ tới chơi, khựng lại sượng trân, “à, tôi.. tôi
đuổi mấy
con gà…” rồi mời vợ vô nhà, rót nước cho vợ uống, hỏi vợ đói bụng không
để
chồng nấu cơm. Vợ nằm chờ cơm đòng đưa trên võng, ngó dượng chổng mông
thổi
lửa, mắc cười nhưng buồn quá, không cười được. Tối đó chồng chắc lưỡi
hít hà
xoa dầu gió vô chỗ chân bầm tím, chồng nói cô không phải người tôi
thương,
người ta kia thấy đánh nhau trong phim còn sợ...
Năm sau dì sinh con gái đầu
lòng, tóc rụng xơ xác, dượng Bảy ngó lom lom vào đỉnh đầu trống trãi
nói, cô
không phải người tôi thương, người ta kia tóc nắm một vốc, mướt rượt…
Cô không phải là người tôi
thương, sau này dượng còn nhắc đi nhắc lại câu này, mỗi khi say. Mà
nghề thợ
mộc cất nhà của dượng thiếu gì dịp say. Dỡ gỗ, nhậu. Lên đòn dông,
nhậu. Lợp
nhà, nhậu. Nhưng say nhất là về đám giỗ bên vợ, phải ngượng ngập gặp
chị vợ lúc
này cũng đã có chồng, phải nhớ lại mùi tóc, làn da, ngón tay nhỏ xíu
nóng rẫy
năm xưa. Nhưng đáp lại cái câu tạt mặt phũ phàng vô duyên vô dùng là
một cái
nhoẻn cười, cũng đôi khi dì Bảy hỏi lại, “chắc không à?”, mà dượng có
lần dõng
dạc nói chắc, dì vặn ngay, ‘vậy sao hồi hôm ôm tui?”. Dượng Bảy không
biết trả
lời sao, đành ngoẹo đầu ngáy o o.
Có lần dượng đi đám giỗ ba
bữa chưa về, dì lấy tờ giấy vẽ bản đồ nhà mình, vẽ sông Cái Tàu cong
cong ẹo ẹo
qua rạch Giồng Ông, vẽ chòm cây trâm bầu dưới bến, vẽ cái nhà có bàn
ông Thiên
đằng trước, ghi chú rõ ràng “Nhà Hai Hiệp”. Trâm bầu thì dì viết chữ
“trâm
bầu”, không thôi người ta nói đó là so đũa sao. Xong dì sai con đem tờ
giấy cho
dượng. Đi te te về, dượng nạt, ý cô nói tui đi nhậu không biết đường về
nhà hả?
Cô sâu cay hết biết. Thiệt là… cô không phải người tôi thương, người ta
kia mủ
mỉ thật thà…
Ba mươi năm sau, dượng Bảy
đột quỵ. Chân yếu, miệng méo, xãi lai nằm một chỗ, mỗi khi dì dìu đỡ
vào nhà
tắm, giặt khăn với nước ấm lau khắp người, thay quần áo cho, dượng mắc
cỡ quá
nói câu gì đó, dì Bảy phiên dịch là, “cô đâu phải người tôi thương.
Người ta
kia kín đáo, ý tứ tới cái tên còn không dám nói thẳng ra…”. Dượng nghe
chảy
nước mắt. Dì hết hồn, hớt hãi nhắn xuống xóm Rẫy kêu má tôi qua, để an
ủi tinh
thần dượng.
Buổi đó nhá nhem, đèn đỏ ối,
dượng Bảy nhìn má tôi rồi ngơ ngác ngó quanh tìm dì, rướn cái cổ lên
dượng nói
từng chữ lục cà lục cục, “chị không phải người tôi thương…”
Nguồn
Tuyệt!
Gấu lâm đúng tình trạng này,
không chỉ một, mà những hai lần lận!
Tình lơ…
Nguyễn Ngọc Tư
*
Note: Truyện này,
trong Liêu Trai Chí Dị toàn tập, Tập II, do Vọng Chi Nguyễn
Chí Viễn và
Trần Văn Từ dịch, nhà xb Văn Hóa Thông Tin, 1996, có tên là Tiểu
Thuý. Nội
dung đôi chỗ có hơi khác, chắc là do chuyển dịch.
Theo Gấu, bản của
Vọng Chi & Trần Văn Từ đọc thú hơn.
Liêu Trai có một số truyện, cũng thường thôi, thành
thử trước đây,
thường bị bỏ đi, không dịch. Tuy nhiên, có rất nhiều truyện, đúng là
người
không thể viết được!
Phải có sự tham dự của hồ, của ma, trằn tinh…. (1)
Truyện ngắn trên, đọc song song với truyện của Cô Tư, cũng đủ sướng một
đời,
nhất là lúc về già, đang chờ đi xa. (2)
(1)
Gấu Cái, được một số bạn bè của Gấu đặt cho cái nick là Quỉ Kiến
Sầu!
Nhắc tới Gấu Cái, là cũng có tí lý do. Gấu đã từng nói với cô phù dâu,
cô mới
là người tôi thương, còn nói với cô dâu, chúng mình không hợp…. Về già,
bị đay
nghiến hoài!
Cái cảnh mếu máo, cô…mới là người tôi thương, là có thực, trong lúc quá
say, thảm
thế!
Lẽ tất nhiên, đâu
phải nói với cô bạn!
(2)
Cứ sống như còn trăm năm nữa!
Nhiều quá!
Ba bốn niên nữa, đủ rồi!
Đi chậm quá, không kịp gặp BHD, rồi lại luân hồi mãi mãi, tìm hoài tìm
hoài,
càng khổ!
NQT
*
Tiền
kiếp
của Gấu
*
Hồi nhỏ, sống với ngoại
trong
ngôi nhà thấp tè cũ kỹ bên sông. Buổi tối có rất nhiều ghe hàng bông
neo đậu
lại ngoài bến. Nhờ đám lá dừa nước dày mịt mùng mà ông ngoại tôi trồng
mà khách
thương hồ có chỗ tránh gió giông. Hình ảnh mà mình nhớ nhất, cảm động
nhất, đem
lại cho mình nhiều mơ mộng nhất là những ngọn đèn chong họ treo đầu ghe
le lói
mỗi đêm. Bà ngoại mình cũng đáp lại bằng một ngọn đèn chong ở chái nhà,
cũng
giống như vậy. Mỏng manh. Leo lét. Mà bền dai. Như thông điệp của sự
sống : nơi
ấy có người.
Nguyễn Ngọc Tư: Đèn ảo tắt
bóng
tối là rất thật
Ui chao, đọc một cái,
là bèn
nhớ liền đến những ngọn đèn, hoặc đuốc, ở ven bờ sông, lạch.. như là tín hiệu, để chiếc ghe đón khách ghé vô,
chở về thị xã, những ngày sau giải phóng, Gấu Cái đưa cả đám nhỏ về
vườn, lập cái
chòi trên miếng đất dòng họ bên ngoại chia cho, bên cạnh nhà ông Cậu Tư
Long, xã
Hưng Long, Cai Lậy. Gấu thì vẫn ở Sài Gòn, vẫn làm Bưu Điện, thời gian
chưa bị
tống ra bên ngoài, đang là chủ nhà, bèn biến thành thằng viết mướn, ở
ven nhà,
tức là ở vỉa hè Bưu Điện.
Nơi ấy
có người đang chờ đò.
*
Bên ấy có người ngày mai
ra
trận,
Bên ấy có người ngày mai
đi
xa!
Merde!
Merde!
Gấu
biết tới Miền Nam Sâu
Thẳm, The Deep South, là nhờ… giải phóng. Những đau thương, và thú đau
thương
về Quê Ngoại, giả như không có giải phóng, là chẳng hề được hưởng,
thành thử
lúc nào cũng biết ơn giải phóng!
Chán thế!
Bên ấy có người ngày mai đi tù!
Đi Kinh Tế Mới!
Tình lơ
Nguyễn Ngọc Tư
V/v Tình
Lơ.
Hẳn là Cô Tư đọc Cuốn
Theo Chiều Gió, và bởi vì cùng một nỗi ám ảnh về một Miền Nam sâu
thẳm của một William
Faulkner, một Margaret Mitchell, mà viết ra nó.
Scarlett và Melanie ở đây là
hai chị em giống nhau như đúc. Và thầy giáo Thành trong Một Mối Tình,
thì biến
thành anh chồng ngớ ngẩn lầm cô chị với cô em, hoặc ngược lại.
Cái không khí chung
của tất cả truyện của Cô Tư, vẫn là ảo tưởng về ông anh Bắc Kít ruột
thịt cuối
cùng hóa ra… kẻ thù!
Scarlett khi vỡ ra, bèn đoạn
tuyệt với ảo tưởng, quyết tâm xây dựng lại thiên đàng Tara,
chờ ngày Rhett [chắc là đi học tập cải tạo] trở về!
Một độc
giả TV đã khều nhẹ Gấu,
Cô Tư làm sao mà đẹp như ông Gấu tưởng tượng ra, như thế!
Gấu
này đành phải thú thực, sợ
Cô Tư còn đẹp hơn cả những W. Faulkner, những Margaret Michell! Tất cả
những sáng tác
của Cô Tư đều bàng bạc trong đó, một Miền Nam đã mất, và gốc rễ của nó,
phải tính
từ thời Adam và Eva bị tống ra khỏi Vườn Địa Đàng, biến thành một lũ
“giả-Do Thái”
[giả ở đây giống như trong từ ‘giả cầy’!],
lang thang khắp miền trái đất, một nửa reo rắc tai ương, một nửa ăn mày
lòng thương
hại của nhân loại.
*
Quán
nhớ
Trong
đám bạn nhỏ cùng xóm,
lớn lên tản mác, chỉ nó là người đi xa nhất, cách núi sông đã đành, lại
còn
cách biển, bên nầy bên đó không thể cùng lúc ngắm mặt trời lên. Lâu lắm
nó mới
về, nó bảo, bây giờ xứ mình cái gì cũng khác, nhờ có tình bạn tụi mầy
mà tao
còn biết đường về, nhờ một thứ nữa là cái tiệm tạp hoá của dì Hai, may,
cứ nhìn
tiệm đó mà tao không lạc.
Lối
sống văn minh không làm
nó quên tiếng "tiệm" ngày xưa, ngày mà cả nó và tôi còn nhỏ xíu, ngày
nào má nó cũng kêu thằng Út ơi, thằng Út à, chạy lại đằng tiệm mua giùm
má ít
đồ. Buổi sáng chạy ra mua tương mua củi về nấu bữa cơm sớm cho má nó
lót lòng
đi làm phụ hồ, ba đi đạp xích lô, trưa cả hai người về, cho đỡ mệt.
Chiều xách
chai mua dầu về thắp đèn, bữa nào ba nó vui, muốn nhâm nhi với mấy ông
bạn, nó
đong thêm xị rượu. Nó biết đi tiệm mua đồ từ lúc còn chưa biết mặt của
mấy tờ
giấy bạc, ở nhà đưa tiền, nó chạy lại xòe tay ra mấy tờ bạc bèo nhèo
đưa dì
Hai, "má con dặn mua hết bi nhiêu đồng muối". Dặn mua ít món còn nhớ,
dặn nhiều nó phải vừa đi vừa nhẩm, gặp cái chạc cây, vấp ngã, quên mất,
lại
phải mếu máo chạy về hỏi lại. Ở nhà sai biểu cái gì còn mê chơi, dùng
dằng chứ
bảo đi tiệm là nó te tái đi ngay, mua món đồ còn dư một vài trăm, thể
nào dì
Hai cũng thối lại bằng mấy cục kẹo chanh, kẹo dừa xanh xanh đỏ đỏ, ngọt
dai
dẳng cả một tuổi thơ của đám con nhà nghèo.
Tiệm
tạp hóa của dì Hai cất
dựa mé sông, nhà nhỏ, hàng hoá chất đầy ra lối đi, treo lùm đùm líu đíu
không
thấy được đầu người. Nhỏ vậy, chật chội vậy mà dường như hỏi món gì
cũng có,
gạo củi mắm muối thì nói gì, tiệm có cả những thứ năm thì mười họa mới
bán được
một lần. Chen chúc nhau những kệ cao kệ thấp, thùng nhỏ, thùng to, hủ
sành, hủ
mủ... không có cái thứ tự nào cho món lớn nhất như sịa nia thúng mủng,
nhỏ nhất
như cục đá lửa, cái dao lam... Bạn tôi nói với tôi rằng, mười mấy năm
qua, mỗi
lần bước vào những siêu thị hàng hóa bày bán hào nhoáng, nó vẫn thường
nhớ tới
tiệm của dì Hai, nó nói có một cái gì đó đầy sự sống, ấm áp trong cái
quán bề
hộn, hỗn độn của dì. Nên nhớ nhiều lắm. Nhớ đùm cốm gạo treo trên vách,
mấy cái
keo đựng bánh kẹp, bánh men, cái diệm đựng củ cải muối để kế bên rổ hột
vịt, ở
góc nhà là thạp đường mía vàng ong óng, một lần nó lén lấy tay mút thử,
dì Hai
rầy, "cái thằng sao ở dơ ở dáy vậy con, sao không nói để dì lấy dao xắn
cho". Nó còn nhớ nắp đậy trên cái lon đựng tiền lẻ của dì lúc nào cũng
dính dâm dấp bột gạo, bội củ năng. Qua bao nhiêu năm rồi, nó vẫn thắc
mắc, tự
hỏi, làm sao dì nhớ rành vị trí từng thứ hàng hoá trong tiệm của mình,
để người
ta hỏi cái gì, dì lẹ làng, phăm phăm lôi ra ngay thứ ấy, mà từ cái chỗ
đôi khi
ta không ngờ tới. Tôi cười, với dì, cái tiệm đó có một trật tự riêng,
tụi mình
không biết được đâu.
Bởi
dì đã mở tiệm hàng này từ
lúc chúng tôi chưa được sinh ra. Có vài ba cái tiệm như thế cho xóm lao
động
nghèo nhưng không có cái nào lâu đời như tiệm của dì. Mỗi gia đình
trong xóm
nhỏ nầy, ai đi ai đến dì rành hết thảy. Buôn bán lâu năm dì còn thuộc
nết ăn,
xài từng nhà. Như cậu Ba chỉ thích ăn bí hầm dừa với đường mía, vừa
ngọt dừa
thanh, dì Chín mê món cháo trắng ăn với cải xá bấu, sáng nào cũng nấu,
nhà mợ
Bảy thích xài xà bông bột hơn loại kem... Với cư dân trong xóm, khi đã
vượt qua
được đận cơm ngày hai bữa thiếu trước hụt sau, ai cũng tự hỏi, hồi đó
sống sao
được nếu vắng những tiệm buôn bán lẻ trong xóm mình ha. Làm ngày nào đủ
chi
ngày ấy, đủ hai ký gạo, hai trăm đồng muối, năm trăm đồng đường, với
bột ngọt,
tương, chao... lắt nhắt, vụn vặt, không người bán biết mua ở đâu. Rồi
mấy đứa
con gái đểnh đoảng như tôi vất vả biết chừng nào, đôi khi không lấy
được chồng
chứ hỏng phải chuyện chơi, vì lâu lâu vô bếp một lần, đang nấu canh,
kho cá, tá
hỏa lên trong nhà hết đường hết muối, sai đứa con nít chạy lẹ ra tiệm
mua về
nêm vẫn kịp, thiệt hú hồn, may quá. Lớn lên, xa nhà, đi rày đây mai đó,
nhớ về
xóm cũ, từng cái cây ngọn cỏ, con đường dường như mỗi thứ đã trở thành
một phần
đời... Cả cái tiệm tạp hóa bình dị, mộc mạc của người đàn bà goá chồng
hiền hậu
mà cả đời chẳng đứa nào quên tên gọi: dì Hai.
Nó
lại thăm, dì Hai than lúc
nầy già cả rồi, con mắt ngó không thấy đường, đêm nào cũng nghe đau
nhức mình
mẩy. Dì nắn bóp tay nó (cái bàn tay chuyên môn lén quẹt đường mía ăn),
khen lúc
nầy con lớn quá, mập ra. Nó cười, thì mười mấy năm rồi còn gì, xóm xưa
trở
thành phố thị, hàng quán tíu tít mọc lên. Mọi thứ đã đổi rồi, sao dì
với tiệm
của dì không thay đổi gì hết vậy? Dì Hai cười, nếu cái gì cũng đổi hết
thì bây
biết đường đâu mà về.
Tôi
thấy chút xíu nữa nó đã
rơi nước mắt. Nó nén lòng, mếu máo cười, bảo, "Lâu quá, hỏng ăn kẹo của
tiệm dì hai, dì bán cho con năm trăm kẹo đi, dì!". Dì cười, "Cái
thằng, buôn bán gì, lâu lâu con mới về, dì đãi'", rồi dì lụm cụm lấy
cho
nó một vốc kẹo dừa.
Hồi
xưa nó cũng mê chỉ mỗi
món kẹo dừa, mê tới mức cả hàm răng sún hết trọi.
Nguyễn
Ngọc Tư
Trích
trong quyển "Nước
chảy mây trôi"
Nguồn
Đặc Trưng
Gấu
cũng có một quán nhớ như
vậy đó, mặc dù không phải là một cô gái, như nhân vật trong truyện.
"ngọt
dai dẳng cả một tuổi
thơ của đám con nhà nghèo"... Lớn lên, xa nhà, đi rày đây mai đó,
nhớ về
xóm cũ, từng cái cây ngọn cỏ, con đường dường như mỗi thứ đã trở thành
một phần
đời... thì
cũng đâu khác, "câu" của Gấu:
Lần
thứ nhì bỏ chạy quê
hương, cùng nỗi nhớ Sài-gòn là sự thật đắng cay mà tuổi già càng làm
thêm cay đắng:
Một giấc mộng, dù lớn lao dù lý tưởng cỡ nào, cũng không làm sống lại,
chỉ một
sợi nắng Sài-gòn....
Tình lơ
Nguyễn Ngọc Tư
Một độc
giả TV đã khều nhẹ Gấu,
Cô Tư làm sao mà đẹp như ông Gấu tưởng tượng ra, như thế!
Gấu này đành phải thú thực, sợ
Cô Tư còn đẹp hơn cả những W. Faulkner, những Margaret Michell! Tất cả
những sáng tác
của Cô Tư đều bàng bạc trong đó, một Miền Nam đã mất, và gốc rễ của nó,
phải tính
từ thời Adam và Eva bị tống ra khỏi Vườn Địa Đàng, biến thành một lũ
“giả-Do Thái”
[giả ở đây giống như trong từ ‘giả cầy’!],
lang thang khắp miền trái đất, một nửa reo rắc tai ương, một nửa ăn mày
lòng thương
hại của nhân loại.
*
Feb 1, 2010
Xe miền Tây
Mình
gọi đó là
“liệu pháp đường xa” mỗi khi cần phải chống sốc vì phải đi về giữa hai
môi
trường sống, hai thế giới khác biệt. Quả thật thần kinh mình hơi… mỏng.
Nên
hoang mang gửi lại ngã ba Trung Lương. Đãi bôi bỏ bên cầu Mỹ Thuận. Ấm
lạnh
người đời mình thả xuống bắc Cần Thơ. Hội hè miên man bỏ lại ở quán ăn
bên đường,
cùng với được mất đắng cay sau những ngày rời tổ. Có quá nhiều thứ phải
bỏ lại,
và mình cần có thời gian. Cũng may đường rất dài mà xe chạy thì chậm
rãi, nhà
cũng xa vừa vặn để mình trở lại là mình (hoặc gần giống mình).
Thôi thì chân chất, ừ
thì quê mùa… miền
Tây mà, vẫn nghèo vẫn xa xôi. Đây không phải Sài Gòn Hà Nội, đây là một
thế
giới khác rồi. Thế giới mà người ta vẫn còn mua bắp luộc, bánh mì ở bến
xe đem
về xứ làm quà, trẻ con vẫn reo mừng tở mở. Xe ghé quán ăn dọc đường,
nhiều
người ngồi chồm hổm chờ ngoài sân không dám ghé mông ngồi vào ghế, sợ
thức ăn
đắt đỏ. Đi qua quầy trái cây mình thấy có người đứng đằng xa ngó, tay
nắn hai
túi áo bà ba mỏng, trên miệng túi cài cái kim tây. Có lần mình ngồi
cạnh một bà
già, cứ ngồi lận lấy mấy hạt lúa từ trong nẹp vạt áo, cắn lóc cóc.
Những người miền Tây
quăn queo lam lũ
thật thà này, bolero này, dầu gió này mình không bao giờ gặp trên những
chuyến
bay. Lý do có vẻ ngớ ngẩn, nên thấy mình ham xe đò có bạn bè cười, mình
chống
chế bằng một câu danh ngôn nổi tiếng, những gì thuộc về con người thì
không xa
lạ với tôi. Nhưng trong bụng nghĩ, thôi bà sến thì nói đại là sến cho
rồi, có
sao đâu…
Ui chao, đọc, chỉ muốn
len lén về!
NQT
*
Cúi
xuống là đất
Note:
Mung nam moi, [2008] Sao bac cang gia cang viet ma.nh vay? Su+c
da^u vay?
Tui cang gia` thi cang khg doc no^~i nu+a, nu+a chan trong nu+a chan
ngoai roi.
Bac tiep tuc song khoe ma.nh va giup do+i nhe.
Blog cua NNT cung lay xuong bai nay. Sao vay? http://ngngtu.blogspot.com/
*
Doc "Cui Xuong La Dat", roi doc may loi ban cua anh ve truyen GdM (2) ,
ve thang con the khong nhin mat me, nho mot bai viet o Viet Bao , viet
ve nuoc
My, bay gio khong nho ten tac gia, chi nho chuyen chi ke : Di vuot bien
voi
chong con, bi hai tac Thai tom duoc . Chi bi hiep, chong bi giet.
Chi
thuong con còn be, chiu dung cho qua con kho nhuc . Vao trai ty nan,
qua My,
mot minh di lam hai job, lo cho con an hoc . Thang be lon len, bi canh
sat bat
vi toi an cuop giet nguoi . Duoc hoi tai sao, no bao tai vi me khong lo
cho no,
khong o ben canh no, khong huong dan no luc no can den chi . Bai viet
co noi
dung rat cam dong, toi nghiep, ma vi tac gia khong biet cach viet sao
cho van
hoa , khong dao sau duoc phan tam ly the tham cua phan nguoi VN , cho
nen doc
xong roi cung thoi , chang thay ai nhac nho den nua .
Ket luan la van chuong moi la yeu to can thiet de dat den mot muc dich
nao do .
Khong co no, du cho hoai bao co to bang troi cung khong ai nghe .
Doc gia TV
*
Tks. NQT
Sao bac cang gia cang viet ma.nh vay?
Gấu đang chạy đua với Thần Chết!
*
Cúi xuống là đất.
Tuyệt.
Làm sáng hẳn ra, những cái tít cũ: Lá Rụng Về Cội, Nước Mắt Chẩy Xuôi...
(2)
Guy de Maupassant.
*
Kỳ vương Kasparov kể một kỷ
niệm vào năm 1985, ở
Hamburg, một mình ông đấu với 32 cái máy PC cùng một lúc. Bốn hãng làm
PC chơi
cờ tướng hàng đầu trên thế giới gửi những cái PC thượng hảo hạng của họ
tới,
trong đó có những cái đặt tên theo tên ông.
Do cái sự PC hồi đó cũng chưa hách cho lắm, thành thử tôi thắng 32-0,
đả biến
thiên hạ vô địch thủ. Tuy nhiên, có một lần, khá căng, khi phải đối đầu
với một
cái PC
mang tên tôi, nếu máy thắng, hay hòa, thì thật bất tiện, vì thiên hạ sẽ
nghĩ
tôi chơi cuội!
Sau cùng, tôi chơi một cái mánh với máy, bằng một cú hi
sinh, và
máy từ chối [Eventually I found a way to trick the machine with a
sacrifice it
should have refused.]
Đúng là những ngày vàng son của con người vs máy chơi cờ!
Gấu
muốn sử dụng kỷ niệm trên đây, của Kỳ Vương, để viết
về cái sự viết trang Tin Văn, “một mình chống với tri thức của cả thiên
hạ mũi
lõ”, (1) và cũng là để “chữa thẹn”, về mấy cú sơ suất về dịch thuật vừa
rồi, và
cũng để cám ơn hai vị tả hữu hộ pháp của TV, một về tiếng Tây, và một
về tiếng
Anh.
Nhờ có họ, mà Gấu yên tâm dịch
tưới, vì nghĩ bụng, sai, thể nào họ cũng không bỏ qua!
(1)
V/v
Một mình "Gấu vs tri thức mũi lõ", xin đọc thêm bài sau đây:
Đọc
Buồn Nôn, La Nausée.
Trong
một bài viết về La Nausée, tôi có nhắc tới một kỷ niệm về nó, lần ngồi
Pagode,
vào cái thời mới tập tành viết, tập tành đọc sách Tây, và đã dám hùng
dũng
tuyên bố với bậc đàn anh, nhà thơ Thanh Tâm Tuyền, là Gấu tôi mê cuốn
đó lắm!
Ông trợn mắt, như không thể tin, hay là nghe lầm, và hỏi gặng lại:
-‘Cậu’ hiểu nó hả?
-Em nghĩ là… hiểu!
Ông thở dài than:
-Vậy là cậu hơn tôi rồi!
Bao nhiêu năm sau, giờ này, ngồi viết những dòng này, Gấu tôi tự hỏi
chính
mình: Mi ‘hiểu’ La Nausée của Sartre?
Kinh
nghiệm, đúng ra là kỷ niệm, thứ nhì, về Buồn Nôn, là với ông anh rể của
tôi,
nhà báo Nguyễn Hoạt, tức Hiếu Chân, một trong những ông thầy Pháp văn
đầu tiên
của tôi. Lần đó, khi Sartre đang là một hiện tượng trong lớp trẻ trong
đó có
tôi, ông nói, mày đưa tao cuốn La Nausée đọc thử coi. Ngay ngày hôm
sau, ông gần
như ném cuốn sách trả lại, nói, tao không hiểu thằng chả viết gì, nhất
là cái
đoạn không ngày tháng, ngay ở đầu cuốn sách!
Với riêng tôi, cái đoạn không ngày tháng, và nhất là, một câu văn ở
trong đó,
là chìa khoá mở cho tôi vào vương quốc văn chương, gồm những cư dân, là
những độc
giả, và những độc giả này, một cách nào đó, đều lăm le làm… nhà văn,
đều lăm
le, sẽ có được một dịp may, thử tài viết của mình!
ABC
[Milosz], La Nausée [Sartre], và Bông Hồng Đen [Gấu]. (1)
(1)
BHD cũng có ABC. Đó là tên nhà sách, nhà xb, nhà in của ông cụ thân
sinh của
BHD. Gấu biết đến BHD, một phần là nhờ nhà xb ABC
Với
Gấu tôi, cuốn ABC của Milosz có thể là từ nhân vật Tự Học, Autodidacte,
đọc
sách theo vần abc tên tác giả, của Sartre, trong La Nausée. Một cuốn
sách với
những đầu vào [entry] xếp theo thứ tự abc. Nhưng theo Milosz, đây là
một món đặc
sản của Balan, a Polish genre, một thể loại văn học được cấu tạo theo
kiểu 'tản
mạn" với những đầu vào ngắn, theo thứ tự abc. "Có lẽ ABC là một
'thay vì" của những thễ loại văn học khác. Thay vì viết một cuốn tiểu
thuyết,
một tiểu luận về thế kỷ 20. một hồi ức... tôi bèn viết ABC".
Và sau đây là một đầu vào của ông.
*****
Dostoiesky,
Fyodor.
Tôi dậy một lớp học về Dos, và rất nhiều lần học sinh hỏi tôi, tại sao
"thầy"
không viết về ông ta. Tôi trả lời có cả một thư viện, trong rất nhiều
ngôn ngữ
khác nhau, đã được viết, về ông ta. Và tôi không phải là một học giả.
Nói một
cách tối đa, tôi còn là một bà con xa của ông ta nữa cơ đấy.
Nhưng sự thực, lý do là như vầy.
Ông ta là một nhà văn lớn lao có một tầm ảnh hưởng - không ai sánh nổi,
so với
bất cứ một nhà văn đồng thời với ông, ngoại trừ Nietzsche - lên sự suy
tưởng của
Âu Châu và Mỹ Châu.
Một nhà tiên tri, có lẽ. Và còn là một ông thầy nguy hiểm.
******
Milosz
không ưa Sartre, lẽ dĩ nhiên, vì Sartre mê Cộng Sản, mà ông từ
phía đó bỏ
chạy qua Paris.
Ông hợp với Camus, và cả hai rất thông cảm nhau, về cái tai ương
của nhân
loại: Cái Ác Mầu Đỏ đó.
Sau
đây là đầu vào về Camus của ông trong ABC.
Camus, Albert. Tôi theo dõi chuyện xẩy ra cho ông,
sau khi xuất bản Con
Người Nổi Loạn, L'homme révolté. Ông viết như một con người tự do [like
a free
man], nhưng hoá ra là điều này không được phép, bởi vì đụng vô lằn ranh
"chống-đế
quốc" [có nghĩa, chống Mỹ, và ủng hộ Xô Viết]. Chiến dịch thô bỉ nhằm
phạng
Camus của Sartre, và Francis Jeanson, trên tờ Thời Đại Mới, được a dua
[joined]
bởi Simone de Beauvoir, cú này trùng hợp với thời điểm tôi đoạn tuyệt
[break] với
Varsaw vào năm 1951. Đây cũng là thời điểm mà Sartre viết về Camus:
"Nếu bạn không ưa cả Cộng Sản lẫn Tư Bản, thì chỉ còn có một chỗ cho
bạn
dung thân là Quần Đảo Galapagos".
Camus thò tình bạn, tức đồng minh, ra bắt tay tôi, và điều này thật
quan trọng.
Milosz
viết về bạn tình, bạn đường, của Sartre.
Beauvoir, Simone de. Tôi chẳng hề gặp, nhưng chuyện
không ưa nổi bà ta
thì không hề giảm, sau khi bà mất, và ngay cả cho tới bi giờ, khi bà
chỉ còn là
một cái tiểu chú về thời của bà... Thì cứ thú nhận thẳng ra ở
đây, một thằng
nhà quê miệt vườn, làm sao mà ưa cho nổi một bà lớn [grande
dame]... Tôi
không thể tha thứ cho bà ta về những trò hạ cấp, cùng Sartre, nhắm bề
hội đồng
Camus.
*
Nói tới Camus, Gấu tôi nhớ, có lần ngồi Pagode, nhà thơ TTT chê Kẻ Xa
Lạ, khi
so sánh đoạn tử tội Meursault gặp ông thầy tu, với cũng một xen như
vậy, trong
Đỏ và Đen, thì, Camus không đáng là học trò của Stendhal.
Ấy là mấy chục năm sau, thằng em diễn lại câu phán của ông anh, qua...
tưởng tượng.
Quả thế thực, nhưng theo Gấu tôi, phải tính tới cái tuổi của người đọc,
khi đọc
bất cứ một tác giả.
Stendhal là phải già già một chút mới đọc được. Còn me-xừ Meursault
không kịp
có tuổi già. Những nhân vật như thế, là phải "chết non", mượn lại từ
của ông anh.
Và có những tác phẩm, bạn không nên đọc sớm quá, và nên để dành! Lời
khuyên của
ông bà chúng ta, chớ đọc Phan Trần, chớ đọc Thuý Vân Thuý Kiều, là có
thiện ý
chứ không liên quan tới đạo đức. Cái cảnh:
"Rõ ràng trong ngọc trắng ngà,
Rành rành trước mắt một tòa thiên nhiên"
chỉ 'trở thành hiện thực', khi bạn vừa đọc xong câu đó, là bèn thực
hành liền!
Theo nghĩa đó, một độc giả của tờ TLS [số tháng Hai, 2004, mục Sổ Tay]
sung sướng
la lên rằng, may quá, tới hơn nửa đời người, mới đọc Hamlet. Đúng là
một món
quà quí báu dành để đọc vào lúc xế bóng về chiều, mái tóc muối tiêu [a
mid-life
gift to himself].
*
Sự nổi tiếng của một số tác giả ở trong nước, sau 1975 thí dụ như NHT,
PTH, BN,
có dư luận hải ngoại cho rằng, họ ảnh hưởng văn chương miền nam trước
1975. Tôi
nghĩ, có. Chiến thắng miền nam, và thực thế phũ phàng sau đó, làm sao
không ảnh
hưởng lên bất cứ một người viết? Đoạn cuối Nỗi Buồn Chiến Tranh,
đọc, thấy
phảng phất Tiếng Động của Thanh Tâm Tuyền. Tướng Về Hưu có không khí
hiện sinh
của một thời hậu chiến ở bên... Tây. Thiếu, là thiếu một tiếng
hát, của
Gréco, và một điệu Jazz, thí dụ, some of these days... Một ngày nào,
anh sẽ nhớ
em... của La Nausée.
Thiệp có thể mơ hồ nhận ra sự thiếu sót đó, và thay bằng tiếng hát...
nữ thuỷ thần.
Mơ
biết tiếng ngoại mà chẳng cần hiểu nó [The dream: to know a foreign
(alien)
language and yet not to understand it. Roland Barthes. The Unkown
Language,
trong Empire of signs, bản tiếng Anh của Richard Howard, nhà xb Hill
and Wang, NY].
Ông giải thích thêm về giấc mơ này: [Mơ như vậy tức là] cảm nhận
mà chẳng
cần “thu hồi” sự khác biệt ngôn ngữ qua những chuyện ăn nói xã giao phù
phiếm,
qua truyền thông, giao tiếp, hay các trò tầm phào khác…. [Chỉ cần] một
nhận xét
của một người bạn về người Nhật, thế là cả một trời diễm ảo của xứ sở
này được
mở ra, cả một trời diễm ảo, the whole fictive realm mà chỉ một vài bản
văn hiện
đại [nhưng tiểu thuyết, không], là có thể đảm đương một quan niệm, cho
phép
chúng ta cảm nhận một quanh cảnh mà lời nói của chúng ta không làm sao
khám
phá, hoặc thăng hoa.
Cái giấc mơ biết tiếng ngoại mà chẳng cần hiểu nó, áp dụng vào chuyện
đọc một
cuốn sách, hoặc bằng chính tiếng mẹ đẻ, hoặc bằng tiếng nước ngoài,
cũng y hệt
như vậy theo tôi. Và, mô phỏng câu của Barthes, “chỉ cần một nhận xét…
“, chúng
ta có thể nói: Chỉ cần hiểu một hình ảnh, một câu văn ở trong cuốn sách
mà bạn
đang đọc đó, thế là cả cuốn sách mở ra trước mắt bạn.
Borges cũng đã từng nói như vậy, khi ông cho rằng, chỉ cần đọc một câu
của
Shakespeare thôi, là bạn trở thành… Shkespeare. Nhưng để có được một
câu văn
tình cờ đó, là cả một vấn đề, và nhất là một cơ may.
Đỗ Hải
Yến trong Cánh Đồng Bất
Tận [hình từ Bee]
Ui chao, nhìn là thấy hiển hiện
ra tất cả những nhân vật nữ của Faulkner!
Nhất là cái em trong Giáo
Đường, Sanctuaire, bị thằng
liệt dương phá
trinh bằng cái bắp ngô!
Liệt
dương ư?
Hay là tay hiệu trưởng gì gì đó?
Mario Vargas Llosa
Faulkner suốt đời giữ cái
nhìn tiêu cực của ông, với Sanctuary, câu chuyện một cô gái bị một tên
liệt
dương phá huỷ trinh tiết bằng một cái bắp ngô, bởi vì, cả nửa thế kỷ,
sau những
dòng tự kiểm hồi sách mới ra lò, trong lần nói chuyện tại Đại học
Virginia,
[Vintage Books, New York, 1965], ông vẫn còn chê đứa con hư hỏng của
mình, coi
đây là một câu chuyện "yếu" và được viết bởi những tà ý [base
intentions].
Nhưng đây là một đại tác phẩm
của ông. Hai Lúa cứ liên tưởng tới Giáo Đuờng Của Cái Ác, ở một xứ sở
khác, ở
đó, có những tên già, liệt dương hay không liệt dương, lôi con nít vào
khách
sạn hãm hiếp, xong xuôi, đuổi ra, quẳng cho cô bé hình như là một trăm
đô thì
phải, thí dụ như một tay LQD nào đó.
Bởi vì, chỉ có thiên tài mới
có thể kể một câu chuyện như thế, với những sự kiện như thế, với những
nhân vật
như thế, bằng một cách kể mà người đọc, không chỉ chấp nhận, gật gù, kể
được,
được đấy, mà còn như bị quỉ sứ hớp hồn!
Như chính Faulkner đã từng
kể, ông viết Giáo Đường, bản viết đầu, trong ba tuần lễ, năm 1929, liền
sau Âm
thanh và Cuồng nộ. Ý tưởng về cuốn sách, như ông giải thích, trong lần
in thứ
nhì [1932], thứ tiểu thuyết ba xu, và ông viết, chỉ vì một mục đích duy
nhất,
là tiền, [trước nó, thì chỉ vì vui, for "pleasure"]. Phương pháp của
ông, là, "bịa ra một câu chuyện ghê rợn nhất mà tôi có thể tưởng tượng
ra
được", một điều gì một con người miệt vườn, vùng Mississipi, có thể coi
như là một chủ đề. Quá sốc, khi đọc, tay biên tập bảo ông, hắn sẽ chẳng
bao giờ
xuất bản một cuốn sách như thế, bởi vì, nếu xb, là cả hai thằng đều đi
tù.
Bản viết thứ nhì cũng chẳng
kém phần ghê rợn...
Được coi như, hiện
đại hóa bi
kịch Hy Lạp, viết lại tiểu thuyết gothic, ám dụ thánh kinh, ẩn dụ chống
lại
công cuộc hiện đại hoá mang tính kỹ nghệ nền văn hóa Miền Nam nước Mẽo
vân vân
và vân vân. Khi Faulkner mang đứa con hư của mình trình làng văn Tây,
André
Malraux phán, đây đúng là, "đưa tiểu thuyết trinh thám vô trong bi kịch
Hy
Lạp", và khi Borges nói dỡn chơi, rằng những tiểu thuyết gia Bắc Mỹ đã
biến "sự tàn bạo thành đức hạnh", chắc chắn, ông ta có trong đầu lúc
đó, cuốn Giáo Đường của
Faulkner.
*
William Faulkner
Sanctuary
Sanctuary made
William
Faulkner famous-or infamous-as the master of the "cult of cruelty" in
American fiction. It is the dark and disturbing story of the abduction
into the
Memphis underworld of Mississippi debutante Temple Drake, who brings with her
into that corrupt world her own form of moral corruption, which nearly
destroys
Horace Benbow, the novel's central male character. While many
readers have seen
the book only as a brutal assault on the sensibilities, most now agree
that it
is at the same time a very sophisticated blend of Eliot, Freud,
mythology,
local color, and even "current trends" in hard-boiled detective
fiction. Published in 1931, Sanctuary may well be Faulkner's most
powerful
examination of the nature of evil. It is unquestionably one of his most
important works.
[Lời giới thiệu trang bìa,
Vintage Books]
Giáo
đường làm Faulkner nổi tiếng
–
hay tai tiếng thì cũng OK – như là một ‘sư phẩm’ [tác phẩm bậc thầy] về
sự “thờ
phụng cái độc ác, tàn bạo” trong tiểu thuyết Mẽo. Đây là một câu chuyện
âm
u, làm bực mình, về một cú bắt cóc một em nhí và đẩy em vào thế giới xã
hội đen
ở thành phố Memphis, bang Mississipi. Em nhí Temple Drake này mang
theo cùng với
em, vào cái thế giới hư hỏng đó, một ‘thương hiệu’ của riêng em về băng
hoại đạo
đức, tí nữa thì nhận chìm luôn nhân vật đực chính của cuốn truyện, là
Horace
Benbow….
Bạn đọc cái câu gạch đít trên, rồi đặt kế bên câu của Đỗ Hải Yến,
mới
thú:
"Cánh đồng
bất tận đưa tôi ra
khỏi vùng an toàn”
Có lần
Gấu
phán ẩu, không có cái sự ăn cướp Miền
Nam thì không thể có những nhà văn như Nguyễn Huy Thiệp, Bảo Ninh, và
ngược
lại, không nếm mùi Cái Ác Bắc Kít, Cô Tư không thể nào viết ra được
Cánh Đồng
Bất Tận!
Đúng là bố lếu bố láo!
Nhưng bạn có nghĩ như Gấu không?
[câu này thuổng!]
Tình lơ
Nguyễn Ngọc Tư
V/v Tình
Lơ.
Hẳn là Cô Tư đọc Cuốn
Theo Chiều Gió, và bởi vì cùng một nỗi ám ảnh về một Miền Nam sâu
thẳm của một William Faulkner, một Margaret Mitchell, mà viết ra nó.
Scarlett và Melanie ở đây là hai chị em giống nhau như đúc. Và thầy
giáo Thành trong Một Mối Tình, thì biến thành anh chồng ngớ ngẩn lầm cô
chị với cô em, hoặc ngược lại.
Cái không khí chung của tất cả truyện của Cô Tư, vẫn là ảo tưởng về ông
anh Bắc Kít ruột thịt cuối cùng hóa ra… kẻ thù!
Scarlett khi vỡ ra, bèn đoạn tuyệt với ảo tưởng, quyết tâm xây dựng lại
thiên đàng Tara, chờ ngày Rhett [chắc
là đi học tập cải tạo] trở về!
Một
độc
giả TV đã khều nhẹ Gấu, Cô Tư làm sao mà đẹp như ông Gấu tưởng tượng
ra, như thế!
Gấu
này đành phải thú thực,
sợ Cô Tư còn đẹp hơn cả những W. Faulkner,
những Margaret Michell! Tất cả những sáng tác của Cô Tư đều bàng bạc
trong đó, một Miền Nam đã mất, và gốc rễ của nó, phải tính từ thời Adam
và Eva bị tống ra khỏi Vườn Địa Đàng, biến thành một lũ “giả-Do Thái”
[giả ở đây giống như trong từ ‘giả cầy’!], lang thang
khắp miền trái đất, một nửa reo rắc tai ương, một nửa ăn mày lòng
thương hại của nhân loại.
*
Với mọi quốc gia toàn thể
tự nguyện đi đầy như thế, một sử thi sẽ được viết ra một ngày nào đó -
về cái sự
nó bị xé ra khỏi đất mẹ của nó, và cái sự nó bị huỷ diệt tại miền Siberia. Chỉ những quốc gia như thế, chính
chúng,
mới có
quyền cất lên tiếng nói của chúng, để nói về tất cả những gì chúng trải
qua: Chúng ta
không có những từ ngữ để nói giùm cho chúng.
Solz
Hậu
Hiện Đại