1
|
Vang
Bóng Một Thời TSVC
Lời
Phi Lộ của
TSVC, do GCC viết. Đăng trên số Mỹ
Từ Pháp.
TSVC là gì?
Tôi biết Lộc,
và J. Huỳnh Văn, là qua Tập san Văn
chương. Không biết ai là người đầu tiên đưa ra việc làm báo. Khi có
tôi, mọi
chuyện đã được quyết định. Tôi nhận lời, phần
lớn là vì hai người bạn mới. Nhất là J. Huỳnh
Văn. Như một hậu quả
tất nhiên của những buổi bỏ sở ra ngồi quán cà phê gốc me đường Nguyễn
Du, hoặc
bên đường Hai Bà Trưng, quãng gần ngã tư Gia Long, khi bên kia quá ồn. Số là lúc này, Bưu Điện đã phân đôi, thành
Bưu Vụ, và Viễn Thông; tôi chuyển về Trung Ương, chuyên lo việc lên đồ
biểu điện
đàm/ điện tín, dưới quyền của ông T. nghe nói người của Mỹ. Vào những
ngày cuối
cùng, trong lúc Đà Nẵng đang trong cơn hỗn loạn, tôi còn cố liên lạc
với Phòng
Điện Toán, xin con số điện đàm/ điện tín ... "Anh có biết Đà Nẵng sắp
sửa
đi đoong không..." tôi nghe tiếng
người bạn bên kia đường dây hốt hoảng. Quay qua phòng sếp, một đống hồ
sơ vẫn y
nguyên. Đã hơn tuần, ông chưa vô sở: người Mỹ đã đưa ông và gia đình đi
từ mấy
ngày trước.
Huỳnh Văn là
linh hồn của cả bọn, là tinh thần, và Tổng thư ký, của tờ báo. Không có
anh, chắc
tờ báo không ra quá số hai. Sài-gòn nhỏ xíu: chiến tranh, nỗi sợ hãi,
đời sống
riêng tư của mỗi con người... làm người ta co cụm lại. Đám bạn bè tuy
biết
nhau, nhưng chỉ chịu ngồi bên nhau, khi có anh. Anh nói, anh biết tôi
từ hồi Nghệ Thuật, từ
những ngày, thỉnh thoảng ghé quán Cái Chùa, thấy một gã lúc nào
cũng đeo kính đen, ngồi trơ một mình tại một chiếc bàn ở góc quán. Nếu
không có Tập san Văn chương,
chúng tôi chẳng bao giờ có dịp quen nhau. Và có thể chẳng
bao giờ người đọc biết anh là một thi sĩ. Cũng chẳng mấy người biết anh
dậy học,
cho một trường tư ở Biên hòa. Có thể những dòng Cầm Dương Xanh đã rong ruổi
cùng với anh, suốt quãng đường Sài-gòn - Biên-hòa, và ngược lại. Chúng
xuất hiện
lần đầu tiên, và cũng là cuối cùng trên Tập san Văn chương.
Huy Tưởng, thay mặt
tôi tới gia đình đốt những nén hương tưởng niệm, sau đó gửi ra vài
dòng. Về câu
hỏi, chị còn nhớ...?: Thời gian sau này, bạn bè nhiều nhưng thật tình
là tôi
không được quen biết hết, chỉ có các anh là bạn cũ trước 75 thì tôi mới
nhớ
thôi.
Thật đơn giản,
nhưng...
Ba mươi năm
sau, một tập san cùng tên xuất hiện ở hải ngoại. (2) Những dòng hồi
tưởng ở
trên, là do tôi muốn anh em chủ trương làm quen với những người đã cũ,
hoặc đã
chết. Muốn anh em chia sẻ cùng chúng tôi không khí ngột ngạt của
Sài-gòn hồi
đó. Tôi hi vọng vào khoảng cách giữa các thế hệ. Hoàng Cầm và tôi là
người cùng
thời, nhưng ông có trước tôi một thời đại không lập lại nữa, hay dùng
chữ của
ông: một gia phả tinh thần mà dù đã được rũ bụi thì tôi cũng không đơn
giản làm
quen". (Phạm Thị Hoài, Đọc Mưa Thuận
Thành của Hoàng Cầm, Tạp chí Thơ,
Mùa Đông, 1997). Tôi
không hiểu anh em trong
ban chủ trương khi đồng ý với nhau về một danh xưng, có biết, có những
người đã
gắn bó với nhau chung quanh một cái tên như vậy. Rằng nó đã có một tiền
thân? Hay đây chỉ là tình cờ?
Và chủ trương, đường lối của tờ báo mới mẻ
này có gì tương tự với tờ cũ không? Và liệu người cũ có cần làm một
nghi lễ rũ
bụi, trước khi ngồi xuống bàn viết, ở đây?
Bởi vì Tập san Văn chương quả có những
nét
riêng: nó cách mạng, lật đổ theo tinh thần bất bạo động, hoặc theo hiểu
hiền
lành của nhà văn Nga, Chekhov. Bây giờ, sau hơn ba mươi năm, trong số
ít ỏi những
thực sự quan tâm và gắn bó với một nền văn chương Miền Nam trước 75, có
người
đã nhận ra, bên cạnh cuộc cách mạng lớn, do Sáng Tạo hô hào, có một cách mạng
nhỏ, thầm lặng của Tập san Văn
chương. Ngay trong lời phi lộ số ra mắt, khi định
nghĩa nhà văn, một người được thông tri đầy đủ (những dữ kiện của thời
đại anh
ta đang sống), chúng tôi đã hoài vọng một điều: hãy đưa ra thật nhiều
thông
tin, hãy giới thiệu những dòng tư tưởng đang ảnh hưởng đến toàn thể
nhân loại,
rồi để cho người đọc tự do chọn lựa, theo khẩu vị của họ. Cho phép tôi
dùng chữ
khẩu vị, theo nghĩa của Roland Barthes: Chữ viết ở khắp nơi, khi mà
những từ có
mùi, có vị (tri thức, savoir,
và mùi vị, saveur, trong
tiếng La-tinh là cùng một
nguồn). Vả chăng, việc lập lại một cái
tên theo dòng thời gian, vốn vô thường, liệu có liên quan đến lịch sử,
vốn ưa lập
lại? Hoặc đến huyền thoại Quy Hồi Vĩnh Cửu, vốn rất hàm hồ?
Cách mạng là một từ đã bị
bão hòa. Ai cũng có,
hơn một ý niệm, về nó. Michel Foucault, trong bài "Khai
sáng là gì? (What is Enlightenment?)", viết: Ngày
nay, khi một tờ báo đưa ra câu hỏi đối với độc giả, là để thâu gom một
số ý kiến,
về một vấn đề mà mọi người, nhiều hoặc ít, đã hiểu tại sao câu hỏi được
đặt ra:
chẳng hi vọng nhiều ở những cuộc thăm dò dư luận như thế. Vào thế kỷ
thứ 18, giới
in ấn, chủ báo thường hỏi công chúng về một vấn đề chưa có câu trả lời.
Ông đưa
ra thí dụ: vào năm 1784, một tờ báo Đức, Berlinische Monatschrift, đã
đặt câu hỏi:
Khai sáng là gì? (Was ist Aufklarung?). Và
người trả lời, là Kant. Bài viết của Kant, theo
M. Foucault, chỉ nhỏ
nhoi thôi, nhưng nó mở ra một lối đi thận trọng vào lịch sử tư tưởng,
về một
câu hỏi mà triết học hiện đại vẫn chưa có đủ khả năng để trả lời, và
cũng chẳng
bao giờ rũ khỏi. Nó đã được lập lại, dưới những hình thức khác nhau, từ
hai thế
kỷ, bởi những triết gia, từ Hegel qua Marx, hay Max Weber tới
Horkheimer hay
Habermas, và tội thay, tất cả đều đã thất bại, hoặc trực tiếp, hoặc
gián tiếp,
khi phải đối đầu với nó. Giả sử tờ báo Đức kia vẫn còn sống, và nó lại
đặt ra
câu hỏi: triết học hiện đại là gì? Có thể chúng ta sẽ nghe một tiếng
dội: triết
học hiện đại là một toan tính nhằm trả lời một câu hỏi đã được khinh
xuất đặt
ra từ hai thế kỷ trước: Khai sáng là gì?
Bởi vì có thể
vẫn là một định nghĩa tương tự đã được đặt ra, khi Tập san
Văn chương ra đời hải ngoại: nhà văn là người được thông
tri đầy đủ những dữ kiện của cả hai miền, về thời đại của chúng ta, với
tất cả
những vấn nạn của nó.
NQT
(1) George
Steiner, viết về F. R. Leavis, trong Ngôn ngữ và Im lặng
(2) Bài viết
cho tạp chí Văn Chương dự
tính ra mắt tại hải ngoại.
Note: Thú thực,
không nhớ nguồn của bài giới thiệu này!
Hình như từ Butor mũi lõ, không phải Mít
Butor!
GCC giới thiệu
1 truyện ngắn của Joyce trong Dubliners.
Thương Ẩn, là từ Lý Thương Ẩn.
Eveline
Post thêm
bài này của Prospero, thần sầu!
James
Joyce's "Ulysses"
Why you
should read this book
Trầm Tư
Trong bọn,
chỉ có Nguyễn Tử Lộc là sớm sủa làm quen với tư tưởng, thí dụ, của một
F. R.
Leavis, phê bình gia lý tưởng là một người đọc lý tưởng, từ đó văn
chương tùy
thuộc hoàn toàn vào những từ ngữ của nhà thơ, hay tiểu thuyết gia mà
kinh nghiệm
đã đem tới cho họ. Và ở đây, là tiếng Anh, một thứ tiếng nói sức mạnh
của nó
thuộc về đất, như tổ tiên của họ là những người dân quê... Khi người ta
thêm
vào đó, rằng lời nói, theo một trật tự cổ xưa, là một dạng văn hóa nghệ
thuật
phổ thông, rằng người ta nói thay vì đọc, hay lắng nghe la-dô, đài,
Nguyễn Tử Lộc
đã sớm nhận ra sự đa dạng của một chủ nghĩa tự chủ mang tính đồng quê,
thuộc về
đất và những người đã chết của nó (la terre et ses morts) (1), anh có lẽ đã linh
cảm, định mệnh của một tiếng nói, như hồi
nhớ về biết bao nhiêu
con người (Thanh Tâm Tuyền).
Nếu
muối mất vị mặn của nó, làm sao có lại được.
(Évangile theo thánh Matthieu). Nhà văn theo một nghĩa nào đó, là muối
của đất,
hay ngắn gọn hơn, là đất. Marguerite Yourcenar, thuộc Hàn lâm viện Pháp
ghi nhận,
trong tiếng Anh của người Mỹ, dirt, dơ dáy, là đất, theo nghĩa của
người làm vườn;
một thứ đất mầu mỡ, sẵn sàng để trồng trọt: Cho thêm tí dơ vào chậu
bông này
đi. (Put a little more dirt in this flower pot.)
Hiểu như thế,
một nhà văn, khi bị bứng ra khỏi đất, anh ta trở nên sạch, theo nghĩa
vô dụng,
hết xài, đã bị thiến. Cũng theo nghĩa đó, nỗi nhớ bùn là thê thảm nhất,
trong mọi
nỗi nhớ. Anh ta phải động viên mọi sức lực, quyền năng, nghệ năng, biến
sở đoản
thành sở trường, biến chữ thành đất: Chúng ta đi mang theo quê hương.
Sự thành
công của dòng văn chương di dân viết bằng tiếng Anh là một ví dụ.
Vả chăng,
kinh nghiệm ăn nhờ ở đậu là rất một mình, mỗi người một kiểu. Bạn luôn
đau nỗi
đau nhớ nhà, nhưng tệ hại hơn, còn nỗi đau vong thân: tiến trình biến
thân quen
thành xa lạ, hờ hững. Người viết chưa gặp phải tình trạng này, nhưng
hình như một
số người Việt về nước đã gặp cảnh chua xót. Cứ nghe như quê hương nói
mát nói mẻ:
Ơ kìa, anh/chị này, tôi không quen! Ôi nỗi
xa lạ hờ hững, không phải của một dáng dấp chưa từng gặp, mà từ chính
người yêu
dấu, thân thương mới ngày nào còn là của
mình!
Nhưng Nguyễn
Tử Lộc đã chẳng cần tới mấy chuyện đó. Chẳng cần thứ kinh nghiệm đó.
Anh ở lại
mãi mãi, sau 1975, vì bạo bệnh. Đám tang anh, có Nguyễn Đạt, J. Huỳnh
Văn, Phạm
Kiều Tùng, Phạm Hoán, tôi... đi sau quan tài. Hình như chỉ thiếu Nguyễn
Tường
Giang. Sau anh là Joseph Huỳnh Văn. Mới đây thôi (20/2/95), vậy mà cũng đã hai
năm mấy rồi.
Nhân nói đến
lục bát, mới đọc bài viết của DTL về Lục Bát Cung Trầm Tưởng, và bỗng nhớ
tới
Phan Nhật Nam, lần “mới” gặp Tháng Tám năm ngoái. Anh phán, lục bát
đúng là cửa
tử của thơ Mít. Gấu phản biện, phải nói, nó còn là cửa sinh nữa, thí dụ
lục bát
CTT, lục bát Viên Linh.... và dẫn câu của Brodsky, thơ vần, nói chung,
thơ cổ
điển... cho thấy rõ sự kém cỏi của những
nhà thơ dởm, bắt đầu làm thơ bằng thơ tự do.
Ý này thì Borges cũng đã nói rồi.
Nhưng quả thế thật. GCC
rất sợ thơ lục bát của những đấng đếch làm được thơ, đếch
phải thi sĩ!
Cứ thấy lục
bát là co rúm người lại!
Thơ lục bát
Cung Trầm Tưởng còn rất nhiều bài hay, đâu chỉ có mấy bài PD phổ nhạc.
DTL, cũng
nhà thơ, đúng ra nên viết về những bài được ít nói đến mới phải. Bài
viết
của bạn
ta nhảm, chẳng nói được tí chó gì về cõi thơ lục bát, của CTT, cũng như
của nhiều
nhà thơ khác.
Hai câu thơ lục
bát sau đây của CTT mà chẳng bảnh sao:
Tháng Giêng
buốt sẻ đôi đằng
Nửa chì mưa đục,
nửa băng giá hồn
[Nhớ đại
khái, không biết có đúng không]
GCC cũng có
tí kỷ niệm với CTT. Ông có ghé nhà Gấu, khi Gấu chưa có Gấu Cái, [BHD
thì cũng không còn, hà hà!], và căn
nhà còn
là nơi tụ họp bạn Xì Tẩy, và Gấu khi đó nổi danh là "Mòng", và CTT,
cũng như MT, là những đại cao thủ trong cõi Xì Tẩy.
Mai Thảo "đến chỉ
một lần",
sau đó, phán, trên chốn giang hồ, ăn tiền của tụi nó thấy tội quá!
Toàn thứ học
đòi đánh Xì, mua con Ách thứ năm, thứ sáu...
Ý MT muốn nói, nhìn thấy trên mặt bàn có ba con Xì rồi, thì thứ Mòng,
như Gấu,
vẫn tin, còn 1 con nữa nằm trong cỗ bài, đâu có biết là nó là con Tẩy
nằm dưới
đáy chiếu bài!
Về nick Mòng
này, Phạm Đình Chương nói, “lịch sự” hơn. Ông là bạn của Hiếu Chân, ông
anh rể
của Gấu, và chắc có nghe MT loan truyền về Gấu Mòng.
Và bèn nói với HC, anh có
thằng em nổi tiếng “phong nhã” trên chốn giang hồ!
Lên xe tiễn
em đi , chưa bao giờ buồn "xế"!
Giới thiệu
Cung Trầm Tưởng, tốt nhất, là một người sống cùng thời với ông, và sống
những
ngày "chưa" chiến tranh, tuyệt vời [chiến tranh chưa hứa hèn những điều
khủng khiếp], của Miền Nam, như ông.
Thời của "Paris
có
gì lạ không em"? "Ga Lyon đèn
vàng", "Cho anh một tí Paris.... "
Những bài
thơ tình của thời đó, mới đích thực là thơ "thời cuộc".
"Tình nhớ" mà mắc mớ gì tới phản
chiến?, "ông bạn" Đặng Tiến có lẽ đi Paris mất tiêu rồi, không sống
"Những ngày ở Sài Gòn", khi đó, nên không cảm nhận ra chăng?
Xin đừng
nghĩ là Gấu chọc quê: Những ngày đẹp như thế, bỏ qua, ai mà không tiếc?
Ui chao, mấy
cách đây chỉ vài... phút, ông bạn nhà thơ hậu duệ Cao Chu Thần, mail
cho Gấu,
mà còn nhắc tới cái câu, "Buổi sáng tôi chào Good Evening..." để mà
xuýt xoa, cảm khái, tiếc hùi hụi "không khí thời chưa chín" [chưa chiến]
Nơi tôi làm
việc là tầng lầu trên cùng một building, bất động sản của người Pháp;
tôi là
chuyên viên kỹ thuật lo sửa chữa máy móc, trông coi đường dây liên lạc
vô tuyến
điện thoại, viễn ký, viễn ảnh từ Sài Gòn tới những thành phố lớn, thủ
đô các quốc
gia trên thế giới. Do hoàn cảnh địa dư, buổi sáng tôi có thể chào buổi
chiều,
"Good Evening", với một đồng nghiệp ở California; nếu rảnh rang, tôi
có thể hỏi thăm hoặc bông đùa đôi câu với một nữ điện thoại viên ở
Hongkong, hoặc
Tokyo… Buổi chiều, tôi có thể biết thời tiết một Paris buổi sáng; tôi
hỏi thăm
những đồng nghiệp không bao giờ gặp mặt, có phải tuyết bắt đầu rơi, mùa
đông ở
nơi xa xôi đó có gì tương tự với những ngày giá lạnh của miền quê hương
cũ…
Những ngày ở
Sài Gòn (1965)
Giấc mơ
Paris chính là giấc mơ phản chiến.
Một mai qua
cơn mê, anh bèn đi Paris, anh bèn làm thi sĩ!
*
Gấu này cũng
có một vài kỷ niệm với Cung Trầm Tưởng.
Gấu quen
ông, cùng thời gian quen... Cao Bồi. Cũng trên cái chiếu xì, tại nhà
Gấu. Cao Bồi
hình như chỉ ghé một, hoặc hai lần. Hai người hình như cũng không quen
nhau.
Cái nhà nhà nước cấp, khi Gấu còn độc thân, ở chung cư NBK, sau này, rước Gấu Cái, bằng thuyền, từ Cai Lậy về,
đám bạn
Xì bèn dạt qua nhà NDT, cũng kế bên, cũng thuộc một chung cư, khác, của
Bưu Điện.
Nhưng với
thi sĩ, với thơ, tuyệt nhất là những vần lục bát của ông.
Mùa đi bỏ lại
gốc dừa cội măng
Tháng Giêng
buốt sẻ đôi đằng
Nửa chì mưa
đục nửa băng giá hồn
Đọc, một
phát, ở trong cái "không khí thời chưa chín" đó, là nó bèn cắm sâu vào
hồn
bạn.
*
Pamuk, trong
Hồi Ức Istanbul, có nói đến cái không khí tuyệt vời trước khi
tai họa đổ ập xuống:
Ôi, ôm Em
trong tay mà đã nhớ Em những ngày sắp tới [khi ở trong Trại Tù VC]
Đúng là cái
không khí của thời của Gấu, thập niên 1960. Viết về cái thời đó, không
dễ, cả ở
hai phiá của cuộc chiến. Gấu muốn nói, giữa mấy anh VC nằm vùng, và lớp
người
như Gấu, không thể nào chọn VC được.
Cái bát cơm tám thơm quá
thơm,
thành ra ngần
ngại.
[Câu này là
muốn nhắc tới “dụ ngôn” của Nguyễn Đức Quỳnh, CS như chén cơm gạo Tám
Thơm, trộn
thuốc độc, Quốc Gia như chén cơm gạo hẩm, trộn cứt]
Lạc Đường là
một thí dụ. So với nó, thái độ ngậm miệng ăn tiền, [hitman], của HPNT,
coi bộ lại..
có lý!
Gấu đọc Lạc
Đường, chịu không nổi, thú thực.
Sượng quá,
biến thành hà!
[Thân em như
củ khoai hà, cho chó lảng, cho gà gà chê!]
Điều này, có
một tay, viết blog, lạ làm sao tiên đoán được:
Hồi ký và tiểu
sử: hai thể loại hung hiểm, có thể làm gãy tay bất kỳ ai dám chạm vào.
Blog Nhị
Linh
Nothing reveals a poet's
weakness like classic verse and that why it's so universally dodged
Brodsky [Intro to Anna Akhmatova's Poems, selected
and edited by Lyn Coffin. Norton]
Không gì tố cáo cái yếu kém của
một nhà thơ cho bằng thơ cổ điển, và chính vì thế mà mấy nhà thơ Mít
dởm của chúng ta tránh nó như tránh... hủi!
Thơ lục bát: Một duyên
phận long đong
TYT
Note: Tay này đặt ngược vấn đề!
Thơ lục bát không long đong, nhưng nhà thơ long đong, nếu đụng vô nó,
mà không đủ nội lực.
Đây là nhận định của hơn 1 nhà văn, nhà thơ, trên thế giới, khi cho
rằng, ‘truyền thống’, trong có lục bát, tất nhiên, là một thách đố, đối
với những nhà thơ dởm, và chính vì nó, truyền thống [ở đây, là lục
bát], mà đẻ ra ba thứ thơ nhảm nhí, như tự do, không vần, tân hình
thức, những nhà thơ cách tân, canh tân, hậu vệ, mở miệng....!
Trong quá khứ, cũng có hơn 1 nhà thơ Mít, đụng vô lục bát, mà thành
công, thí dụ, Cung Trầm Tưởng, [Bùi Giáng nữa, ở 1 số bài, thí dụ như
khi ông dịch Apollinaire], Đồng Đức Bốn, Viên Linh, [nhớ đại khái vài
cái tên]
TTT phải đến khi vô tù mới trở lại được với truyền thống, một phần là
vì hoàn cảnh, cái khó nó bó cái khôn, nhưng theo Gấu, chính ở trong tù
ông mới ngộ ra được truyền thống, một phần là do, cái gọi là bạo lực
trong thơ của ông tới được cõi viên mãn của nó: thiền.
Source
Cung
Trầm Tưởng
Đêm Sinh Nhật
mưa rơi đêm
lạnh Saigon
mưa hay trời
khóc đêm tròn tuổi tôi?
mưa hay trời
cũng thế thôi
đời nay biển
lạnh, mưa bồi đất hoang.
hồn tu kín xứ
đa mang
chóng hao
tâm thể, sớm vàng lượng xuân
niềm tin tay
trắng cơ bần
cuối hoàng
hôn lịm bóng thần tượng xưa.
đêm nay trời
khóc trời mưa
gió lùa ẩm đục,
trời đưa thu về
trời hay thi
khóc ủ ê?
cổ cao áo
kín đi về buồn tôi.
Nguồn Dac
Trung
Thú thực
Gấu
không nghĩ có ngày được đọc lại những trang TSVC. Đọc 1 phát, là kỷ
niệm cũ những
ngày mới quen Joseph Huỳnh Văn trở lại. Cái truyện ngắn dịch Joyce, anh
thích lắm,
cái dòng giới thiệu, “mười lăm truyện ngắn trong Dubliners đúng là mười
lăm mảnh
đời xé ra từ xứ Ái nhĩ lan, từ thành phố Dublin nghèo khổ.”
Không có
Joseph, không có Tử Lộc, là GCC không viết cho tờ TSVC. Lúc đó GCC quá
chán đời
rồi. Quá chán viết nữa. Bao nhiêu bài viết phê bình đọc sách, dịch
dọt, vứt thùng rác sạch, thế rồi bây giờ lại được đọc lại, trước khi đi
xa,
cảm khái
chi đâu.
Sau 1975,
GCC chỉ còn có 1 người bạn, là Joseph HV.
Trước 1972, thì cũng đã
thế rồi. Những
lần chịu không nổi, là mò tới anh, anh bày 1 cái chiếu ra ở dưới bếp,
không phải chỉ để nhậu, mà là để cho thằng bạn mình ngồi xuống, khóc.
Đến nhà như
thế, mà hầu như chưa 1 lần Gấu nói gì với mấy đứa nhỏ, cũng như bà xã
anh, dù 1 câu
chào hỏi.
Nhớ có lần khóc khủng khiếp quá, rống lên như bò, chắc thế, cả nhà chạy
xuống bếp, bà xã anh và mấy đứa nhìn Gấu sợ quá, không hiểu chuyện gì
xẩy ra
Lần nói chuyện
đầu tiên với bà xã anh, là qua điện thoại, sau khi anh mất. Bà có vẻ
bực đám bạn
trẻ, sau 1975. Theo Bà, mấy người bạn cùng ngồi bàn cà phê bữa đó giá
mà biết
anh bị tim, ngất đi, cứ để anh nằm xuống, nghỉ ngơi một lát, có thể anh
chưa mất.
Họ hoảng quá chở anh tới 1 tay bác sĩ ở gần đó, tay này hoảng quá, kêu
chở ngay
đi nhà thương, do di chuyển nhiều, vết thương vỡ ra...
Không
phải như vậy, theo NDT, cũng có mặt bữa đó. Anh nói, Joseph đang ngồi,
gục xuống, và đi liền lúc đó....
Ghi lại ở
đây, để gia đình hiểu rõ về lúc ra đi của anh.
Chỉ có mấy
người bạn cũ của anh ấy những ngày trước 1975 là tôi còn nhớ, chị viết,
trong mẩu
giấy gửi anh bạn, nhà thơ HT, thay mặt Gấu tới nhà đốt nén hương trước
bàn thờ
của anh.
Lạ là GCC
không phải thứ hay khóc, trước người khác, tuy bi lụy. Như thể có 1
đấng nào đó
biết, GCC rất cần khóc, nên ban cho Gấu Joseph HV. Anh nói, mi bi lụy
quá.
Và với NLV:
Tội thằng Trụ quá.
Y chang Bà
Trẻ của Gấu than thở, uổng quá, mi dư sức đi tu, làm đệ tử Phật, nhưng
bi lụy
quá, thành ra sống cũng khó, mong gì tu.
Rồi những
bài thơ của Joseph nữa. Những bài viết của Tử Lộc.
Cám ơn tất cả các bạn, và… quê nhà, ở bên
đó.
NQT
Ui chao, giá
mà Gấu đi tu, nhỉ!
Không đi tu thì thờ Cô Ba cũng thế!
Hà,, hà!
Từ trước
1975, đúng hơn, từ lúc xin làm đệ tử Cô Ba, Gấu gần như chẳng gặp bạn
văn, đừng
nói bạn quí. Điều mà Gấu tự hào, là chưa từng ngửa tay xin tiền bạn, để
đi hút,
hoặc chích; trước 1975, thì cũng dễ, nhưng cả sau 1975; và điều này là
nhờ Gấu
Cái, bà lo gia đình, lo mấy đứa nhỏ, Gấu chi phải lo cho thân Gấu, về
mặt cơm
đen!
Bạn C có lần
ra Bưu Điện kiếm Gấu, trao tiền [hình như 20 đô, hồi đó quí lắm, của
bạn Luận,
1 trong Thất Hiền từ Mẽo gửi về cho], mà còn phải gật gù khen, cậu hơn
tớ, tớ chẳng biết kiếm tiền, chỉ trông vào Viện Trợ
Mẽo!
Ý anh muốn
nói, từ bà con đi thoát được. Nhưng cái cụm từ “Viện Trợ Mẽo” còn có ý
nghĩa
khác: Thời gian Gấu còn ăn bám bà cụ C, mỗi lần bà cô của bạn C. tức
phu nhân Đại
Tá Út, tỉnh trưởng Bạc Liêu, về Sài Gòn, là bạn C trịnh trọng thông báo
Thất Hiền,
Viện Trợ Mỹ tới rồi, hà, hà!
Cho tới khi
gặp Joseph.
Biết anh
cùng đám bạn cũ của Gấu làm tờ TSVC, Gấu vì quá quí anh nên cầm lại cây
viết.
Không phải
hoàn toàn không cầm đến cây viết, nhưng chỉ những khi kẹt quá, thì đành
ghé VL,
lấy tiền, rồi sau đó, viết bài cho tờ TT, trừ.
Sau này, về
già, Gấu tự hỏi, giả như tình cờ gặp bạn quí, ngửa tay xin tiền đi
chích, thì
sao, nhỉ?
Hà, hà!
|
|