SÁNG TÁC
|
Blog
Nguyễn Xuân Hoàng và Bạn hữu
Vân tán, Tuyết tan
Trần Mộng Tú
Thứ Ba, 04
tháng 5 2010
Sau
35
năm, Sài Gòn mỗi ngày một thay đổi. Đông người hơn, thành phố đẹp hơn
trên bề nổi.
Nhưng những di sản tinh thần, dần dần biến mất như một hơi thở phải mất
đi của
một người qua đời. La Pagode góc đường Lê Thánh Tôn và Tự Do, đã biến
mất trước
tiên, biến mất lúc nào không ai rõ, chỉ biết người đi xa về bỗng ngơ
ngác như
người đi tìm dấu mạn thuyền. Brodard thay tên, đổi dạng như cô tiểu thư
con nhà
gia thế, một hôm thấy đứng đằng sau một cái xe bán nước mía.
Bây
giờ
người ta đang đập nát thương xá Eden và nhà hàng Givral. Nhà hàng
Givral, nơi
chốn thân yêu, đánh dấu những trang sử lật, nơi văn hóa đi qua và dừng
lại. Nơi
những bức tường cũng thấm đầy khói thuốc thở ra từ những buồng phổi của
các: nhà
báo, chính khách, điệp viên và ngay cả của những người thơ dại yêu
nhau. Nơi những
cái ghế thuộc lòng những cái lưng tựa vào nó, nơi những tiếng cười,
tiếng thì
thầm của: Eddie Adams, Peter Arnett, Horst Faas, Nick Út; nơi Đỗ Ngọc
Yến hay đến
gặp bạn bè. Nơi tin tức như được treo bí mật từ trần nhà thả xuống
không gian.
Một số những nhân vật này, đã làm nên lịch sử của truyền thông.
Sau
biến
cố 1975 tôi không biết những tài sản tinh thần như: Givral, La Pagode,
Brodard,
nhà sách Xuân Thu, nhà sách Khai Trí, đã đổi thay bao nhiêu lần chủ.
Tôi
biết
ở Mỹ, thành phố San Francisco có quán cà phê Trieste (Xây từ năm 1956)
ở góc đường
Vallejo và đường Grant, vào đó, một người chưa viết một câu thơ nào bao
giờ,
cũng tưởng mình là thi sĩ. Bởi vì, nơi đó, có những thi sĩ tên tuổi như
Jack
Kerouac, Allen Ginsberg, Joseph Brodsky đã đến, đã ngồi xuống, viết
viết, xóa
xóa, những dòng thơ của họ. Hơi thơ còn vướng cả những lưng ghế,
những mặt
bàn:
Tôi
ngồi bên cửa sổ. Ngoài kia, có một cây bạch dương
Khi tôi yêu, tôi yêu tận cùng. Chuyện này không thường đâu
-------------------------------------------------------------------
Tôi nói rừng chỉ là một phần của cây thôi
Ai
cần nguyên cô gái, nếu
chiếm được cái đầu gối của cô rồi.
(*)
Tôi
biết
ở Cuba họ không hề đập nát một di sản tinh thần nào, dù đã có thời, họ
ở trong
một tình trạng kinh tế khốn đốn. Có người bạn đến đó, về kể cho tôi
nghe: một
tiệm sửa giầy từ thế kỷ 18, vẫn còn được giữ y nguyên dù đã thay bao
nhiêu đời
chủ.
Tôi
đã đến Hungary, nơi
làm tôi ngạc nhiên vì những giáo đường phải biến thành những tiệm chạp
phô vẫn
còn nguyên nóc chuông và những cánh cửa nhà thờ với ô kính mầu lấp lánh.
Du
khách
trên thế giới khi đến bang Washington đều ghé vào Pike Place Market của
thành
phố Seattle, nơi nổi tiếng nhờ có tiệm cà phê Starbucks (thành lập từ
1971) do
Giáo sư Anh Ngữ Jerry Baldwin, Giáo sư Sử Ký Zev Seigl và nhà văn
Gordon Bowker
làm chủ.Tôi tin chắc những người chủ cầm bút này họ chẳng bao giờ nỡ
đưa cái
búa cho ai đập tan những di sản tinh thần của thành phố thân yêu.
Tôi
đã
trở về Sài Gòn nhiều lần, đã đứng ở phía bên rạp Rex (nay đã thành
khách sạn) nhìn
sang bên kia đường, đếm từ từng dưới đếm lên đến tầng bốn, để tìm
khung cửa
sổ của văn phòng cũ, nơi tôi làm việc gần mười năm; cây me già càng già
thêm nữa,
cái cành vẫn quệt ngang cánh cửa sổ. Tôi thấy nước mắt mình ứa ra, thân
chao đi
như đứng trên đất lệch, tôi bỗng nhìn thấy miệng cười của anh, thấy cái
xe
Honda mất hút ở góc Lê Thánh Tôn, Nguyễn Huệ, để lại một đám khói mỏng,
hai mắt
tôi mờ đi.
Tôi
xót xa nghĩ đến một
ngày nào đó, họ đập nốt cái khách sạn Continental nơi anh và tôi làm
đám cưới. Cưới
nhau xong là đi.(*) Có điều gì bảo đảm được cái nhóm người mới này
biết giữ
gìn di sản văn hóa đâu. Cứ bán cho bất kỳ ai ở nước lạ nào tới, họ muốn
đập
phá, san bằng là quyền của họ. Như một điều tự nhiên thôi.
Tôi
biết
dòng sông có khi cạn đến đáy, nước sông trôi đi không quay lại, con
sông không
còn là chính nó nữa. Tôi hiểu thấu đáo câu thơ:
Sông kia giờ đã nên đồng
Chỗ làm nhà cửa chỗ giồng
ngô khoai
Đêm nghe tiếng ếch bên tai
Giật
mình còn tưởng tiếng
ai gọi đò.(Tú
Xương)
Nhưng
sự phá bỏ những di sản tinh thần vẫn làm cho tôi cảm thấy hụt hẫng.
Nhất là di
sản tinh thần đó là một phần nào tuổi trẻ của tôi đã đi qua và để lại
những kỷ
niệm thơ mộng, ngọt ngào.
*
Anh
thắng xe, quay đầu
về phía sau nói:
-
Anh đón em trưa nay.
Người
con gái xuống xe,
nghiêng mình một chút về phía mặt chàng thanh niên, chàng ghé xuống hôn
lên
trán nàng, rồi quay đầu chiếc Honda, phóng hút vào buổi sáng. Cô đứng
nhìn theo
cái bóng xe khuất ở góc Nguyễn Huệ và Lê Thánh Tôn.
Họ vừa đính hôn xong bằng một cái lễ Dạm Ngõ, một cái giấy hôn
thú ký vội
vàng. Tuần sau anh phải vào quân trường Thủ Đức rồi. Anh bị gọi vào
khóa 3/68. Cha
nàng là người chứng duy nhất trong tờ hôn thú ký giữa hoang mang và bối
rối của
con gái mình.
Cô
vào trong thương xá
Eden, lấy cầu thang máy lên lầu bốn. Thời gian đó là năm 1968, hãng
thông tấn
The Associated Press (AP), nơi cô làm việc, vẫn như còn bốc khói sau
tết Mậu
Thân. Cô đi làm với với tâm trạng lo âu, hai mắt lúc nào cũng mở to
nhìn các ký
giả, các nhiếp ảnh gia di chuyển trong văn phòng như vừa đi vừa chạy.
Cô phụ họ
nhớ cái này, quên cái kia. Ông chánh văn phòng lúc nào cũng như đứng
trên hai
hòn than, hai chân ông cứ bước lên nhau. Hãng AP trên lầu bốn của
thương xá
Eden, nằm sát cạnh NBC News. Bên đó họ cũng đang chạy loạn lên với máy
quay
phim, ống kính trên vai. Cái hành lang trên lầu bốn rầm rầm tiếng những
bước
chân của họ. Chiến tranh chạy như cơn lốc và họ đuổi theo để bắt cơn
lốc đó.
Cô
và ông chánh văn
phòng ngồi chung một office. Cái bàn của ông quay về phía cửa
ra vào, đối
diện với phòng của các ký giả bên ngoài, bàn của cô xoay ngang, bên
phải cô, cửa
sổ nhìn sang rạp Rex. Ngồi ở đây làm việc, thỉnh thoảng cô nhìn ra cửa
sổ thấy
rõ tấm bảng quảng cáo phim gì chiếu trong tuần này.
Bây
giờ cô chẳng còn
lòng dạ nào mà nghĩ đến phim ảnh. Mấy hôm nữa anh vào quân trường rồi.
Buổi
trưa anh đến đón cô. Anh rủ:
-
Xuống Givral mua mấy
cái bánh ngọt đi em.
Givral
ở ngay từng dưới cùng, góc Lê Lợi- Tự Do, cùng một khu với AP, là nơi
anh và cô
thân thiết lắm. Ông bán bánh quen mặt cặp trẻ này. Khi nào thấy hai
người ông
cũng nhắc; Pâté Chaud mới ra lò, còn nóng đấy! Thế nào anh cũng mua cho
cô một
cái, dù lúc đó là giờ anh đón cô về nhà ăn cơm trưa với mẹ anh. Anh
nói, mua
cho em, chiều ở sở có đói, em ăn. Ông bán bánh nếu hôm nào thấy chỉ có
mình cô,
ông cũng hỏi: Cậu ấy đâu? Bao giờ cưới?
Cô
mặt
đỏ lên, nói khẽ như sợ ai nghe thấy:
-
Sắp rồi.
Những
buổi chiều cuối tuần, trước khi đi xi-nê hai người thường ghé Givral,
cô ăn
kem, anh uống cà phê. Cô thỉnh thoảng thích ngồi nơi này, vì ông bán
bánh quen
mặt, lại tiện ngay bên dưới sở cô làm, và nhóm ký giả thân thuộc
hay tụ họp
ở đây. Hai người ngồi ở cái bàn nhỏ, đối diện với Continental. Khi nào
muốn yên
ả hơn họ rủ nhau sang La Pagode, nơi được gọi một cách thân mật là “Cái
Chùa”, ở
góc Lê Thánh Tôn và Tự Do . Quán này rộng hơn một chút, cũng là nơi các
nhà
văn, nhà thơ Việt Nam hay đến gặp nhau hút thuốc lá, nhâm nhi ngụm cà
phê, nói
chuyện văn chương và chuyện thời sự. Anh hay bỏ xe gửi, nắm tay cô đi
thong thả
trong buổi chiều Sài Gòn. Họ tạm quên chiến tranh, quên nhập ngũ, chỉ
nghĩ về một
tương lai: họ sắp có nhau, vĩnh viễn. Đường Lê Lợi, đường Tự Do, đường
Lê Thánh
Tôn, đường Nguyễn Huệ là những con đường hò hẹn thân yêu của riêng họ
từ ngày mới
yêu nhau. Từ ngày anh học Đại Học Sư Phạm, mỗi tháng có một ngàn năm
trăm đồng
của trường cho, anh đã mua những điếu thuốc lá lẻ giá năm đồng cho hai
điếu
trên những con đường này và trước cửa những rạp xi- nê.
Bây
giờ cô không còn
anh nữa, chiến tranh cũng đã đập anh ra như những bức tượng bằng đất
nung, anh
vỡ ra thành trăm mảnh
Ôi
Sài
Gòn của cô, của riêng cô thôi! (Đã có nhiều lúc cô yếu lòng nghĩ như
thế.) Mỗi
lần cô nhớ đến Sài Gòn, cô liên tưởng đến câu thơ của Mạc Đĩnh Chi:
Ô
hô!
Vân tán, tuyết tan, hoa tàn, nguyệt khuyết.
Trần
Mộng Tú
Tháng 4, 2010
(*)
I sit by the window. Outside, an aspen.
When I loved, I loved deeply. It wasn't often.
------------------------------------------
(*) I said the forest's only part of a tree.
Who needs the whole girl if you've got her knee?
(
Joseph Brodsky- Giải
Nobel Văn chương 1987)
(*)
Cưới
nhau xong là đi (Thơ Hữu Loan)
TMT
Đúng khu phố của GNV
Phải
đọc thêm khúc sau đây
nữa mới đã!
Il faut
savoir voir Lisbonne
pendant le temps exact d'un sanglot. La voir tout entière, par exemple,
dans la
première lumière du matin. Ou la voir complètement dans le dernier
reflet du
soleil sur la Rua da Prata. Puis pleurer. Parce que, même si c'est la
première
fois qu'on la voir, on a l'impression d'y avoir déjà vécu toutes sortes
d'amours tronquées, d'illusions perdues et de
suicides
exemplaires.
Vous marchez pour la première fois dans les rues de Lisbonne et
vous avez à chaque coin le vague souvenir d'y être déjà passé. Quand ?
Vous ne
savez pas. Mais vous êtes déjà venu ici avant d'y aller pour la
première fois.
PESSOA ET AUTRES MESSIEURS
le quartier littéraire de Lisbonne
Ôi chao
giá như viết nổi những
dòng như trên đây. Về Sài Gòn!
Phải
nhìn Sài gòn vào đúng thời gian của một tiếng nấc! Rồi cứ thế mà nức
nở.
Mà nước mắt ngắn, nước mắt dài.
Bởi vì, cho dù chỉ nhìn nó lần đầu, bạn vưỡn có cảm tưởng đã sống hết
những
cuộc tình thê lương của mình ở đó.
Ôi ôm em trong tay mà đã nhớ em những ngày sắp tới.
Bởi vì bạn phải ở Sài Gòn rồi, sau đó mới đến Sài Gòn, lần đầu.
Le quartier littéraire de Lisbonne: Góc
văn của Lisbonne
«Mais
suis-je celui qui vit
ici, / qui est retourné ici / qui y est retourné, retourné / et
qui y retourne encore?», se demandait l'employé de bureau Bernardo
Soares qui,
comme M. Pessoa, ne quittait jamais Lisbonne et donc n'y retournait jamais...
Nhưng tôi là ai, phải chăng là kẻ sống ở đây, ở Sài Gòn/ Kẻ trở về đây/
Trở về,
trở về/ Và còn trở về?
Tôi là kẻ chẳng bao giờ rời Sài Gòn, như tay nhạc sĩ họ Trịnh kia, nên
chẳng
bao giờ trở về.
J'y étais déjà venu avant d'y être jamais allé.
Tôi là kẻ đã từng tới Sài Gòn, trước khi chưa từng tới đó.
*
Góc văn của Sài Gòn, như của Lisbonne, là Quán Chùa.
Cũng có con đường Tự Do, thay vì Rua da Prata, nhưng, bởi vì thiếu một
góc biển
của Lisbonne, cho nên cuối đường là bến tầu, với lòng mình phơi trên kè
đá, với
những ống khói tầu mệt lả, và ném mẩu thuốc cuối cùng xuống lòng sông,
là ném
cả hy vọng, cùng cuộc đời trôi theo, cùng muôn trùng những chuyến vượt
biển,
theo ngón tay trỏ của pho tượng Đức Thánh Trần.
*
Ôi chao, nhớ ơi là nhớ, góc quán, góc bàn, những cây me bên ngoài, khúc
đường
này là cuối con đường Gia Long, đầu kia, là Ngã Sáu Sài Gòn....
*
...vivre à Lisbonne comme s'il était une allumette froide tandis que
les
maisons de ceux qui l'avaient aimé tremblaient à travers ses larmes:
Sống ở
Lisbonne như thể nó là một cây diêm lạnh giá, trong khi những căn nhà
của những
con người yêu thương nó run rẩy qua những dòng nước mắt.
Parce que, même si c'est la première fois qu'on la voir, on a
l'impression d'y
avoir déjà vécu toutes sortes d'amours tronquées, d'illusions perdues et de suicides exemplaires.
Bởi là vì, ngay cả khi, lần đầu tiên bạn nhìn thấy Sài Gòn, bạn có cảm
tưởng đã
sống, ở trong đó, tất cả những cuộc tình cụt ngủn, những ảo tưởng mất
đi, và
những cú tự làm thịt mình đáng làm gương cho hậu thế.
Source
Cái chuyện Sài Gòn không có
tuyết, mà lại có tuyết tan, đã lạ, nhưng cái chuyện lấy ý đó, “Vân tán
tuyết tan”, từ bài
thơ của Mạc
Đĩnh Chi, để đặt cho bài viết về Sài Gòn, mới lại càng lạ.
Liệu, đây là cái ẩn dụ tuyệt
vời nhất để nhớ về Sài Gòn, thành ra mới kéo thêm mãi ra, nào là "đâu
là những cánh
đồng tuyết năm xưa", "đâu là cái thành phố Sài Gòn khi còn anh còn em,
và, và, và…"
Cái tay độc giả VOA này, không
chịu đọc kỹ bài viết, thành ra mới thắc mắc quái đản như vậy:
Sài Gòn làm gì có
tuyết mà tan mới lại chẳng tan?
Tác giả đã giải thích liền
ngay đó, vậy mà không chịu đọc:
Ôi
Sài Gòn của cô, của riêng cô thôi!
(Đã
có nhiều lúc cô yếu lòng nghĩ như thế.)
Mỗi
lần cô nhớ đến Sài Gòn, cô liên tưởng đến câu thơ của Mạc Đĩnh Chi:
Ô hô! Vân tán, tuyết tan, hoa tàn, nguyệt khuyết.
Đó cũng là ý của những dòng mà GNV viết thêm
vào bài viết của TMT, từ những tác giả khác:
Phải
nhìn Sài gòn vào đúng thời gian của một tiếng nấc! Rồi cứ thế mà nức
nở. Mà nước
mắt ngắn, nước mắt dài.
Bởi vì, cho dù chỉ nhìn nó lần đầu, bạn vưỡn có cảm tưởng đã sống hết
những cuộc
tình thê lương của mình ở đó.
Ôi ôm em trong tay mà đã nhớ em những ngày sắp tới.
Bởi vì bạn phải ở Sài Gòn rồi, sau đó mới đến Sài Gòn, lần đầu.
Một độc
giả ‘hiện thực xã hội
chủ nghĩa", [giời ạ, tuyết ở đâu mà tuyết], thì làm sao đọc ra những
câu sau
đây:
...vivre
à
Lisbonne comme s'il était une allumette froide tandis
que les maisons de ceux qui l'avaient aimé tremblaient à travers ses
larmes:
Sống ở Sài Gòn như thể nó là một cây diêm lạnh giá, trong khi những
căn nhà của những con người yêu thương nó run rẩy qua những dòng nước
mắt.
Parce que, même si c'est la
première fois qu'on la voir, on a l'impression d'y
avoir déjà vécu toutes sortes d'amours tronquées, d'illusions perdues et de suicides exemplaires.
Bởi là vì, ngay cả khi, lần đầu tiên bạn nhìn thấy Sài Gòn, bạn có cảm
tưởng đã
sống ở trong đó tất cả những cuộc tình cụt ngủn, những ảo tưởng mất đi,
và những
cú tự sát mẫu mực đáng làm gương cho hậu thế.
Ôi Sài
Gòn của cô, của riêng cô thôi!
(Đã có nhiều lúc cô yếu lòng nghĩ như thế.)
GNV
rất
nhiều khi yếu lòng, luôn xí phần,
Sài Gòn, chỉ riêng cho BHD và Gấu!
|
|