Gạo
chợ nước sông
Ông
bà Tám Chẩn có ba người con nuôi: cậu Ba Nhu, cô Tư Bé
và cô Năm Vân. Gọi là Cậu Ba Nhu vì bà Tám đã có sanh nở một lần nhưng
không
nuôi được. Cô Năm Vân thì thỉnh thoảng có một ông chệt tới thăm, thiên
hạ xầm
xì, đó là ba cô.
Ông
Tám làm việc cho nhà giây thép tây. Cậu Ba Nhu vừa chợt
lớn đã lén lút theo Việt Minh. Gia đình không ai hay, cho đến khi cậu
bị bắt vì
bắn chết người tây trưởng đồn, do người này mấy lần định hãm hiếp
cô
Hai Liên là người yêu của cậu. Ông bà Tám rụng rời tay
chân, chạy chỗ này chỗ kia để thăm nuôi và nhìn mặt con, nhưng cuối
cùng nhà
nước bảo hộ nói, chờ ra tòa áo đỏ thì sẽ được gặp. Bữa ra tòa, chỉ có
bà Tám đi
với cô hai Liên. Đó là lần gặp cuối, thăm nuôi cũng lần cuối, vì cậu bị
án tử
hình. Cậu ba Nhu không buồn, chỉ trăn trối với bà tám là phải nuôi con
bé, con
của cô hai Liên vì cậu đã nhận nó làm con.
Cô
hai Liên về ở với ông bà Tám, cúng đủ thất tuần cho cậu
Ba thì cô từ giã. Bà Tám nói với cô để con bé lại cho bà nuôi; Bà muốn
giữ lời
hứa với cậu Ba, phần cô hai Liên còn quá trẻ mới 21 tuổi mà coi như đã
hai đời
chồng. Mới đầu cô không chịu nhưng sau đó thấy bà Tám thiệt tình thương
con nhỏ
nên cô bằng lòng.
Năm
đó nó mới được hai tuổi.
Vậy
là gia đình ông tám Chẩn có thêm một đứa cháu nội. Bà
đặt tên cúng cơm cho nó là con bé Hai. Ông Tám có một tiệm thuốc bắc,
ông là
đông y sĩ. Ông còn là thầy bùa lỗ ban nhưng không hại ai chỉ giúp người
và cứu
người. Gia đình ông rất bề thế trong làng Mỹ Hạnh Trung. Do giặc giã,
ông tản
cư ra chợ Cai Lậy, mua căn nhà ba gian ở bờ sông dưới dốc Cầu Kinh. Sau
năm
1954, ông vẫn tiếp tục làm ở nhà giây thép quận nhưng chỉ còn giữ chưn
đi phát
thơ trong chợ.
Con
bé Hai năm đó học lớp sáu. Nó rất thông minh, nhanh
nhẩu. Ông Tám cũng đã già. Mỗi lần ông ra nhà giây thép lãnh thơ về, bé
Hai lo
lựa thơ mang đi phát. Nó rất thích nghề này, vì mấy tiệm tàu trong chợ
mỗi lần
có thơ là đều cho nó tiền, thơ năm đồng, điện tín mười đồng. Mỗi ngày
tan học,
nó còn có nhiệm vụ ra sạp lấy nhựt trình cho ông Tám. Khi không có giờ
học, nó
cũng ra sạp báo, đó là sạp bán sách báo duy nhứt của chợ, ngồi hàng giờ
không
chán, chờ cho được tờ báo từ Sài Gòn theo xe đò xuống tới Cai Lậy, để
đọc
truyện chưởng "Cô Gái Đồ Long", trước khi đem báo về nhà. Sau khi đọc
xong phải vuốt tờ báo thẳng thớm như chưa có ai rờ tới. Ông nội nó rất
nghiêm,
không ai được đọc trước khi ông mở tờ báo ra. Nếu bữa nào phải chờ ông
nội nó
buông tờ báo ra mới được đọc "Cô gái Đồ Long" thì không gì đau khổ
cho bằng.
Đối
diện sạp báo là dãy nhà gồm có tiệm uốn tóc của cô Mai
Hoa, tiệm sửa xe đạp của Lê Minh Viên, kế bên là phòng ngủ của ông Hai
Khanh,
tiệm chụp hình Huê Thinh, rồi tới cái xe bán bánh mì thịt của bà tư
Liệu. Bánh
mì của bà Tư rất ngon. Bà có bịnh nói liệu: ai hù bà một cái là bà giựt
mình,
nói lung tung, biểu làm gì cũng làm theo. Con bé Hai còn nhớ trận đòn
chí tử
của ông nội khi nó và mấy đứa bạn hù bàTư làm bả đẩy luôn xe bánh mì
xuống
sông. Đối diện nhà ông Tám là trường tiểu học, có sân chơi quần vợt.
Chiều thứ
bảy và chủ nhựt, nó giữ chưn lượm banh lấy tiền ăn bánh.
Hôm
đó, được nghỉ hai giờ, vì thầy Trứ dạy Anh văn bị bịnh;
không muốn về nhà, nó lang thang ra sạp báo đánh búng với mấy đứa bạn,
chờ lấy
báo, vô tình nó nhìn thấy cô tư Bé đi vô phòng ngủ với một người đàn
ông. Hai
ngày sau, cô đi uốn tóc và hai tháng sau, anh thiếu úy biệt động quân,
tức
người đàn ông đi chung với cô tư vô phòng ngủ của ông Hai Khanh, bị
Việt cộng
bắn chết. Rồi cô sanh thằng Hoàng, thế là ông nội nó có thêm một đứa
cháu ngoại
không chờ đợi.
Những
người xấu miệng trên thế gian này không thiếu; họ gọi
nhà ông tám Chẩn là viện mồ côi. Cô năm Vân thì cục mịch hiền lành làm
đủ hết
mọi thứ công chuyện trong nhà, từ giặt đồ cho đến cơm nước. Bà tám Chẩn
chỉ có
việc sáng xách giỏ đi chợ rồi về bỏ đó. Mấy năm trước, mấy tá điền
thỉnh thoảng
còn nghĩ tình, sau mùa gặt chở ra cho ông Tám chút đỉnh lúa đủ ăn cả
năm, nhưng
từ khi giải phóng quân nổi lên rần rộ, họ viện cớ phải đóng thuế cho
hai bên
nên không thể đong lúa ruộng cho chủ điền, thế là cả cái đại gia đình
gồm sáu
bảy người phải ăn gạo chợ.
Cô
tư Bé sau khi sanh thằng Hoàng, nhờ ông Tám hốt thuốc bắc
bồi bổ, trở nên đỏ da thắm thịt. Cứng cáp rồi, cô nghĩ tới chuyện làm
ăn sinh
sống nuôi con. Cô là người sắc sảo, miệng mồm nhanh nhẩu nên được lòng
ông bà
Tám. Người thiệt thòi nhứt trong nhà là cô năm Vân, cô cũng chẳng bao
giờ muốn
tranh hơn tranh thua gì với ai, tới lớp năm, cô nghỉ học, rồi bà Tám
cho cô đi
học may.
Con
bé Hai vẫn tiếp tục đi phát thơ, đi lấy báo cho ông nội
nó. Đếãn năm học đệ ngũ nó bắt đầu biết xấu hổ, không còn cởi trần
xuống sông
tắm, cũng không còn muốn đi phát thơ vì mấy tiệm tàu trong chợ đều có
con cái
là bạn học của nó, như ông chủ tiệm bánh Hiệp Thành Hưng là tiệm hay
cho nó
tiền, lại là ba của con Hồng Lâm; ba con Ngọc Anh là chủ tiệm Quảng An
Đường.
Mỗi lần họ có thơ, nó bắt cô Năm đi đưa, nhưng phải chia tiền cho nó.
Nó luôn
lấy phần hơn, cô Năm tuy hiền lành vậy mà có bận cũng nổi sùng, "Nè ăn
dọng gì thì ăn hết đi".
Khi
bắt đầu trổ mã con gái, nó không còn muốn đi lượm banh ở
sân quần vợt. Cô tư Bé có thêm hai thằng con trai, và cũng không ai
biết ba tụi
nó là ai. Ông bà Tám sẵn sàng nuôi thêm hai đứa cháu ngoại không cha,
tụi nó
đều mang họ Lê của ông. Thời buổi càng lúc càng khó kiếm ăn, cô năm Vân
đã rành
nghề thợ may cũng có khách lai rai nên giúp đỡ thêm cho ông bà Tám, còn
cô Tư
thỉnh thoảng phụ tiền chợ cho bà Tám. Không ai biết cô làm nghề gì.
Có
lẽ chỉ có một mình con bé Hai biết, nó nghĩ vậy.
Buổi
chiều khi nước lớn đầy, trời cũng vừa tối, bé Hai mới
lội xuống sông tắm, nó thèm trầm mình ở dưới nước, lặn thiệt sâu xuống
đáy sông
để xem nín thở được bao lâu, nó lội rất giỏi nhưng từ khi nghe ông Tám
rầy, tắm
sông vào lúc trời chạng vạng tối sẽ bị mắc đàng dưới, mới đầu nó không
hiểu mắc
đàng dưới là gì, sau nghe ông Tám nói, đó là bị con ma ở dưới sông
thương rồi
theo bắt về làm vợ, nó không còn dám tắm sông nữa. Rồi bà Tám bắt nó
mặc áo nịt
ngực, không được ngồi chung chiếu với con traià bà đâu biết nó có rất
nhiều bạn
trai và nó thích chơi với con trai hơn con gái. Nó ghét con gái nhiều
chuyện,
con bé Lang, cháu ngoại ông Hai Khanh phòng ngủ vẫn thường hay nói xấu
cô Tư
nó, con bé Sáu con ông Lê Minh Viên thì nói cô Tư mầy làm bé người ta,
không
biết xấu hổ, còn mầy, ba má mầy đâu?.. Có lúc nó có ý nghĩ, nó là người
cô đơn
nhứt trên thế giới này, không còn đi lấy báo cho ông Tám, không còn leo
lên cây
trứng cá ngồi vắt vẻo trên cháng ba để kiếm những trái trứng cá chín,
và cũng
không còn ăn hiếp cô năm Vân nữaà nó bắt đầu ngồi chép những bài thơ,
nào là
"Hai sắc hoa ti-gôn" của TTKH rồi "Những đồi hoa sim" của
Hữu Loan, "Hai đứa" của Tế Hanh v..và nó rút lui khỏi cái thế giới
nhộn nhịp chợ búa, kiếm ăn hằng ngày của cái gia đình mà nó đang sống,
nó mơ hồ
biết mình là cây tầm gởi.
Năm
đó hạn hán kéo dài, hàng lu chứa nước mưa của bà Tám cạn
dần, chỉ còn hai cái cuối cùng chứa nước mưa ngâm bí đao để dành uống
cho mát
mẻ trong mùa hè. Cô năm Vân phải canh cho nước lớn thiệt đầy để xách
nước vô
lu, lóng phèn dành nấu ăn. Con sông chảy ngang qua cầu Kinh không lớn
lắm, nhà
ở san sát hai bên và người ta nuôi heo, làm cầu tiêu, giặt đồ, làm cáà
cái gì
quăng được xuống sông là họ quăng, khi nước ròng cứt trôi lều bều tấp
vô bơ ,
họ phải lấy cây đẩy cho nó trôi ra ngoài sông cái, bởi vậy mấy con cá
lòng tong
câu ở dưới sông lên lúc nào cũng mập ù ăn béo ngậy.
Ông
tám Chẩn có thói quen dậy đúng năm giờ sáng, súc miệng
rửa mặt xong xuôi, ông mặc áo bành tô xách ba ton đi ra ngã tư Cai Lậy
uống ly
cà phê, ăn cái bánh bao. Ông có lối uống cà phê kỳ lạ là đổ tách cà phê
ra dĩa
rồi từ từ nhấm nháp, sau khi về nhà ông mới bắt đầu đọc báo. Đó là tờ
báo chiều
hôm qua.
Trên
tầng trên của tiệm cà phê tàu là tiệm chụp hình Mỹ
Phương. Chủ tiệm là một người thanh niên độc thân, lấy tiệm chụp hình
làm nơi
ăn chốn ở luôn cho tiện. Con bé Hai quen Trần Thu Vân ở đó, lúc đến
chụp hình
để làm hồ sơ thi trung học đệ nhứt cấp. Tiệm hình Mỹ Phương chụp rẻ và
đẹp hơn
tiệm hình Huê Thinh trong chợ nên mấy đứa học trò nghèo hay đến đó.
Trần Thu
Vân là một người có nét mặt rất đàn ông, đôi mắt sáng quắc dưới cặp
kính trắng,
điềm đạm và thu hút, Vân là bạn của Mỹ Phương, con bé Hai chỉ biết vậy.
Lần đầu
tiên nó đã bị nụ cười của gã đàn ông lớn hơn nó gần 20 tuổi chinh phục,
lúc nó
đến lấy hình thì Mỹ Phương nói nó rất ăn ảnh và muốn chụp vài tấm ảnh
kiểu, đứa
nào nghe khen mà không khoái nên nó chịu, mà ảnh nó đẹp thiệt chứ không
phải Mỹ
Phương khen lấy lòng, và bữa đó Vân đưa cho nó một cuốn tập dầy 200
trang,
trong đó hầu hết là những bài thơ tiền chiến, toàn là những tác giả mà
nó thích
mê mệt như Huy Cận, Nguyễn Bính, Xuân Diệu, Thâm Tâm, Lưu Trọng Lư...
cuối cùng
là hai bài thơ của chính người đưa tặng tập thơ viết, để tặng cho cô bé
con,
dưới ký tên là người lữ khách cô độc. Tình bạn của nó và người "lữ
khách
cô độc" càng ngày càng thân, Vân không thường xuyên ở Mỹ Phương, có khi
đi
đâu cả tuần hoặc hơn nửa tháng lại về và mỗi lần về Cai Lậy là đều đến
cổng
trường, lặng lẽ âm thầm đứng dưới gốc cây me tây, trường nó không có
phượng mà
chỉ có hai cây me tây, những cánh hoa màu hồng nhạt có một mùi thơm rất
dễ
thương, và mỗi lần như vậy Vân thường hay nói chuyện với thầy Kim là
giáo sư lý
hóa của nó.
Không
biết ai nói tới tai ông Tám là tiệm hình Mỹ Phương
chưng hình con bé Hai làm kiểu. Nó bị ông nội rầy một bữa nên thân, tấm
hình để
mái tóc dài phủ một bên mặt, đôi mắt mơ màng với nụ cười buồn đã được
Mỹ Phương
tô điểm thêm rồi treo ngay trước cửa tiệm khiến nó bị nổi tiếng ngang
xương.
Sắp
nghỉ hè, lớp đệ tứ là lớp buồn nhứt vì bạn bè chia tay
rồi sẽ không còn gặp lại, đang lúc mọi người sửa soạn ăn liên hoan cuối
năm thì
bỗng có một chiếc xe Jeep chạy vô trường và ba người đàn ông xuống xe
vô văn phòng,
họ đến mời thầy Kim về Ty cảnh sát Mỹ Tho để làm việc.
Con
bé Hai bỏ hai giờ học cuối cùng đến tiệm hình Mỹ Phương,
lâu lắm rồi nó không đến đó vì nó biết chú Vân của nó chưa về, và Mỹ
Phương đưa
cho nó một cái thơ. Đêm đó, bé Hai khóc, nó biết tại sao thầy Kim bị
bắt và chú
Vân của nó thì đã đi rất xa rồi.