Cõi
Khác
1969 (1)
Những đêm trực ở Đài, hoặc ngủ
ngay sau
khi đọc vớ vẩn một mẩu báo, một trang tiểu thuyết, nghe lơ đãng một
điệu nhạc,
một giọng hát, chập chờn theo khói thuốc rồi ngủ lúc nào không hay. Có
khi ngủ
luôn tới sáng. Đó là những đêm thành phố may mắn không bị pháo kích,
tình hình
chiến sự tương đối yên tĩnh. Nhưng hầu như đêm nào cũng bị dựng dậy.
Khi thì
nhân viên viễn ký hai hãng AP, UPI yêu cầu chỉnh lại tín hiệu. Hoặc
đồng nghiệp
trực Đài phát tín Phú Thọ nhắc đến giờ thay đổi tần số liên lạc. Có khi
một
đồng nghiệp Phi Luật Tân ở mãi Manila réo chuông máy viễn ký liên hồi,
chỉ để
hỏi thăm thời tiết Sài-gòn, tình trạng vợ con gia đình, hay nhờ dịch
giùm một
message bằng tiếng Pháp của hãng SITA than phiền nhân viên RCA Manila
làm ăn
cẩu thả. Một lần ngủ quá say dù đã cẩn thận để điện thoại ngay kế bên,
và chỉ
giật mình thức giấc khi nghe tiếng đập cửa ầm ầm: Anh chàng Mẽo trưởng
phòng
tin tức AP và nhân viên viễn ký, cũng đồng nghiệp Bưu Điện làm ngoài
giờ cho
hãng thông tấn ngoại quốc, một đỏ gay tức giận, một lắc đầu ái ngại,
hình như
vào lúc đó hai ông Thiệu Kỳ đang gặp tổng thống Johnson tại đảo Midway.
Hôm sau
bị ông Tổng Giám Đốc, cũng may còn là thầy dậy cũ khi học trường Quốc
Gia Bưu
Điện, gọi lên văn phòng giũa cho một trận. Bị nặng nhất là trong Mậu
Thân đợt
hai. Khoảng gần nửa đêm, UPI vớ được hình đặc biệt, bằng mọi giá phải
chuyển
ngay đi Tokyo: Chừng trên dưới một chục ký giả, phóng viên ngoại quốc,
ngồi xe
díp lùn có gắn bảng báo chí, Press, ở kính trước, không may bị Việt
Cộng tóm
được tại khu chợ Thiếc. Sau cùng là thảm sát. Người gục chết trên vô
lăng, kẻ
vắt nửa khúc đầu trên sàn xe, nửa khúc đuôi trên mặt lộ. Sau này, khi
cuộc
chiến nghiêng về phía Miền Bắc, dư luận thế giới hình như chỉ còn nhớ
cảnh
tướng Loan xử bắn tù binh ngay trên đường phố. Hôm sau, Horst Fass,
trưởng
phòng hình ảnh AP, thay vì gọi điện thoại than phiền với Trưởng Đài Vô
Tuyến
Điện Thoại, anh viết văn thư tố cáo gã chuyên viên trẻ, Jeune
Technicien, nhân
viên Bưu Điện làm cho UPI, đã gửi hình trong giờ giới nghiêm. Sau cùng
mọi
chuyện cũng ổn thỏa, vì ngay những ngày đầu biến cố Mậu Thân, khi hai
bên đang
tranh giành từng viên gạch, hoặc đánh cuộc xem tao Dù hay mày Biệt Động
Thành,
ai chết trước tại Đài Phát Thanh Sài-gòn ngay kế bên, khi đám quân cảnh
Mỹ đang
vật lộn tay đôi với Việt Cộng tại Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ cách đó cũng không
xa, gã
chuyên viên trẻ do nhà ở cạnh Đài, lại đúng đêm trực nên đã một mình
"tử
thủ", sau thêm tay phóng viên AP được đám lính Dù, lính chiến xa mở
vòng
kẽm gai cho vào bên trong phòng tuyến. Gã chuyên viên trẻ đã chuyển
hình cho
AP, giùm ông bạn già trước cũng nhân viên Bưu Điện nhưng bị An Ninh
Quân Đội cho
đi nằm ấp một thời gian dài, khi được thả bị Bưu Điện cho về hưu non,
do có kẻ
tố cáo ông là Việt Cộng nằm vùng ngay từ hồi còn ông Diệm. Sự thực ông
bị một đồng
nghiệp mưu hại chỉ vì nhất định không vào đảng Cần Lao hay tham gia
phong trào
Cách Mạng Quốc Gia. Những ngày đầu tháng Tư, AP đề nghị cho cả gia đình
ông đi
Mỹ, nhưng ông từ chối.
Bao nhiêu năm, quãng đời vẫn
bám cứng.
Những giây phút tuy chết chóc, tuy kinh hoàng nhưng sao vẫn có vẻ chi
quyến rũ,
chi kỳ cục. Cảm giác của một người tuy biết rằng có thể chết bất cứ lúc
nào
nhưng vẫn loay hoay, cựa quậy: Gã chuyên viên trẻ lui cui chỉnh tín
hiệu máy
chuyển hình, như đây là tấm cuối cùng, đặc biệt nhất, chất lượng nhất.
Gã phóng
viên người Mẽo cao như cây sào, chẳng biết một chút gì về máy móc, kỹ
thuật,
nhưng cũng chăm chú theo dõi, như để nhắc nhở nếu có gì sai sót, và
không quên
lom khom, cố thu gọn cái thân xác kềnh càng sao cho bằng gã chuyên viên
người
Việt, ý như vậy là đồng đều nếu chẳng may có một viên đạn bất ngờ. Cả
hai cùng
lúc nhoài người xuống sàn nhà, có khi còn trước cả một tiếng nổ lớn
ngay phía
dưới chân building, hay ở Đài Phát Thanh liền bên. Những lúc tiếng súng
tạm
ngưng, trong khi chờ Tokyo xác nhận chất lượng buổi chuyển hình, và
quyết định
tấm nào cần lập lại, cả hai chăm chú theo dõi biến động trên bản tin
AP, UPI
qua máy viễn ký, có cảm giác vừa ở bên trong vừa bên ngoài những giây
phút nóng
bỏng, và chiến tranh cho đến lúc này, vẫn còn thuộc về những kẻ kém may
mắn hơn
mình.
Bao nhiêu năm vẫn còn giữ
nguyên cảm giác
rụng rời, trong đêm khuya vì mệt mỏi quá thiếp đi, khi giật mình thức
giấc,
thản nhiên bật đèn, thò đầu ra bên ngoài cửa sổ, thấy từng mũi súng
trên tháp
chiến xa giận dữ ngó thẳng khuôn mặt trắng bệch, tách bạch từng sợi tóc
đang
dựng đứng...
Có đêm, khoảng ba giờ sáng,
chợt thức
giấc, mở cửa căn phòng nhỏ có gắn máy lạnh và được ngăn tiếng động, ban
ngày
dùng làm studio cho đám phóng viên các hãng thông tấn truyền hình đọc
tin về
hãng chính và cùng lúc cho cả thế giới. Khi chiến tranh leo thang, nhất
là sau
vụ nổ tại nhà hàng Mỹ Cảnh khiến gã chuyên viên và ông Trưởng Đài suýt
mất mạng
nếu không có sự thông cảm của số mệnh, vào phút chót đã kiếm giùm hai
người thế
mạng, Bưu Điện cho thành lập Trung Tâm Báo Chí, Press Centre tại khu
Thương Xá
Rex và Trung Tâm USO ở đường Nguyễn Huệ cho đám quân nhân Mỹ, khi đó
cuộc sống
tại đỉnh cồn mới trở lại bình thường, và bớt mùi nơm nớp sợ sệt. Buổi
sáng sớm
không còn cảnh mở cửa ra cầu thang thấy một anh GI nằm ngủ ngon lành,
chờ làm
người khách hàng đầu tiên nói chuyện với vợ con gia đình. Hoặc cảnh một
cô điện
thoại viên dẫn anh chàng ngoại nhân vào phòng studio, khi trở ra anh
khóc ròng:
Giờ này đã nửa đêm gần sáng, vậy mà vợ anh không có nhà. Thời gian đầu,
Bưu
Điện chỉ có một mạch vô tuyến điện thoại trực tiếp với Oakland, California
qua hệ thống cao tần HF, máy móc sử dụng do người Pháp để lại nên ba
trật bốn
vuột, và chỉ trao đổi điện đàm cao lắm là hai hoặc ba tiếng đồng hồ.
Rồi cuộc
chiến bắt đầu thực hiện những điều cam kết tàn khốc. Ông Diệm chết.
Người Mỹ đổ
quân xuống bãi biển Đà Nẵng, hy vọng mở ra một Normandie thứ hai tại Á
Châu,
lập lại lịch sử, lần trước là Phát-xít, Quốc Xã, lần này biết đâu là
Cộng Sản.
Đám diều hâu kên kên ký giả, phóng viên, đánh mùi xác chết, thèm mùi
danh vọng,
biết đâu một "Chuông Gọi Hồn Ai", một "Mặt Trận Miền
Tây..." tái xuất hiện nơi đầm lầy nhiệt đới này. Đám tài phiệt ATT ở
Mỹ,
RCA Manila, Cable/Wireless Hongkong... ngửi mùi tiền, đổ xô vào Việt Nam.
Sốt sắng nhất là RCA Manila.
Được lời mời
của Bưu Điện, họ phái ngay hai chuyên viên Phi Luật Tân qua Sài-gòn
giúp thành
lập mạch viễn ký, đường điện thoại viễn liên Sàigòn-Manila (vô tuyến
điện), Manila-New York
(cáp ngầm dưới biển). Trong bữa tiệc chia tay tại nhà hàng nổi Mỹ Cảnh,
số phận
run rủi xui khiến gã chuyên viên nẩy ý định tốt, nhường hai ông bạn mới
quen
chỗ ngồi phía trong, nhìn ra mặt sông, ngắm cảnh Thủ Thiêm, những con
đò đưa khách
qua lại hoặc mua vui trên sông, những ánh đèn rực rỡ từ những con tàu
đùa giỡn
cùng sóng nước. Như đã được chỉ định làm vật tế thần, hai ông bạn Phi
vừa mới
chân ướt chân ráo tới Sài-gòn, chưa được thưởng thức gái đẹp, đồ ăn
ngon, phong
cảnh hữu tình, đã hứng giùm hầu hết những mảnh mìn Claymore từ phía bờ
sông
thổi xuống. Một bị mảnh mìn cưa ngang cổ họng chết tại chỗ. Một bị
thương nặng,
được chở cấp tốc về căn cứ Clark Phi luật Tân, vài ngày sau chết vì
xuất huyết
nội sau khi giải phẫu. Gã chuyên viên trẻ suýt cụt một cánh tay, nếu
không nhờ
tài giải phẫu của Bác Sĩ Daney, người Pháp, làm việc tại nhà thương
Grall. Vậy
mà anh ta cũng không làm sao từ bỏ được cái tật khuỳnh tay lên thành
ghế.
Có khi vào khoảng hai ba giờ
sáng, như
người khách tuy không được Cõi Âm mời gọi nhưng vẫn cố tình mò tới, như
bị
người chết, những gã phóng viên, nhiếp ảnh viên người Mỹ, người Nhật...
dựng
dậy, gã chuyên viên trẻ mở cửa căn phòng nhỏ, bước ra ngoài nhìn đám
máy móc
quen thuộc. Ra bao lơn nhìn ngang tầm thành phố. Ngọn đèn đỏ lập lòe
trên tháp
Đài Truyền Hình, trên tháp Đài Viba Bưu Điện. Những hàng cây đen sẫm
trong đêm.
Những ngọn đèn đường lạnh. Bãi đất trống bên dưới chân Đài. Những vòng
kẽm gai
quấn quanh tòa nhà. Những người lính gác trong những công sự cá nhân
quanh quất
đâu đó... Chính vào những lúc cô đơn như thế, vẫn thường tự hỏi đã yêu
thương
cô bạn, kể từ lúc nào...
Khi chưa gặp nhưng đã tưởng
tượng ra một
hình bóng, một dáng dấp tuy mảnh mai yếu ớt, nhưng cũng thật bướng bỉnh
cứng
cỏi, tuy sẵn sàng chịu đựng, sẵn sàng tha thứ cho lỗi lầm của kẻ khác,
kể cả
lỗi lầm của định mệnh, nhưng không thể nào cho phép cuộc chiến, cuộc
đời, hoàn
cảnh sống và nhất là những người khác làm xấu đi, hủy hoại, hoặc tiêu
diệt. Một
hình ảnh kết tụ của khí hậu, đất đai, mùa màng, cây cối... thay thế
những nuối
tiếc chắt chiu, những khô cằn, khắc nghiệt, mặc cảm côi cút, bất hạnh:
Tất cả
đã chết, lần thất thểu dưới mưa, chạy theo một cô bé con với một ý
tưởng thật
ngây ngô tức cười, nhưng cũng thật cảm động: "Anh yêu em bởi vì anh yêu
Hà-nội."
Hay ngay khi gặp lần đầu nhưng
tất cả đều
đã muộn, đã không thể sửa chữa được, và đó là ý nghĩa của thảm kịch,
thần thánh
cũng phải cúi đầu khuất phục.
Hay những lần gặp sau đó, những
buổi tối
ngồi trò chuyện ở phòng khách trong khi mấy đứa em, mấy cô bạn ở chung
nhà đã
lui vào phía trong. Kể cô nghe những chuyện lặt vặt ở sở, cuốn phim vừa
coi,
cuốn sách vừa đọc, xứ Bắc Kỳ xa xôi, và Hà-nội. Nghe cô kể những năm
học trường
quận lỵ, trung học Mỹ Tho, đại học Đà Lạt. Nghe cô giảng giải về một
miền đất
không hoàn toàn giản dị. Phải nhạy cảm lắm mới nhận ra chút dấu hiệu
thật mơ
hồ, mong manh của sự chuyển mùa: Mối tình lúc đầu giống như chớm thay
đổi thời
tiết. Tự nhủ thầm cô bạn chắc không nhận ra, và sẽ chẳng bao giờ dám
thú nhận.
Sau này nhớ lại, đã thực sự yêu thương, không phải lần vì quá cô đơn,
lén viết
lên trang tiểu thuyết Tô Hoài cô đang đọc, trong lúc cô lui vào trong,
Je vous
aime, nhưng khi tới báo tin đứa em trai tử trận, không gặp, đành nhờ
một cô bạn
ở chung nhà nói giùm, tin chắc cô sẽ hiểu.
Và trong những đêm ngồi canh
xác đứa em
tại nhà Hội thị xã Sóc Trăng, chờ máy bay đưa về nghĩa trang quân đội
Gò Vấp
mai táng, trong lúc loay hoay thắp từng cây nến trên quan tài bị gió
thổi tắt,
hay nhặt nhạnh từng mẩu nến, đốt lên ngọn lửa ngồi xúm quanh, chia nhau
chút
hơi ấm, hơi lạnh của người đã chết, nghe những người lính, viên sĩ quan
cùng
đơn vị nói về những ngày đầu chuẩn uý tới nhậm chức, những giờ phút
cuối...
Trong những giờ phút thê lương vẫn nghĩ rằng một ngày nào sẽ kể lại tất
cả.
Sau cùng phải cảm ơn cô bạn đã
cho có đủ
thời giờ kể hết mối tình. Con chó dại trong một phút cô đơn, tỉnh táo
không còn
sợ hãi cái bóng của chính nó. Những lần từ biệt cô trên đường trở về,
thành phố
những đêm run rẩy chờ đợi những đợt pháo kích bất thần giáng xuống.
Những ngã
tư đường chằng chịt những vòng kẽm gai. Có những khoảng đường phải
xuống xe dẫn
bộ. Đôi khi đi lầm vào một quãng đường cấm phải đi ngược trở lại. Trong
bóng
đêm nhợt nhạt của những ngọn đèn đường, nhìn thấy những mũi súng đen
sâu thăm
thẳm chứa đầy ngờ vực đe dọa. Nhìn thấy hết mọi nỗi bi thương, nếu
chẳng may
sinh ra mà không được gặp cô bạn, nếu chẳng may bị cô hất hủi, nói
không, nói
không thể yêu, không thể hiểu được tình yêu là gì. Nhiều lần tới nhà
khi đã quá
khuya, trong nhà đèn đã tắt, tất cả chắc đã yên ngủ từ lâu: Hoặc hết
sức muốn
gặp. Muốn nhìn thấy bóng dáng. Nghe tiếng chân di động. Tiếng lách cách
mở cửa.
Rồi tiếng nói, tiếng nói... Muốn liều lĩnh đập cửa ầm ầm. Bắt buộc cô
hốt hoảng
trở dậy, vội vã bật đèn, vội vã mở cửa. Bắt buộc cô phải nghe, phải
nói, phải
gật đầu ưng thuận, trong khi không có thì giờ để phân vân, cân nhắc...
Hoặc không hề có ý định gặp.
Không hề
trông mong cô sẽ giúp đỡ, thông cảm... Đứng yên lặng trước mái hiên
hàng giờ, nghe
tiếng chuột chạy trên đám lá khô, tiếng mèo kêu thảm thiết trên mái
ngói, chờ
cơn cuồng nộ vô ích tàn lụi dần rồi thất thểu rời con ngõ. Một lần xe
hết xăng,
đứng xớ rớ ngay giữa mặt lộ, mơ hồ hy vọng một tên khùng, một thằng
say, hay
một người lính ban cho một cái chết lãng nhách, nhưng ít ra còn có thể
giải
thích như một tai nạn. Sau cùng một người đi đường đã thương tình kéo
về tận
đỉnh cồn. Nơi làm việc là tầng lầu trên cùng của một building, bất động
sản của
người Pháp. Những đêm trực thường lợi dụng những lúc rảnh rỗi giao Đài
cho
người phụ ca, lấy xe chạy vòng vòng. Ghé quán cà phê khu Đa Kao, nơi
đứa em
từng ngồi dán lưng vô tường chờ Thần Chết dựng dậy. Quán cà phê túi, hủ
tíu Tầu
khu ngã Sáu Sài-gòn, hồi tưởng những ngày còn đi học, cuốn sách trên
tay, ly
hồng xà trước mặt và cứ thế ngồi suốt buổi. Ghé sạp thuốc lá, mua từng
điếu lẻ,
một thói quen từ hồi còn đi học, sống bằng sự yêu thương đùm bọc của Bà
Trẻ
trong căn nhà ở cuối hẻm Đội Có, Phú Nhuận. Ghé sạp báo mua một tờ có
đăng
truyện chưởng Kim Dung. Lướt qua những hàng chữ lớn nơi trang nhất. Một
lần đọc
thấy tin quận lỵ quê cô bạn bị pháo kích, sáng sớm hôm sau vội ghé nhà
rồi cả
hai ra bến xe đón những chuyến đầu tiên từ lục tỉnh lên. Khi biết cuộc
pháo
kích không gây thiệt hại nghiêm trọng, đã đánh bạo rủ cô ra Sài-gòn. Đó
có lẽ
là lần du ngoạn đầu tiên.
Một lần trên đường về, khi chạy
xe đến gần
khu chợ Bến Thành, từ xa đã nhìn thấy một gói đồ nằm giữa mặt lộ, đường
Trần
Hưng Đạo, dưới ánh đèn chói lòa. Có tiếng súng nhỏ rồi tiếng còi xe
Quân Cảnh
thổi dạt xe cộ, người đi đường qua hai bên. Khi cơn báo động hoảng đã
qua đi,
trong một thoáng bỗng nhận ra vẻ tiều tụy của thành phố. Của mối tình.
Ngay cả
những giây phút êm đềm ngồi quây quần bên mấy đứa em, mấy cô bạn, vẫn
cảm thấy
cực kỳ cô đơn, có cảm giác như không còn thương yêu nổi ai, đã tự lừa
dối khi
nghĩ rằng đã yêu thương cô bạn. Đã lấy mức độ pháo kích làm thước đo
tình yêu,
đã lầm tiếng hỏa tiễn là tiếng reo hò đắc thắng của mối tình: Nhiều khi
quẩn
trí còn mong mỏi thành phố bị pháo kích hoài hoài để được sống mãi mãi
những
giờ phút thê thảm nhất của mối tình. Những ngày Mậu Thân căng thẳng,
Đại Học
đóng cửa, cô bạn về quê, nỗi nhớ bám riết vào da thịt thay cho cơn bàng
hoàng
khi cận kề cái chết theo từng cơn hấp hối của thành phố cùng với tiếng
hỏa tiễn
réo ngang đầu. Trong những giờ phút lặng câm nhìn bóng mình run rẩy
cùng với
những thảm bom B52 rải chung quanh thành phố, trong lúc cảm thấy còn
sống sót,
vẫn thường tự hỏi, phải yêu thương cô bạn một cách bình thường, giản dị
như thế
nào cho cân xứng với cuộc sống thảm thương như vậy...
1969 (2)
Mối tình tưởng tượng nhưng luôn
có cảm
tưởng cuộc chiến coi nó như kẻ thù, luôn soi mói rình rập, khi nhắn nhủ
khi đe
dọa, phải chi mi đừng tưởng tượng ra một cô bạn tuyệt vời như vậy, phải
chi mi
bớt yêu thương cô bạn đi một chút, số phận không phải của riêng mi mà
biết đâu
của cả dân tộc sẽ bớt chút thê thảm. Khi cô bạn tìm được người bạn đời,
mi
không còn trông cậy vào đâu để chạy trốn nỗi cô đơn, đành trốn chui
trốn nhũi
vào trong mớ sách vở, và khi hết còn chịu đựng nổi, đã tàn phá đời mi
thay vì
chịu thua... Đó những ngày trên khuôn mặt người dân Sài-gòn khi ra
đường còn
nguyên vẻ hốc hác mất ngủ, xen đôi nét mừng rỡ vì đêm qua Việt Cộng tha
không
pháo kích vô thành phố. Hằng đêm, họ không còn được nghe lời ân cần
chúc đồng
bào ngủ ngon, xin đồng bào vặn nhỏ chiếc la-dô để khỏi làm phiền bà con
lối
xóm. Thay vào đó là một giọng nói đã được gột bỏ mọi rào đón: Tên những
người
phải trình diện theo lệnh Tổng Động Viên, nghe như đã thuộc tài nguyên
của một
thế giới khác, những con số kèm theo tên mỗi người ít ra còn chút ý
nghĩa vì
chúng cho biết sắp tới lượt ai được Thần Chết coi giò coi cẳng...
Nhà cô bạn lúc này đã dời vô
Chợ Lớn. Căn
nhà cũ, khu chung cư Nguyễn Thiện Thuật, tuy không bị thiêu rụi trong
biến cố
Mậu Thân nhưng cũng không còn có thể ở được. Phần hồn của nó đã chết
theo cả
khu, còn chút nào cô gái đem theo cùng với cô về cuộc đời mới, một buổi
tối làm
như tình cờ ghé qua, thấy tất cả đều lạ mặt. Cảnh vật, con người còn tỏ
vẻ giận
dữ, như thể mi là nguồn cơn của mọi tai họa, tại mi mà cô ta rời khỏi
chỗ
này... Vậy mà khi đến lượt trình diện, thời tiết Miền Nam những ngày
cận Tết,
lần đầu tiên nằm giường sắt Quang Trung, tự nhủ thầm đứa em trai cũng
có thể đã
từng nằm đúng trên chiếc giường sắt lạnh lẽo này... Khi đã bớt bi
thương, vẫn
khuôn mặt cô bạn từ trong căn nhà đứng nhìn ra, vẫn mũi súng đen ngòm
ngó sâu
vô mắt, đêm nào từ nhà cô bạn về đã quá giờ giới nghiêm, một người lính
từ đáy
sâu thành phố đột nhiên xuất hiện. Anh chàng như bực tức vì đã phải chờ
đợi
giây phút này từ đời kiếp nào, như hả hê vì bắt được quả tang, mũi súng
đen
ngòm đầy hăm dọa tra hỏi, nhưng cũng đầy đau thương trắc ẩn: "Có phải
mi
yêu thương cô bạn?", và cứ thế khăng khăng chối miết :"Không,
Không!"...
Ba mươi năm sau, tưởng vết thương đã lành, tưởng không chỉ mọi người mà
ngay cả
chính mi cũng đã quên đi, Thần Chết cũng bỏ qua, hoặc chính nó cũng bị
đánh
lừa, hả hê trong nỗi chiến thắng, như vậy mi không hề chịu thua định
mệnh, đúng
vào lúc đó, mọi chuyện lại bắt đầu, còn thê thảm hơn ngày nào, bởi vì
bây giờ
đâu còn chiến tranh để mà ăn vạ. Không những vậy, bây giờ mi còn một
người vợ
mà mi chưa từng nói được một lời yêu thương an ủi, còn mấy đứa nhỏ đã
trưởng
thành, hoàn toàn do người vợ đau khổ của mi nuôi nấng, dậy dỗ...
Đột nhiên nhớ những ngày
ở Trung Tâm
Ba Tuyển Mộ Nhập Ngũ. Nhớ cái chết của anh chàng thanh niên tuy cách xa
chừng
chục tuổi nhưng cùng trình diện một đợt. Bởi vì đối với mi, nếu không
có biến
cố Mậu Thân và sau đó là lệnh Tổng Động Viên, chắc gì đã có dịp được
nằm giường
sắt Quang Trung. Mấy ngày đầu bỡ ngỡ, suốt ngày ngồi câu lạc bộ, hoặc
bên ly cà
phê, hoặc bận rộn với mấy trái bida, đêm nằm co quắp trên chiếc giường
sắt.
Đúng vào thời điểm này, bài Tình Nhớ của Trịnh Công Sơn vừa được tung
ra.
Khoảng nửa đêm, một tay nào chắc nhớ nhà, nhớ bồ, hay chính nỗi cô đơn
của mi
cứ thế huýt sáo mãi điệu nhạc... Bây giờ mỗi khi tình cờ, hoặc cố tình
nghe
lại, có cảm tưởng bài nhạc vẫn cất giữ giùm nỗi chia xa Sài-gòn trong
khi cuộc
chiến, trước mắt là những ngày tháng gian khổ nơi quân trường đang chờ
đợi, nỗi
nôn nóng mong được gặp lại cô bạn nếu mai kia có dịp trở lại Sài-gòn.
Nhưng kỳ
diệu, không, phải nói thê thảm, bài nhạc vẽ rõ bộ mặt, tuy non nớt tuy
thẫn thờ
ngơ ngác, còn nguyên nét học trò lần đầu tiên xa mái trường, lìa gấu áo
mẹ,
nhưng vẫn toát ra vẻ bướng bỉnh, liều lĩnh của một con bạc dốc hết túi
làm cú
đánh cuối cùng: Để phản đối chiến tranh, thay vì trốn tránh, cưỡng lại
lệnh
trình diện nhập ngũ, cậu thanh niên chờ chiếc xe GMC đang chạy hết ga,
từ bên
lề đường ngay phía bên ngoài câu lạc bộ, lao ra hứng trọn...
Đợt trình diện đó có đủ mặt
"anh
hào". Thì vẫn đám bạn bè từng ngồi chung bàn ở quán Cái Chùa, cùng ngửi
mùi mực in quán Văn đường Phạm Ngũ Lão. Quán có ông chủ già rất lịch
lãm, và ưu
ái anh em văn nghệ, chẳng bù cho ông thư ký tòa soạn Trần Phong Giao,
bảo hoàng
hơn vua, lúc nào cũng nhăn nhó trong cách tính trang, tính tiền nhuận
bút, và
nhất là trong việc giúp đỡ những người chưa thành danh muốn nhờ bảng
hiệu nhà
xuất bản Nguyễn Đình Vượng. Cậu thanh niên hình như chưa từng bỏ sót
một số báo
Văn, "văn kỳ thanh" nào Nguyễn Xuân Hoàng, nào Huỳnh Phan Anh... lần
này gần như gặp đủ mặt. Sau khi cậu ta tự tử chỉ hùi hụi tiếc một điều,
nếu
biết trước đã kéo cả bọn tới trình diện. Bởi vì Huỳnh Phan Anh, bị ám
ảnh bởi
những ngày "đổ mồ hôi nơi quân trường thay vì đổ máu nơi trận địa",
cộng thêm những lời hù dọa của những anh chàng ra vẻ hiểu biết những
trò
"huấn nhục" sắp tới, khiến căn bệnh bao tử đột nhiên lên cơn, đêm nào
cũng dùng cái thùng nước lèo của mi làm chiếc gối; còn Nguyễn Xuân
Hoàng vốn bô
trai nên lúc nào cũng quanh quẩn bên mấy nữ tiếp viên câu lạc bộ; cuối
cùng chỉ
có còn mi, để quên đi nỗi nhớ, để đỡ bồn chồn chờ ngày nghỉ phép cuối
tuần gặp
lại Sài-gòn, gặp lại cô bạn, đã thân cận người bạn nhỏ mê văn chương và
có thể
còn mê làm cách mạng, còn mong mỏi cái chết của mình có thể sẽ có ích,
nếu không
gây một tiếng vang nào đó thì ít ra cái mạng sống này cũng do ta quyết
định.
Nhưng những người Quân Cảnh đã mau chóng xóa sạch dấu vết, nếu còn
chăng, đối
với mi, là khuôn mặt trẻ thơ không chút dấu hiệu cho biết đây là người
được Thần
Chết tuyển chọn, không thông qua cuộc chiến...
Đêm, vẫn đêm đêm, như hồn ma cố
tìm cách
nhập xác, như tên trộm muốn đánh cắp thời gian đã mất, mi một mình trở
lại
Sài-gòn, quán Cái Chùa. Những buổi sáng ghé 19 Ngô Đức Kế, nếu không có
Radiophoto cần chuyển, thay vì như người ta trở về nhà chở vợ đi ăn
sáng rồi
đưa tới sở làm, mi chạy xe dọc đường Tự Do, ngó con phố bắt đầu một
ngày rồi
ghé quán Cái Chùa làm người khách thứ nhất, chẳng cần ra dấu, người bồi
bàn tự
động mang tới ly cà phê sữa, chiếc bánh croissant, và mi ngồi trầm ngâm
tưởng
tượng cô bạn chắc giờ nầy đang ngó xuống trang sách, cuốn tập tại giảng
đường
Văn Khoa khi đó đã chuyển về đường Cường Để, cũng gần nơi làm việc, tự
nhủ thầm
buổi trưa có nên giả đò ghé qua, tuy vẫn ghi danh chứng chỉ Triết Học
Tây
Phương nhưng gặp ông thầy quá hắc ám đành chẳng bao giờ tới Đại Học,
nếu có
chăng thì cũng chỉ lảng vảng ở khu chứng chỉ Việt Hán. Rồi lũ bạn rảnh
rỗi cũng
dần dần tới đủ... Lại vẫn những lời châm chọc, khích bác lẫn nhau, đó
cũng là
một cách che giấu nỗi sợ, nếu đủ tay thì lại kéo tới nhà Nguyễn Đình
Toàn làm
canh xì.
Nhà Toàn ở ngay dưới chân
building nơi
hàng ngày làm việc, số 7 Phan Đình Phùng, Đài Phát Thanh Sài-gòn số 5,
Trung
Ương Cơ Xưởng Vô Tuyến Điện số 11: nhiệm sở đầu tiên sau khi ra trường.
Một nửa
tòa nhà sau bị phá bỏ lấy chỗ xây cất Trường Quốc Gia Bưu Điện, thay vì
học nhờ
trường Quốc Gia Thương Mại ngay đầu đường Phạm Đăng Hưng đối diện nhà
thờ
Phan-xi-cô. Hai năm trời làm công việc sửa chữa máy móc từ các đài địa
phương
gửi về, lâu lâu vì nhu cầu công vụ, lại một thầy, một đệ tử, thường là
một chú
nhỏ học việc, một chiếc công xa đã được chuyển bảng xe thành số dân sự,
phòng
ngừa dọc đường gặp mấy ông du kích giải phóng, hai thầy trò làm một
chuyến viễn
du tới một đài địa phương, thời gian yên tĩnh trước cơn bão tố, trước
khi gặp
cô bạn...
Quen tác giả Chị Em Hải một bữa
tình cờ
cùng ăn sáng tại quán phở 44 đối diện Đài Phát Thanh Sài-gòn. Ông chủ
quán cùng
làm Bưu Điện giữ việc tháng tháng phát tiền. Toàn tới làm quen, tự giới
thiệu
và đề nghị viết cho Văn. Vợ Toàn là một trong những người đầu tiên đọc
bản thảo
truyện ngắn "Thời Gian". Khi Toàn đưa đến nhà giới thiệu, Bà tuyên bố
một câu xanh rờn :"Anh đúng là văn sĩ mê gái!". Không ngờ câu nói trở
thành định mệnh. Y hệt Bà biết rất rõ, cái cảnh thất thểu chạy theo một
cô bé
con nơi cổng trưởng Đại Học Khoa Học, đại lộ Cộng Hòa, không phải tận
cùng mà
là bắt đầu. Y hệt Bà biết rất rõ cô bạn tuy hai người chẳng hề gặp
nhau. Sau
truyện ngắn là lần gặp gỡ Nguyễn Đình Vượng và Trần Phong Giao ở quán
Cái Chùa.
Ông già rất trịnh trọng, đúng tác phong protocole. Tiền nhuận bút để
trong
phong bì. Ba trăm đồng, thời ông Diệm mới bị giết là một món tiền đủ
cho một
buổi gặp gỡ tại quán Ngân Đình, ngay cột cờ Thủ Ngữ ngó qua Thủ Thiêm,
nơi mi
suýt đi theo ông Diệm.
Bởi vì nếu ông Diệm còn sống,
có thể không
có vụ người Mỹ đổ quân tại Đà Nẵng, và sau đó là cả một đám kên kên,
diều hâu,
ký giả, phóng viên ngoại quốc đổ xô vào Việt Nam. Mi đâu có dịp kết bạn
cùng
hai chuyên viên Phi Luật Tân làm cho hãng RCA Manila. Theo lời mời của
Bưu
Điện, họ sang Sài-gòn giúp thành lập mạch viễn ký dành cho báo chí
ngoại quốc,
cuối cùng bỏ mạng tại nhà hàng nổi Mỹ Cảnh trong vụ Việt Cộng đặt hai
trái mìn
dàn chào đám quân nhân Mỹ mới tới, xác được mang về Manila, những nạn
nhân đầu
tiên của mạch thông tin liên lục địa qua cáp ngầm dưới đáy bể. Nhưng ký
giả đầu
tiên hy sinh tại chiến trường Việt Nam là Huỳnh Thành Mỹ,
nhiếp ảnh
viên hãng thông tấn AP...
Trong số những ký giả, phóng
viên chiến
trường chết tại Việt Nam, Huỳnh Thành Mỹ (1) là người đầu tiên, và được
nhắc
nhở nhiều nhất, ít ra cũng giữa đám đồng nghiệp tại hãng AP. Cuộc chiến
khi đó
tương đối còn sớm sủa, nếu chỉ tính về con số tử vong. Thần Chết còn
mải thăm
dò con mồi, chưa lựa chọn nạn nhân giữa đám người lăng xăng với cái máy
chụp
hình, cái camera, cuốn sổ tay, như thể ba thứ đồ linh tinh, cộng thêm
mớ dây
nhợ lằng nhằng, kể luôn cả hai chữ báo chí, Press, gắn trước ngực, là
những bùa
trừ tà, súng đạn phải tránh né.
Những buổi sáng, nếu có
Radiophoto, khi
xong việc, hoặc ở lại sở phụ giúp một đồng nghiệp làm ca sáng, chờ tới
trưa coi
UPI có hình cần chuyển, hoặc theo ông Hưng, đồng nghiệp làm cho hãng AP
tới văn
phòng hãng này, ở tầng lầu phía bên trên passage Eden, nhìn bức hình
Huỳnh
Thành Mỹ phóng lớn treo trên tường, uống ly cà phê kiểu Mỹ, nói dăm ba
câu
tiếng Tây với Horst Fass, trưởng phòng hình ảnh, rồi cùng ông Hưng đi
kiếm mấy
cuốn truyện "série noire" của một tay bán sách dạo ở một con hẻm chật
cứng giữa hai bức tường gần bên tiệm thuốc tây trên đường Tự Do. Trường
hợp
không có Radiophoto, thường ngồi trơ cu lơ một mình trong lúc chờ bạn
bè tại
một bàn tại góc quán Cái Chùa, mơ màng tự hỏi không biết sáng nay cô
bạn có giờ
học tại Văn Khoa hay không, mơ màng tưởng tượng chiến tranh rồi sẽ qua
đi, cô
bạn rồi sẽ gặp một người chắc chắn hơn hẳn mi: Một người hoặc không nợ
nần gì
cuộc chiến nên không bị nó hành hạ đến trở thành khật khùng, hoặc thừa
thông
minh, thừa khôn ngoan để cùng cô thoát ra khỏi, cho dù người đó có yêu
thương
cô hay không thì mọi chuyện cũng chẳng liên can chi tới mi.
Buổi tối hôm đó khi ở nhà cô
bạn ra về đã
quá giờ giới nghiêm, mi bị một người lính bất thần chặn lại, lúc đó mi
như nhìn
thấy nỗi chết hiện ra qua mũi súng đen ngòm ngó sâu vô mắt, mi như sống
lại
những kỷ niệm, cảm giác, lần đầu tiên xuống xe đò, Cai Lậy đã xế chiều
và đang
tan chợ. Mi ngu ngơ lạ hoắc giữa phố thị đang trong cơn hối hả thu dọn.
Khi đi
ngang qua cây cầu gỗ, bất thình lình đại bác từ chi khu bắn đi. Ầm một
tiếng.
Không gian chao đảo. Cây cầu gỗ run lẩy bẩy. Mặt nước sông nhăn nhó...
Giây
phút đó mi mới nhận ra một điều thật tầm thường là chiến tranh có thực,
và
những gì mi tưởng tượng ra về một cô bạn chưa từng gặp, tất cả đều có
thực, ba
mươi năm sau, mi mới hiểu ra, đó chỉ là một nửa ý nghĩa của thảm kịch...
Hoặc ba hoa trò chuyện chán chê
với đám
bạn bè cho tới khi không còn kiếm ra một câu nói thật độc địa, thật cay
đắng về
nhau, về một cuốn sách vừa được xuất bản, một bài thơ, một truyện ngắn
vừa được
đăng báo, tựu chung cũng chỉ để quên đi một chốc một lát, hoặc may lắm
một nửa
buổi không nhớ tới cô bạn. Rồi cũng tàn câu chuyện, đám bè bạn từng đứa
bỏ ra
về. Huỳnh Phan Anh có thể đã đến giờ lên lớp, có thể bực mình vì thằng
bạn Bắc
Kỳ đổi tên cuốn truyện, Thất Lạc thành Thật Lạt, nhại cách nói của dân
miền
Nam. Còn Nguyễn Xuân Hoàng có lần bỏ quán Cái Chùa đến cả tuần lễ, chỉ
vì cũng
vẫn thằng bạn khốn nạn bầy đặt viết bài phê bình, giới thiệu cuốn sách
mới ra
lò của anh, Sinh Nhật, bị đổi thành Sinh Nhạt, và bài phê bình mang tên
Đi Tìm
Một Chiếc Mũ Đã Mất, nhại theo Proust. Bao nhiêu năm trời nhớ lại mới
thấy càng
thù ghét cái phần thâm căn cố đế, cái bản chất thâm độc nơi đáy sâu
thân thể,
bao nhiêu năm tháng, mưa gió, khí hậu, con người, vùng đất hiền hòa
không sao
gột rửa nổi. Ba mươi năm sau mới thấy nhớ, thấy thương bạn bè, đứa còn
đứa mất,
chẳng đứa nào được may mắn với cõi sống, cõi viết. Nguyễn Đình Toàn ở
Việt Nam,
nghe nói mắt
cũng đã mờ. Huỳnh Phan Anh vợ con vượt biển không được may mắn. Còn
Nguyễn Xuân
Hoàng bây giờ lại ôm lấy tờ Văn, chẳng biết có nên cơm cháo gì hay
không...
Khi đã gần trưa, gã chuyên viên
trẻ bèn
ghé hãng, không biết làm gì xoay qua đổ xí ngầu với Tư Râu, người
chuyên mang
hình lên Đài để chuyển đi. Rồi cuộc chiến ăn sâu tới tận xương tận tuỷ
Miền Nam.
Có những lần
Tư Râu phải chạy lên chạy xuống hàng chục bận, từ 19 Ngô Đức Kế - con
phố nhỏ
gần bờ sông, đâm ra Công Trường Mê Linh, có tượng Đức Trần Hưng Đạo tay
chỉ hướng
sông hướng biển khuyên con cháu sau này lấy "nước" mà dựng
"đất", do vậy mà có dân tộc "Boat People"- tới Đài Liên Lạc
Vô Tuyến Điện Thoại Quốc Tế, số 7 Phan Đình Phùng. Mỗi bận như vậy, có
khi chỉ
để mang một tấm hình vừa mới rửa xong, từng tấm một vì không thể chờ
đợi, những
tấm kia còn đang trong phòng tối, hoặc còn tươi mùi thịt sống, còn khét
mùi bom
đạn đang được cấp tốc từ chiến trường gửi về. Một lần trong khi chạy
xe, anh
may mắn chụp được hình, đúng ra là tử thi viên Bộ Trưởng Giáo Dục Lê
Minh Trí,
bị hai tay đi xe gắn máy thả một trái lựu đạn vô xe trên đường Nguyễn
Du.
Huỳnh Thành Mỹ là nhiếp ảnh
viên hãng AP
đầu tiên bỏ mạng trong khi UPI, người đầu tiên bị cuộc chiến làm cho
sống dở
chết dở là Nguyễn Thành Tài. Anh là người giới thiệu gã chuyên viên trẻ
cho
UPI, ngay sau khi AP có mạch vô tuyến viễn ảnh. Một lần, vì quá đói
hình, anh
mò lên, nghe đâu khu Long Thành, gạ một người lính làm "người mẫu"
cho anh chụp một série hình, cảnh một anh lính trúng đạn Việt Cộng,
buông rơi
súng rồi từ từ khuỵ xuống. Đối với một chuyên viên sử dụng camera,
chuyện này
quá thường, nhưng với một nhiếp ảnh viên, đây là một hành động đòi hỏi
sự gan
dạ, bình tĩnh, làm chủ bản thân, làm chủ tình hình... Bạn cứ thử tưởng
tượng trong
lúc súng nổ đạn bay mà cứ bình chân như vại, căn từng chút ánh sáng,
lấy từng
góc độ cho không phải một, mà năm, bẩy tấm hình nghệ thuật, chụp một
người
trúng đạn đang từ từ... từ giã cõi đời.
Hình đem về hãng, rửa ra, gây
chấn động
trong đám phóng viên, nhiếp ảnh viên UPI. Viên trưởng phòng hình ảnh
tuyên bố,
kể từ chiến tranh Algérie đến nay mới lại có một série hình độc đáo như
vậy.
Trước mắt, Tài được thưởng "Nhiếp ảnh viên số một trong tháng". Câu
chuyện đúng ra không ngừng ở con số một đó, vì tiếp theo vinh quang,
tiền bạc
của ngày hôm nay, còn giải thưởng Pulitzer của ngày mai. Nhưng không
ngờ khi
hình được đăng lại trên báo chí Việt Nam,
đám cảnh sát Tổng Nha ngửi thấy mùi là lạ qua cái tên Việt Nam,
Nguyễn Thành
Tài. Giá tên một nhiếp ảnh viên người Nhật, người Mỹ thì lại không sao.
Họ bèn
liên lạc với tiểu khu, nơi có trận đánh xẩy ra. Sau khi được xác nhận
không có
một trận đụng độ, chạm súng nào trong thời gian đó, họ sau cùng kiếm ra
anh lính
đã tử trận nhưng vẫn còn sống. Tài bị kết tội "phá hoại tinh thần chiến
đấu của quân đội Việt Nam Cộng Hòa." Sau vụ đó, anh hết còn được UPI
tin
tưởng. Trong một lần theo hành quân, anh bị mảnh mìn muỗi cài giữa đám
lá cây
xớt qua mang tai, không may chạm dây thần kinh, trở thành ngớ ngẩn, sau
cùng bị
UPI cho thôi việc.
1996
"J'écris depuis que tu me lis
Les mots sont en retard sur nos vies"
Christian Bodin (L'inespérée)
(Tôi viết kể từ khi em đọc
Chữ sao muộn màng so với đời sống của chúng ta)
Đau khổ nhất là những ngày cô
bạn đi lấy
chồng. Vẫn những ngày tháng ngây ngô bên mớ máy móc, nghe tiếng người
nói xôn
xao từ những thành phố xa lạ phía bên ngoài địa ngục, qua đường dây
điện thoại
viễn liên, mơ màng tưởng tượng chiến tranh rồi sẽ qua đi, cô bạn rồi sẽ
hạnh
phúc, hạnh phúc... Hết còn nỗi ngây thơ tưởng mình ở trên cao, trên tận
đỉnh
cồn, thấy hết, hiểu hết. Vẫn những đêm dài điên cuồng đuổi theo bóng
mình sợ
hãi trốn sâu dưới đáy địa ngục, trong những hang cùng ngõ hẻm thành
phố, chạy
hoài, chạy hoài, không còn nơi để ghé, không còn chỗ để ngừng... Chỉ
mong gặp
lại những hồn ma quen, những gã phóng viên người Nhật, người Mỹ, hai gã
chuyên
viên Phi Luật Tân, để hỏi coi họ có còn luyến tiếc đất nước này hay
không, chỉ
muốn la lớn, tôi yêu em, tôi yêu em, cho cả thế giới, cả loài người đều
nghe...
Cho người chết gật đầu thông cảm.
Nguyễn Quốc Trụ
Cõi Khác,
phần đầu [1969 (1)], là một ấn bản - version - "khác", của Kiếp
Khác, đã đăng trong Những Ngày Ở Sài Gòn, tập truyện, nhà
xb Đêm
Trắng, Sài Gòn, 1970. Phần sau được viết tại hải ngoại, đã đăng trên
một tờ báo
địa phương ở Canada,
sau
trên Văn Học (Cali).
Không nhớ rõ số mấy, ngày mấy.
Chú
thích hình: Gấu đứng trước căn nhà ở chúng cư Nguyễn Thiện Thuật,
thời gian trước Mậu Thân, hình do cô bạn chụp từ phía trong nhà.
Bạn NKL, lần đầu nhìn bức
hình, nắc nỏm, hình thằng cha nào mà đẹp trai thế!
(1) Huỳnh Thành Mỹ, tên thực Huỳnh Công Là, anh ruột của Huỳnh Công Út,
tức
Nick Út, người chụp bức hình cô bé Kim Phúc bị bom lửa ngày nào. Hình
dưới đây,
trích BBC.