Chủ Nhật, 17/04/2005, 21:55 (GMT+7)
Những đòi hỏi mới của thời cuộc
Tháng 4-1975 sẽ mãi mãi đi vào lịch sử dân tộc là thời điểm
thống nhất đất nước. Nhân dịp 30 năm ngày đất nước về một dải "từ mũi
Cà
Mau đến địa đầu Móng Cái", nguyên thủ tướng - "lão tướng" Võ Văn
Kiệt đã có cuộc trao đổi với phóng viên tuần báo Quốc Tế (Bộ Ngoại
giao) về
những kỷ niệm ngày tiếp quản Sài Gòn và những bức xúc trước thời cuộc.
Ông cho
rằng chúng ta phải nhanh chân, đừng tự ru ngủ mình...
Tuổi Trẻ đăng lại bài trả lời phỏng vấn này từ tuần báo Quốc
Tế (số ra ngày 31-3-2005).
* Thưa ông, thấm thoắt đã gần 30 năm kể từ ngày tiếp quản
Sài Gòn, và ông là một trong số ít các nhà lãnh đạo còn lại từ cuộc
kháng chiến
đó, ông có suy nghĩ gì về sự kiện này?
- Suy nghĩ của tôi chỉ đơn giản là làm sao để không còn
những nhà lãnh đạo phải trưởng thành từ chiến tranh như chúng tôi nữa.
Chiến
tranh đã qua cách đây ba chục năm. Chúng tôi đã chuyển giao quyền lãnh
đạo cho
thế hệ kế tiếp. Nói như thế có nghĩa là tôi mong chiến tranh thật sự
phải thuộc
về quá khứ. Một quá khứ mà chúng ta mong muốn khép lại.
* Thưa ông, "khép lại" là một khái niệm không đơn
giản khi làm?
- Không gì là không làm được! "Hòa hiếu",
"khoan dung" là những truyền thống tốt đẹp của người VN. Người Việt
thường chỉ kháng chiến khi có kẻ thù từ bên ngoài. Sau 30 năm qua, tôi
nghĩ mọi
người VN chúng ta, cả đôi bên đều nhận thấy khi không còn sự can thiệp
từ bên
ngoài nữa, chúng ta có thể trở về bên nhau, cùng nhau xây dựng. Và VN
sẽ thêm
phát triển khi mọi người Việt dù ở đâu cũng đều ở trong một cộng đồng
hòa hợp.
* Chúng ta đã có nhiều nỗ lực để làm điều đó, thưa ông?
- Đôi khi phải nhìn kết quả thay vì nhìn những gì mà chúng
ta nghĩ là nỗ lực. Theo tôi, chúng ta vẫn còn biết bao điều cần nói,
biết bao
việc cần làm.
* Theo ông, bây giờ việc cần làm tiếp là gì?
- Chiến thắng của chúng ta là vĩ đại, nhưng chúng ta cũng đã
phải trả giá cho chiến thắng đó bằng cả nỗi đau và nhiều mất mát. Lịch
sử đã
đặt nhiều gia đình người dân miền Nam
rơi vào hoàn cảnh có người thân vừa ở phía bên này, vừa ở phía bên kia,
ngay cả
họ hàng tôi cũng như vậy. Vì thế, một sự kiện liên quan đến chiến tranh
khi
nhắc lại có hàng triệu người vui mà cũng có hàng triệu người buồn. Đó
là một
vết thương chung của dân tộc cần được giữ lành thay vì lại tiếp tục làm
nó thêm
rỉ máu.
* Thưa ông, để lành được vết thương này phải có sự tham gia
của mọi người Việt?
- Đấy là một vấn đề lớn. Chúng ta đang nắm quyền lãnh đạo
đất nước, muốn để mọi người Việt cùng chung tay hàn gắn, chung tay tạo
dựng thì
chúng ta phải thực tâm khoan dung và hòa hợp. Sau 30-4-1975, khi đồng chí Lê Duẩn vào Sài
Gòn, vừa xuống
thang máy bay đồng chí nắm tay đưa lên cao, giọng đầy cảm xúc, nói:
"Đây
là thắng lợi của cả dân tộc, không phải của riêng ai". Sau 30 năm, tôi
thấy không phải dễ dàng làm cho mọi người VN cảm nhận được điều đó.
* Khó khăn nằm ở chỗ nào, thưa ông?
- Hồ Chủ tịch từng mong muốn khi chiến tranh chấm dứt, hòa
bình lập lại sẽ đi thăm các nước để cảm ơn bè bạn quốc tế. Sau năm
1975, đồng
chí Lê Duẩn và đồng chí Phạm Văn Đồng đã thay mặt Bác làm việc này.
Đánh giá
cao sự giúp đỡ của bạn bè quốc tế và cảm ơn là việc làm phù hợp đạo lý
và truyền
thống VN. Nhưng về đối nội, theo tôi, đã đến lúc ta phải nhìn nhận công
lao, sự
đóng góp to lớn của các tầng lớp người Việt yêu nước từng sống trong
lòng chế
độ cũ, hiện ở trong nước hay ở bên ngoài. Bản thân tôi cùng với anh em
được
giao tiếp quản Sài Gòn năm 1975, một Sài Gòn nguyên vẹn sau một cuộc
chiến
tranh như vậy, tôi nghĩ không thể không nói đến vai trò của nội các
Dương Văn
Minh và các lực lượng chính trị đối lập với Mỹ - Thiệu, có quan hệ với
chính
phủ Dương Văn Minh lúc bấy giờ.
* Ông Minh đã tuyên bố đầu hàng?
- Đại tướng Dương Văn Minh nhậm chức ngày 28-4-1975, ngày mà một nhà quân sự
như ông có thể đoán được sự thất thủ của Sài Gòn. Nếu ông Minh để cho
các tướng
dưới quyền ông "tử thủ", chúng ta vẫn chiến thắng, nhưng Sài Gòn khó
mà nguyên vẹn, và còn biết bao sinh mạng và tài sản của người dân mình
nữa. Tôi
và Thành ủy do anh Mai Chí Thọ phụ trách, sáng 30-4 khi nghe ông Minh
kêu gọi
binh lính buông súng để chờ bàn giao chính quyền cho cách mạng, đã thở
phào nhẹ
nhõm. Phải ở chiến trường, và vào đúng giờ phút ấy, mới cảm nhận được
tầm quan
trọng của quyết định này.
* Theo ông, từ đâu ông Minh lại có quyết định như vậy?
- Thế thắng của ta trong năm 1975 là không thể cưỡng lại
được, tuy nhiên quyết định của ông Minh không chỉ dựa trên tình hình
chiến sự
mà còn phản ánh những hành động chính trị trước đó của ông. Ông Minh là
vị
tướng đã đảo chính lật chế độ Ngô Đình Diệm, ông cũng là người sau đó
đã không
chịu làm vừa lòng Mỹ, khiến người Mỹ phải bật đèn xanh cho Nguyễn Khánh
lật đổ
ông.
* Và, "lực lượng thứ ba" cũng đóng một vai trò
đáng kể, thưa ông?
Nếu chúng ta không tự khắc phục được những lực cản, không
phát huy được nguồn lực bên trong cũng như bên ngoài để có được mức
tăng trưởng
hai con số trong những năm tới thì khoảng cách của sự tụt hậu so với
khu vực,
với thế giới là không thể nào thu hẹp được. Tôi muốn lưu ý rằng làm
được một
chiến thắng kỳ vĩ như 30-4-1975
mà say sưa, như tự mãn nguyện thì cũng đã từng phải trả giá. Thế giới
đã đi rất
xa, chúng ta phải nhanh chân chứ đừng tự ru ngủ mình để rồi sẽ còn bị
bỏ xa hơn
nữa.
- Sự xuất hiện trở lại trên chính trường của ông Minh chính
là kết quả hoạt động tích cực của lực lượng thứ ba, lực lượng những
người đấu
tranh với Mỹ - Thiệu ngay trong lòng chế độ Sài Gòn. Điều quan trọng
tôi muốn
nói ở đây là tất cả những ai đã vì lòng yêu nước, thương nòi, bằng
nhiều con
đường khác nhau, từng đóng góp vào cái chung, và không đòi hỏi gì cho
riêng
mình thì đều có quyền tự hào về những đóng góp đó và hãy tiếp tục cống
hiến
nhiều hơn nữa nhằm xây dựng Tổ quốc VN chúng ta giàu mạnh, văn minh,
dân chủ và
hạnh phúc.
* Thưa ông, ở thời điểm này nhìn lại, ông có bằng lòng với
những gì chúng ta đã làm trong 30 năm qua?
- Chúng ta đều có thể vui mừng khi có một VN thống nhất,
quyết tâm vượt qua nghèo đói và quyết tâm hội nhập như ngày hôm nay.
Nhưng nhìn
lại quá trình kể từ khi kết thúc chiến tranh thì tôi thấy tiếc. Giá như
đổi mới
sớm hơn thì chúng ta có thể đã không phải trải qua những năm phải trả
giá đắt
như giai đoạn 1975-1985.
* Bài học về những năm bỏ lỡ cơ hội này là gì, thưa ông?
- Phải tiếp tục đổi mới nữa và tránh xa sự tự mãn, tránh xa
bệnh say sưa thành tích! Trong những năm qua, chúng ta tiếp tục giữ
được sự
tăng trưởng khá, đó là một thành tựu lớn. Tuy nhiên, tôi muốn lưu ý
rằng với một
nước mà GDP chỉ mới đạt trên dưới 40 tỉ USD như VN, mức tăng trưởng
6-7% chưa
phải là đã đủ để đáp ứng nhu cầu phát triển trong nước và nhu cầu hội
nhập.
* Thưa ông, trong đối ngoại chúng ta nên tiếp tục như thế
nào trong giai đoạn tới?
- Những kết quả đối ngoại vừa qua, trong một chừng mực nhất
định, đúng là đã góp phần mở đường để giải quyết nhiều khó khăn về kinh
tế - xã
hội. Sau 20 năm đổi mới, chúng ta đã sẵn sàng là bạn, là đối tác tin
cậy của
cộng đồng quốc tế. Nhưng nội dung cụ thể của những khẩu hiệu ấy là gì?
Và tới
đây, với một thế giới đang thay đổi từng ngày như thế này, chúng ta lựa
chọn và
xây dựng vai trò và vị trí của mình như thế nào là điều hết sức quan
trọng.
Sau sự kiện ngày
11-9-2001, những biến cố ở Trung Đông,
những cải tổ chính trị tích cực từ bên trong của các nước ASEAN như
Indonesia,
sau sự kiện sóng thần tàn phá ở một số nước Đông Nam Á..., tất cả cho
thấy thế
giới ngày nay đã trở nên gần gũi và liên hệ với nhau hơn, thật sự không
còn chỗ
thành công lớn cho những nỗ lực đơn độc.
Vị trí đối ngoại của
chúng ta, vì thế, không chỉ tùy thuộc
vào thế, mà phải tăng tốc thêm lực và khả năng thích ứng với toàn cầu
của mình.
Ngoại giao tới đây, vì thế, tôi nghĩ phải có vai trò vượt lên phía
trước, phải
chủ động cảnh báo cho trong nước cả thách thức lẫn cơ hội, kịp thời đáp
ứng
những đòi hỏi mới của thời cuộc.
* Xin cảm ơn ông.
THẠCH ANH thực hiện
Cảm ơn “lão tướng” Võ
Văn Kiệt!
TT - Sau khi báo Tuổi
trẻ đăng bài trả lời phỏng vấn “Những
đòi hỏi mới của thời cuộc” của nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt, nhiều bạn
đọc đã
có ý kiến đồng tình, trân trọng trước những lời tâm huyết của vị "lão
tướng". Tuổi Trẻ xin trích đăng một
số ý kiến:
Những lời tâm huyết
của một người đã trải qua hai cuộc kháng
chiến vĩ đại của dân tộc như “lão tướng” Võ Văn Kiệt đáng để tất cả
chúng ta
suy ngẫm. Cái nhìn khoan dung và sự thực tâm hòa hợp là điều cần thiết
nhất
trong lúc này. Nguyên thủ tướng đã nói: “Muốn để mọi người Việt cùng
chung tay
hàn gắn, chung tay tạo dựng thì chúng ta phải thực tâm khoan dung và
hòa hợp”.
Sự khoan dung và hòa
hợp chỉ có thể có khi chúng ta thật sự
coi nhau là đồng bào, khi chúng ta thực tâm lo cho dân, cho nước. Chúng
tôi hiểu
rằng: đằng sau tất cả những biến động của thời cuộc là tinh thần dân
tộc, là
nghĩa đồng bào, là sự khoan dung, độ lượng của chúng ta với chính mình
và người
khác. Lấy vụ kiện chất độc da cam làm ví dụ. Chúng ta đã bước đầu thực
hiện sự
hòa hợp ấy khi nhìn nhận nạn nhân chất độc da cam mà không phân biệt
chiến
tuyến.
Chúng ta vui mừng với
chiến thắng, nhưng chúng ta cũng đừng
quên cái giá rất đắt mà dân tộc của chúng ta đã và đang phải trả. Hãy
đau với
những mất mát, với những vết thương của dân tộc mà hiện nay chúng ta
đang nỗ
lực hàn gắn. Để đất nước VN là một, dân tộc VN là một!
Cảm ơn ông, “lão
tướng” Võ Văn Kiệt! Cảm ơn sự thẳng thắn,
dũng cảm, chân thành của ông!
CHÂN LUẬN
Những lời tâm huyết
chờ đợi từ lâu
Bằng những cảm nghĩ
chân tình và sâu sắc, ông đã nói lên
được nỗi trăn trở của hàng triệu gia đình sống ở miền Nam
trong những năm tháng dài đất nước bị chia cắt, nhất là khi ông nhắc
đến cuộc
chiến đã kết thúc cách đây 30 năm: “...
Đó là một vết thương
chung của dân tộc cần được giữ lành
thay vì lại tiếp tục làm nó thêm rỉ máu...”, bởi vì “một sự kiện liên
quan đến
chiến tranh khi nhắc lại có hàng triệu người vui mà cũng có hàng triệu
người
buồn...”. Thật vậy, hoàn cảnh lịch sử của đất nước 50 - 60 năm về trước
đã
khiến nhiều bộ phận trong cộng đồng dân tộc không đi cùng với nhau trên
một con
đường và điều này chính là nỗi đau mà hàng chục triệu người đã phải đối
mặt
trong những thăng trầm lịch sử đã qua.
Xin cảm ơn nguyên thủ
tướng, tôi tin rằng những người VN hôm
nay, dù ở hoàn cảnh nào, trong hay ngoài nước, sau khi đã đọc những lời
phát
biểu “tự đáy tâm can” của ông, họ sẽ cảm thấy ấm lòng khi có người nói
lên
những lời tâm huyết mà họ đã chờ đợi từ lâu.
LÊ NGUYỄN (Tân Phú,
TP.HCM)
Cũng là suy nghĩ của
hàng triệu người VN
Là thế hệ sinh ra và
trưởng thành trong giai đoạn lịch sử
đầy biến động của dân tộc, cho nên tôi rất tâm đắc và xúc động với bài
trả lời
của nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt, tôi trộm nghĩ những lời ông nói phải
chăng
chính là những suy nghĩ của hàng triệu người VN, một dân tộc có lịch sử
hàng
ngàn năm đấu tranh chống ngoại xâm, nhưng lòng khoan dung, nhân hậu
chưa bao
giờ mai một.
"Lấy đại nghĩa thắng
hung tàn, đem chí nhân thay cường
bạo", ông cha ta ngày xưa đã làm được điều đó đối với thế lực xâm lăng,
vậy thì cớ gì chúng ta, những hậu sinh thời nay 30 năm sau chiến tranh,
không
thể dang tay đón nhận những người anh em từ khắp phương trời trở về
chung tay
xây dựng mái nhà VN thân yêu của mình.
HỒ QUANG TRUNG
Diễn Đàn Forum
Số 151 - tháng 5. 2005
30-4
Cựu thủ tướng Võ Văn Kiệt :
NHỮNG ĐÒI HỎI MỚI
CỦA THỜI CUỘC
Đầu tháng 4.2005, báo Quốc Tế (do Bộ
ngoại giao Việt Nam
xuất bản) đã đăng bài phỏng vấn ông Võ Văn Kiệt, nguyên thủ tướng, uỷ
viên Bộ
chính trị ĐCSVN và bí thư Thành uỷ Sài Gòn – Chợ Lớn. Bài này đã được
các báo
Thanh Niên, Tuổi Trẻ và nhiều tờ báo điện tử đăng lại toàn văn.
Sự thật, bài phỏng vấn này đã được « phát tán » khá rộng rãi
trên mạng internet và dưới dạng sao chụp từ tháng 3, sau khi nó được
lên khuôn
trên báo Quốc Tế từ đầu tháng, nhưng giờ chót thì bị « bóc đi » theo «
lệnh
trên ». Theo những nguồn tin đáng tin cậy, ông Võ Văn Kiệt đã viết thư
phản đối
cho ông Nguyễn Khoa Điềm, uỷ viên Bộ chính trị kiêm trưởng ban Văn hoá
Tư tưởng
Trung ương ĐCSVN. Không rõ ông Điềm trả lời ra sao. Nhưng việc báo Quốc
Tế công
bố bài phỏng vấn (chậm một tháng) có thể coi là trả lời tương đối « có
văn hoá
», ba mươi ngày sau một quyết định vô văn hoá.
Diễn Đàn đăng dưới đây toàn văn bài phỏng vấn. Những chỗ in
đậm trong các câu trả lời là do chúng tôi nhấn mạnh để lưu ý tới những
lời quan
trọng.
* Thưa ông, thấm thoát đã gần 30 năm kể từ ngày tiếp quản
Sài Gòn, và ông là một trong số ít các nhà lãnh đạo còn lại từ cuộc
kháng chiến
đó, ông có suy nghĩ gì về sự kiện này ?
- Suy nghĩ của tôi chỉ đơn giản là làm sao để không còn
những nhà lãnh đạo phải trưởng thành từ chiến tranh như chúng tôi nữa.
Chiến
tranh đã qua cách đây hàng chục năm. Chúng tôi đã chuyển giao quyền
lãnh đạo
cho thế hệ kế tiếp. Nói như thế có nghĩa là, tôi mong chiến tranh thực
sự phải
thuộc về quá khứ. Một quá khứ mà chúng ta mong muốn khép lại.
* Thưa ông, « khép lại » là một khái niệm không đơn giản khi
làm ?
- Không gì là không làm được ! « Hoà hiếu », « khoan dung »
là những truyền thống tốt đẹp của người Việt Nam.
Người Việt thường chỉ kháng chiến khi có kẻ thù từ bên ngoài. Sau 30
năm qua,
tôi nghĩ mọi người Việt Nam
chúng ta, cả đôi bên đều nhận thấy, khi không còn sự can thiệp từ bên
ngoài
nữa, chúng ta có thể trở về bên nhau, cùng nhau xây dựng. Và Việt Nam
sẽ thêm phát triển khi mọi người Việt dù ở đâu cũng đều ở trong một
cộng đồng
hoà hợp.
* Chúng ta đã có
nhiều nỗ lực để làm điều đó, thưa ông ?
- Đôi khi phải nhìn
kết quả thay vì nhìn những gì mà chúng
ta nghĩ là nỗ lực. Theo cách mà chúng ta đang làm để kỷ niệm những ngày
lịch sử
hiện nay, tôi e rằng chúng ta lại đang lặp lại những gì mà chúng ta đã
làm
trước đó. Lịch sử cũng như cuộc sống, cái đúng, cái sai nói một lần
người ta
hiểu ; nói hai ba lần người ta im lặng ; nhắc lại quá mức cần thiết thì
có thể
gây ra sự phản cảm. Trong khi đó theo tôi, chúng ta vẫn còn biết bao
nhiêu điều
cần nói, biết bao việc cần làm.
* Theo ông bây giờ,
việc cần làm tiếp là gì ?
- Chiến thắng của
chúng ta là vĩ đại, nhưng chúng ta cũng đã
phải trả giá cho chiến thắng đó bằng cả nỗi đau và nhiều sự mất mát.
Lịch sử đã
đặt nhiều gia đình người dân miền Nam
[lời bình của người đánh máy : và miền Bắc nữa chứ] vào hoàn cảnh có
người thân
vừa ở phía bên này, vừa ở phía bên kia, ngay cả họ hàng tôi cũng như
vậy. Vì
thế, một sự kiện liên quan đến chiến tranh khi nhắc lại, có hàng triệu
người
vui, mà cũng có hàng triệu người buồn. Đó là một vết thương chung của
dân tộc
cần được giữ lành thay vì lại tiếp tục làm cho nó thêm rỉ máu.
* Thưa ông, để lành
được vết thương này phải có sự tham gia
của mọi người Việt ?
- Đấy là một vấn đề
lớn. Chúng ta đang nắm quyền lãnh đạo
đất nước, muốn để mọi người Việt cùng chung tay hàn gắn, chung tay tạo
dựng,
thì chúng ta phải thực tâm khoan dung và hoà hợp. Sau 30/4, khi đồng
chí Lê
Duẩn vào Sài Gòn, vừa xuống thang máy bay, đồng chí nắm tay đưa lên
cao, giọng
đầy cảm xúc, nói : « Đây là thắng lợi của cả dân tộc, không phải của
riêng ai
». Sau 30 năm, tôi thấy không phải dễ dàng làm cho mọi người Việt Nam
cảm nhận được điều đó.
* Khó khăn nằm ở chỗ
nào thưa ông ?
- Hồ Chủ tịch từng
mong muốn khi chiến tranh chấm dứt, hoà
bình lập lại sẽ đi thăm các nước để cảm ơn bè bạn quốc tế. Sau năm
1975, đồng
chí Lê Duẩn và đồng chí Phạm Văn Đồng đã thay mặt Bác làm việc này.
Đánh giá
cao sự giúp đỡ của bạn bè quốc tế và cảm ơn là việc làm phù hợp với đạo
lý và
truyền thống Việt Nam.
Nhưng về đối nội, theo tôi đã đến lúc ta phải nhìn nhận công lao, sự
đóng góp
to lớn của các tầng lớp người Việt yêu nước từng sống trong lòng chế độ
cũ,
hiện đang ở trong nước, hay ở bên ngoài. Bản thân tôi, cùng với anh em
được
giao tiếp quản Sài Gòn năm 1975, một Sài Gòn nguyên vẹn sau một cuộc
chiến
tranh như vậy, tôi nghĩ, không thể không nói đến vai trò của nội các
Dương Văn
Minh và các lực lượng chính trị đối lập với Mỹ - Thiệu, có quan hệ với
chính phủ
Dương Văn Minh lúc bấy giờ.
* Ông Minh đã tuyên
bố đầu hàng ?
- Đại tướng Dương Văn
Minh nhậm chức ngày 28/4/1975,
ngày mà một nhà quân sự
như ông có thể đoán được sự thất thủ của Sài Gòn. Nếu ông Minh để cho
các tướng
dưới quyền ông « tử thủ », chúng ta vẫn chiến thắng, nhưng Sài Gòn khó
mà
nguyên vẹn, và còn biết bao sinh mạng và tài sản của người dân mình
nữa. Tôi và
Thành ủy do anh Mai Chí Thọ phụ trách, sáng 30/4, khi nghe ông Minh kêu
gọi
binh lính buông súng để chờ bàn giao chính quyền cho Cách mạng, đã thở
phào nhẹ
nhõm. Phải ở chiến trường, và vào đúng giờ phút ấy, mới cảm nhận được
tầm quan
trọng của quyết định này.
* Theo ông, từ đâu
ông Minh lại có quyết định như vậy ?
- Thế thắng của ta
trong năm 1975 là không thể cưỡng lại
được, tuy nhiên, quyết định của ông Minh không chỉ dựa trên tình hình
chiến sự
mà còn phản ánh những hành động chính trị trước đó của ông. Ông Minh là
vị
tướng đã đảo chính lật chế độ Ngô Đình Diệm, ông cũng là người, sau đó
đã không
chịu làm vừa lòng Mỹ, khiến người Mỹ phải bật đèn xanh cho Nguyễn Khánh
lật đổ
ông.
* Và, « Lực lượng thứ
Ba » cũng đóng một vai trò đáng kể,
thưa ông ?
- Sự xuất hiện trở
lại trên chính trường của ông Minh chính
là kết quả hoạt động tích cực của lực lượng thứ Ba, lực lượng những
người đấu
tranh với Mỹ - Thiệu ngay trong lòng chế độ Sài Gòn. Điều quan trọng
tôi muốn
nói ở đây là tất cả những ai đã vì lòng yêu nước, thương nòi, bằng
nhiều con
đường khác nhau, từng đóng góp vào cái chung, và không đòi hỏi gì cho
riêng
mình thì đều có quyền tự hào về những đóng góp đó và hãy tiếp tục cống
hiến
nhiều hơn nữa nhằm xây dựng tổ quốc của mọi người Việt Nam chúng ta
trong giàu
mạnh, văn minh, dân chủ và hạnh phúc.
* Thưa ông, ở thời
điểm này nhìn lại, ông có bằng lòng với
những gì chúng ta đã làm trong 30 năm qua ?
- Chúng ta đều có thể
vui mừng khi có một Việt Nam
thống nhất, quyết tâm vượt qua nghèo đói và quyết tâm hội nhập như ngày
hôm
nay. Nhưng, nhìn lại quá trình kể từ khi kết thúc chiến tranh thì tôi
thấy
tiếc. Giá như đổi mới sớm hơn thì chúng ta có thể đã không phải trải
qua những
năm phải trả giá đắt như giai đoạn 1975-1985.
* Bài học về những
năm bỏ lỡ cơ hội này là gì, thưa ông ?
- Phải tiếp tục đổi
mới nữa và tránh xa sự tự mãn, tránh xa
bệnh say sưa thành tích ! Trong những năm qua, chúng ta tiếp tục giữ
được sự
tăng trưởng khá, đó là một thành tựu lớn. Tuy nhiên, tôi muốn lưu ý
rằng, với
một nước mà GDP chỉ mới đạt trên dưới 40 tỷ USD như Việt Nam, mức tăng
trưởng
6-7% chưa phải là đã đủ để đáp ứng nhu cầu phát triển trong nước và nhu
cầu hội
nhập. Nếu chúng ta không tự khắc phục được những lực cản, không phát
huy được
nguồn lực bên trong cũng như bên ngoài, để có được mức tăng trưởng hai
con số
trong những năm tới, thì khoảng cách của sự tụt hậu so với khu vực, so
với thế
giới là không thể nào thu hẹp được. Tôi muốn lưu ý rằng, làm được một
chiến
thắng kỳ vĩ như 30/4/1975
mà say sưa, như tự mãn nguyện thì cũng đã từng phải trả giá. Thế giới
đã đi rất
xa, chúng ta phải nhanh chân chứ đừng tự ru ngủ mình để rồi sẽ còn bị
bỏ xa hơn
nữa.
* Thưa ông, trong đối
ngoại, chúng ta nên tiếp tục như thế
nào trong giai đoạn tới ?
- Những kết quả đối
ngoại vừa qua, trong một chừng mực nhất
định đúng là đã góp phần mở đường để giải quyết nhiều khó khăn về kinh
tế - xã
hội. Sau 20 năm đổi mới, chúng ta đã sẵn sàng là bạn, là đối tác tin
cậy của
cộng đồng quốc tế. Nhưng nội dung cụ thể của những khẩu hiệu ấy là gì ?
Và tới
đây, với một thế giới đang thay đổi từng ngày như thế này, chúng ta lựa
chọn và
xây dựng vai trò và vị trí của mình như thế nào là điều hết sức quan
trọng. Sau
sự kiện ngày 11/9, những biến cố ở Trung Đông, những cải tổ chính trị
tích cực
từ bên trong của các nước ASEAN như Indonesia, sau sự kiện sóng thần
tàn phá ở
một số nước Đông Nam Á... Tất cả cho thấy, thế giới ngày nay đã trở nên
gần gũi
và liên hệ với nhau hơn, thực sự không còn chỗ thành công lớn cho những
nỗ lực
đơn độc. Vị trí đối ngoại của chúng ta, vì thế, không chỉ tuỳ thuộc vào
thế, mà
phải tăng tốc thêm lực và khả năng thích ứng với toàn cầu của mình.
Ngoại giao
tới đây, vì thế, tôi nghĩ phải có vai trò vượt lên phía trước, phải chủ
động
cảnh báo cho trong nước cả thách thức lẫn cơ hội, kịp thời đáp ứng
những đòi
hỏi mới của thời cuộc.
* Xin cảm ơn ông !