Nguyễn Quốc Trụ
phụ trách
|
Nhà văn - dịch giả Huỳnh Phan Anh: Tôi
đã và vẫn sẽ là một
người VN.
Nhà văn Huỳnh Phan Anh:
"Tôi nghĩ rằng sống còn chưa ra con
người mà muốn trở
thành nhà văn thì hơi khó. Anh phải là con người có giá trị thì những
gì anh
viết ra, người ta mới tin được. Tôi nghĩ trong khi chờ đợi làm nhà văn
thì hãy
làm người đã. Điều đó cũng có ích cho xã hội", nhà văn - dịch giả Huỳnh
Phan Anh trò chuyện.
*
Thưa ông, sau nhiều năm hoạt động
trong lĩnh vực văn học ở
VN cả trước và sau năm 1975, bây giờ, ông có một vị thế rất thuận lợi
để nhìn
nhận cả hai nền văn học Mỹ và VN dưới góc độ của một nhà văn sinh sống
tại
Mỹ...
- Trước hết, tôi xin
khẳng định một điều là cho dù tôi có
sống tại Mỹ một vài năm hay trong suốt phần còn lại của cuộc đời thì
tôi cũng
khó hội nhập được vào nước Mỹ! Tôi không bao giờ là một nhà văn lưu
vong. Tôi
là một nhà văn VN sinh sống tại Mỹ do hoàn cảnh riêng của gia đình. Tôi
biết
rằng có một vài người tại Mỹ tự bỏ tiền ra in tác phẩm của mình rồi tự
xưng là
nhà văn lưu vong... Nhưng tôi đã và vẫn sẽ là một người VN.
"Những tác phẩm văn
chương mà cứ đâm sầm vào chính trị
với những thiên kiến thì khó có thể có chỗ đứng trong độc giả.... Tôi
vẫn nhớ
lời nhà văn Boris Pasternak nói rằng "một nhà văn không thể xa rời tổ
quốc
mình". Nếu không nặng lòng với đất nước quê hương thì không thể nào
hiểu
được tâm trạng của những người cùng dòng máu..."
HPA
*
Dù sao thì ông cũng có quan sát đời sống văn học của nước
Mỹ chứ?
- Có, mặc dù không
nhiều lắm. Do là một người từng dạy triết
và dịch văn học nên tôi chú ý đến hai mảng này hơn cả.
Thị trường văn học
dịch ở Mỹ vô cùng đa dạng; tôi có cảm
tưởng bất cứ tác phẩm cổ kim đông tây nào họ cũng đều dịch hết, chẳng
thiếu một
cuốn nào. Có điều khiến tôi ngạc nhiên là nhiều người sống khá sung
túc, đầy đủ
tiện nghi, nhưng họ vẫn dịch văn học, một công việc mà rõ ràng là không
hề được
trả công cao.
Cách lý giải có lý
nhất có lẽ cũng chính từ đặc điểm ấy: họ
có nhiều tiền và khi đó, việc dịch văn học không phải nhằm mục đích
sinh nhai
nữa mà chỉ để làm phong phú thêm cho nền văn học Mỹ.
Trong khi đó triết
học ở nước Mỹ khá nghèo nàn, hay nói cho
đúng hơn là nước Mỹ thiếu một căn bản triết học. Bởi vậy sách triết ở
Mỹ không
phong phú cho lắm. Chỉ cần một tác giả nào đó, người Mỹ hay nước ngoài
cũng
vậy, tương đối độc đáo một chút, là có thể dễ dàng nổi tiếng.
*
Trước đây, ông có
nói đến con số cô đơn "1.000
bản" của mỗi tác phẩm in trên thị trường VN. Bây giờ, sau một thời gian
biết về ngành xuất bản ở Mỹ, theo anh có cách nào để thoát khỏi cái
tình trạng
"cô đơn" kỳ cục đó không?
- Tôi nghĩ chủ yếu
vẫn do cơ chế xuất bản ở ta mà thôi. Cái
cơ chế này chỉ làm giàu cho mấy anh làm sách, còn tác giả viết hoặc
dịch sách
không bao giờ có thể giàu được.
Thực ra thì tôi biết
không có cuốn nào tương đối đắt khách
mà lại in dưới con số 2.000 bản đâu, nhưng tác giả thì bao giờ cũng chỉ
được
lĩnh nhuận bút theo con số 1.000 bản đó thôi.
Ở Pháp, nếu in được
50.000 bản trở lên thì người ta khoe
nhắng cả lên, còn ở ta thì càng giấu đi được bao nhiêu càng tốt! Chính
cái hiện
trạng này dễ tạo ra ấn tượng rằng người VN không đọc sách, còn tác giả
viết
sách, dịch sách thì không sống nổi. Như cuốn Thế giới của Sophie tôi
dịch trước
đây, trên thế giới bán được hàng triệu bản, ở VN cũng chỉ đề in có
1.000 bản mà
thôi. Hầu hết sách đều do đầu nậu làm, chỉ cần nhấc điện thoại lên điều
đình 5
phút là xong...
- Ở nước ngoài, ông
có theo dõi văn học trong nước hay
không?
-Thành thực mà nói
tôi đọc không nhiều. Đó là thiếu sót lớn
nhất của tôi. Nhưng qua những gì tôi biết, tôi vẫn cảm thấy những cây
bút trẻ
đã thổi một luồng không khí mới vào đời sống văn học VN. Những người
trẻ viết
ít run tay và rất trong sáng. Tôi vẫn nhớ những tên tuổi như Phan Thị
Vàng Anh,
Châu Giang, Phan Triều Hải. Đọc Bảo Ninh tôi rất thích. Cuốn Nỗi buồn
chiến
tranh anh ấy viết như một công trình văn chương chứ không phải
một sơ
đồ tư
tưởng.
*
Hiện nay ông đang
làm gì?
- Tôi im hơi lặng
tiếng lo những việc của mình. Sống ở Mỹ
nhưng tôi không là công cụ của ai, cũng không thỏa hiệp với ai. Tôi
thỏa hiệp
với mình còn chưa xong nữa là!
YÊN BA (Báo TN)
Học triết ở Đà Lạt từ
1961 đến 1964 rồi về Sài Gòn dạy
triết, Huỳnh Phan Anh là một nhà giáo "đi lạc vào văn học" - như ông
tự nhận với bạn bè. Cả trước và sau 1975, cái tên Huỳnh Phan Anh được
nhiều
người biết tới với tư cách là tác giả - phê bình, dịch giả.
Các tác phẩm phê bình
văn học của Huỳnh Phan Anh từng được
nhiều người biết như Văn chương và kinh
nghiệm, Đi tìm tác phẩm văn chương...; hay các tác phẩm dịch của ông
như Tình
yêu bên bờ vực thẳm, Chuông gọi hồn ai, Bãi hoang, Thời gian của một
tiếng thở
dài, Hò hẹn trên đồi, Tình cuồng, Thế giới của Sophie, Sa mạc, Thơ Paul
Eluard,
Thơ Victor Hugo... đã quen thuộc với nhiều người. Từ năm 2002, ông sang
định cư
tại Hoa Kỳ.
[Trích báo Tuổi Trẻ
trên web]
*
Ghi chú:
Huỳnh Phan Anh qua Mỹ
năm 2002, là do cô con gái bảo lãnh.
“Ông bạn của tui” có thể coi mình là một nhà văn di dân, thành thử
khẳng định,
tôi không bao giờ là một nhà văn lưu vong, là không cần thiết. Lại càng
không
cần thiết, khi HPA nhắc tới những người ở Mỹ tự bỏ tiền in tác phẩm rồi
tự xưng
là nhà văn lưu vong.
Có lẽ nên để vào một
dịp khác bàn về, thế nào là nhà văn lưu
vong, nhưng một nhà thơ như Brodsky, một nhà văn như Kundera, bất cứ
một độc
giả khi đọc họ, đều nhận ra, đây là những người viết lưu vong, theo
nghĩa, họ
sẽ bị bỏ tù, bị sát hại, vì những gì họ viết ra, nếu còn ở quê hương
của họ.
Làm người đã, rồi hãy làm nhà văn, nếu nhìn theo quan điểm của những
nhà văn
nhà thơ trên, là như vậy. Họ vừa muốn làm người, vừa muốn viết văn. Ở
quê hương
của họ, họ không làm sao làm được cả hai. Với họ, vấn đề hãy làm một
người dính
cứng với vấn đề viết văn. Bởi vì họ không thuộc vào những người không
hề biết
tới văn chương, mà vẫn là những con người hoàn toàn!
Về câu hỏi, “Thưa
ông, sau nhiều năm hoạt động trong lĩnh
vực văn học ở VN cả trước và sau năm 1975, bây giờ, ông có một vị thế
rất thuận
lợi để nhìn nhận cả hai nền văn học Mỹ và VN dưới góc độ của một nhà
văn sinh
sống tại Mỹ...”… Tôi nghĩ đây là một câu hỏi tuyệt vời, dành cho HPA,
và người
hỏi đã đặt rất nhiều kỳ vọng vào ông. Nhưng HPA đã trả lời chẳng đâu
vào đâu
cả, thật uổng cho người dụng tâm đặt câu hỏi, và cho độc giả, mong được
nghe
những lời thực, việc thực, và người thực. Huỳnh Phan Anh là một trong
những
người viết nổi tiếng của thập niên 1960, thuộc trào lưu “tiểu thuyết
mới” tại
miền nam Việt Nam, khởi nghiệp viết vào lúc cuộc chiến đang ở mức tàn
khốc nhất
của nó. Người phỏng vấn kỳ vọng ở ông, sẽ cho người đọc biết, ít ra là
về ba
giai đoạn văn chương, theo tôi:
-Trước 1975 tại miền
nam.
-Sau 1975, tại miền
nam, mà HPA đã tham dự ngay từ những
ngày đầu, tác giả của, thí dụ
như “Những Tháng Ngày
Êm Ả”, kịch bản chuyển thành phim
ảnh.
-Những ngày mới mẻ ở
Mỹ của ông, như là một nhà văn trước
1975 của miền nam tái ngộ bạn bè “cùng hội cùng thuyền” ở Mỹ, những
người cũng
như ông, nhưng cũng khác ông….
Về triết học ở Mỹ,
tôi sợ HPA không rành, khi cho rằng triết
học ở nước Mỹ khá nghèo nàn, sách triết ở Mỹ không phong phú cho lắm.
Bởi vì
bất cứ một nhà xuất bản đại học nào ở Mỹ đều có riêng một hay nhiều tủ
sách
triết của họ. Nếu thiếu, là thiếu những bực đại sư phụ, như Foucault,
Derrida…
và những ông này, đều được trọng vọng ở Mỹ, và nếu không có Mỹ, sợ
rằng, mấy
ông cũng chẳng có đất để mà dụng võ. Bảo nước Mỹ thiếu một căn bản
triết học,
nói như vậy thì cũng giống như người Pháp đã từng chê nước Mỹ là một
quốc gia
không có lịch sử. Nhưng để đưa ra một cái nhìn cho vấn đề này, ở đây,
có lẽ nên
viện đến câu trả lời của Steiner, trong một cuộc phỏng vấn dành cho tờ
Điểm
Sách Paris, khi người phỏng vấn đặt câu hỏi:
-Nhưng chắc chắn có
điều gì liên quan tới tính cách của cuộc
sống trí thức và văn chương Mỹ, và nó làm ông giãn ra.
Steiner: Vâng. Tôi
viết một tiểu luận được tái đăng nhiều
nhất và bị ghét bỏ – trong số những gì tôi viết, đây có lẽ là bài bị
ghét bỏ
nhiều nhất – tên là "Thư Khố Vườn Địa Đàng" (The Archives of Eden),
trong đó tôi dướn mãi cổ lên mà nói rằng những bảo tàng viện, thư khố,
những
viện nghiên cứu, đại học Mỹ sẽ là trung tâm của thế giới văn hóa, sống
nhờ nghệ
thuật, triết học, siêu hình học của Âu Châu. Nói vậy có nghĩa, rằng
những
Wittgenstein, những Heidegger, những Sartre của trái đất này sẽ vẫn
tiếp tục
tới, từ một Âu Châu tự sát, bị moi ruột, tan hoang rã rời; rằng tác
phẩm loại
nhì - chứ không phải loại nhất - đang làm đầy văn hóa Mỹ, và cứ thế
tràn lan ra
mãi; rằng de Tocqueville đã đúng, khi ông nói về một chủ nghĩa đồng
hạng sâu
xa, cố hữu, (a deep inherent egalitarianism) ở trong những hy vọng của
tâm hồn
Mỹ; rằng cái thứ công lý xã hội và chủ nghĩa đồng hạng, và phép lịch sự
(decency) – hãy gạch dưới từ này bằng tám cây bút chì đỏ! – trớ trêu
làm sao
[lại tỏ ra] thù nghịch với một vài phẩm chất triết học dứt khoát thuộc
loại
thượng hảo hạng và có lẽ [thù nghịch cả với] sáng tạo nghệ thuật…..
Về câu nói của Boris
Pasternak, tôi sợ rằng HPA không nói
hết ý của nhà văn này, bởi vì, như chúng ta đều biết, khi ông được
Nobel văn
chương, nhà nước Xô Viết đã bắt bí ông: Nếu đi nhận giải Nobel thì đừng
về.
Chính vì vậy mà ông phải từ chối. Ông quá yêu nước Nga. Và ông biết,
với ông,
rời khỏi nước, là không thể viết được. Nhưng trường hợp của Brodsky,
hay của
Solzhenitsyn lại khác hẳn. Hai ông này, phải ra ngoài mới viết được.
"Một
nhà văn không thể xa rời tổ quốc mình", nếu nói thế, chẳng lẽ hai ông
sau
không còn là nhà văn nhà thơ, và không yêu nước Nga, vì đã rời xa tổ
quốc yêu
quí của họ?
Về cuốn Nỗi Buồn Chiến Tranh, tôi
không hề nghĩ, tác giả của
nó, đã từng mơ tưởng một hoang tưởng, rằng, cuốn tiểu thuyết của ông,
sẽ là một
“sơ đồ tư tưởng”!
NQT
*
Thư tín
Anh
NQT thân mến,
…. Nay tôi cũng vừa
mới đọc bài viết của HPAnh trên Tuổi Trẻ
[trên net], và cũng thấy hơi phiền ông này về vài chỗ: thí dụ chuyện
viết về
nhà văn lưu vong, và chuyện triết học ở Mỹ. Hãy gác chuyện lưu vong qua
đã, bây
giờ chỉ nói chuyện triết học ỡ Mỹ có nghèo nàn hay không. Câu nói của
HPA chứng
tỏ ông ấy chưa kịp sinh hoạt với môi ttường triết học của Mỹ… Tôi gửi
email này
để có dịp anh thân mật chuyển thông tin này cho HPA vì tôi biết anh và
HPA cũng
là chỗ tri giao.
Đa số trường đại học,
và ngay cả cộng đồng ở Mỹ cũng có
những department of Philosophy, trong đó đầy những lớp căn bản về triết
học cho
năm thứ nhất và thứ nhì. Sau đó, ai chuyên về triết thì học thêm lên.
Các loại
triết thường được giảng dậy là: Analytic Philosophy, Continental
Philosophy, Philosophy
of Language, Ethics (Moral Philo), Metaphysics, có đại học như
North-Western
University of Illinois hay Duquesne Univ. ở Pennsylvania hay có khi UC
Irvine,
CA cũng thường nghiên cứu Existentialism, hay Phenomenology, của
Husserl, hay
các tác giả hiện đại như M. Foucault, J. Derrida, J. Habermas. Đó là
chưa kể
các ngành khác, như Political Philo, Social Philo, Philo of
Mathematics, Philo
of History… Các vị giáo sư các trường lớn, chừng 10 năm giảng dậy, là
có in
sách về đề tài chuyên môn của họ. Chỉ xin kể một số những tên tuổi gần
đây
nhất, về Analytic Phil và Phil of Language (có liên quan tới Literary
Theories
& Criticism) của Mỹ, là: R. Rorty, Donald Davidson, David Lewis, W.
Sellars, hay khá lẫy lừng là W. Quine (Analytic Phil), John Rawls
(Political
Phil),… thì đủ biết triết Mỹ phong phú đa dạng không thể bảo là nghèo
nàn được…
xin anh khuyên HPA nên tìm hiểu lại. Chắc là vì mới qua một năm nên HPA
chưa
biết. Vì có chút cảm mến khi đọc cuốn Văn Chương và Kinh Nghiệm Hư Vô
của HPA
hơn 20 năm trước nên mới có email này…
Trước thềm năm mới….
Thân mến,
TN
-Ôi, trả lời phỏng
vấn trong nước như vậy là ổn rồi, cho anh
coi cái này, còn tệ hơn...
-Nhưng đây là ông bạn chí thân của
tui...
-Ô, nếu thế, phạng như vậy là còn nhẹ
lắm! Nếu cần, viết thư
riêng, phạng cho đã!
......
-Mày viết như vậy, về
thằng T. là nặng lắm đấy!
Những câu đối đáp qua
email bắt Gấu chạy ngược về dĩ vãng,
những ngày mới quen biết anh bạn HPA. Nhưng cái tin về cô bé LH ngày
nào cả anh
cả Gấu tôi đều biết, làm cho tôi nóng nảy hơn. L.H hay Bông Hồng Đen,
La Rose
Noire, theo như Gấu tôi đuợc biết, sắp sửa từ biệt Gấu tôi và cuộc đời
này.
Từ biệt Gấu, thì từ lâu rồi, từ những
ngày Gấu chưa có vợ…
Nhưng
chả lẽ lại bắt
đầu viết về những kỷ niệm tuyệt vời nhất trong đời một người, bằng
những lời lẽ
cay đắng về một người bạn từ thuở tuyệt vời nhất đó?
Tôi quen HPA là qua ông anh của BHĐ [Bông Hồng Đen]. Qua ông
anh, tôi biết cô em, lúc ấy còn bé tí, mới mười một tuổi, và không
thuộc típ
người nẩy nở sớm, ốm tong teo, da ngăm ngăm đen, cặp mắt long lanh, cái
răng
khểnh, khi cười, là cười bằng răng, còn riêng cặp mắt long lanh đó, thì
như
chiếu thẳng vào tận tim đen, tâm hồn đen tối của tôi, như hỏi thẳng
thừng, anh
yêu tôi, có phải không? Tôi đọc thấy điều này, mà có thể chính anh cũng
không
thể nào đọc thấy…
NQT
|