Kundera là nhà văn có ý thức
sâu sắc về
lối viết và được hâm mộ từ lâu trên thế giới. [ý thức sâu sắc về
lối viết, vậy thôi sao? Đúng là một câu... huề vốn!] Là người đã dịch
một số
tác phẩm
của Milan Kundera, "đến" [“mà” đúng hơn] cuốn mới in ở VN là Những mối tình nực cười, anh
đánh giá
thế nào về ảnh hưởng của Kundera với đời sống "viết lách" [dùng chữ
"văn
học", lịch sự hơn] VN? Một mặt, tôi nhận thấy cái tên Milan Kundera được nhiều
nhà văn nhắc tới.
Nếu như đó là dấu hiệu của ảnh hưởng thì chắc chắn Kundera có ảnh hưởng
không
nhỏ ở Việt Nam, theo tôi là ngang với Garcia Márquez, mặc dù Kundera và
Garcia
Márquez rất khác nhau: nếu một người là biểu tượng của tư duy phân tích
lạnh
lùng, thậm chí ác độc thì người kia hay được coi là một bậc thầy phóng
túng và
nồng nhiệt, đầy nhân tính. Ở một số nhà văn lớn tuổi có yếu tố “phản
tỉnh” như
Nguyễn Khải hay Nguyên Ngọc dấu ấn của Kundera là không thể phủ nhận.
Tuy
nhiên, cũng phải nhấn mạnh rằng một nhà văn chỉ thực sự lớn khi không
ai có thể
bắt chước được. Blog Nhị Linh
Theo tôi, không thể lấy cái sự được yêu thích ngang nhau giữa hai ông
nhà văn
Garcia Marquez và Kundera mà so sánh, như trên được, mà phải đặt câu
hỏi, và sự
trả lời, như sau đây, thí dụ:
Liệu có sự giống nhau, về chủ đề nào đó, khiến cả hai ông đều được độc
giả Mít
hồ hởi đón nhận?
Từ đó, ra câu trả lời:
Kundera, từ lò Đông Âu.
Garcia Marquez, từ thế giới thứ ba, thứ thế giới chỉ được "thực hiện có
một nửa",
nói theo Salman Rushdie:
Ở Mỹ Châu La Tinh, thực tại biến dạng do chính trị nhiều hơn là do văn
hóa. Sự
thực được bưng bít đến nỗi không còn biết đâu là sự thực. Cuối cùng chỉ
còn một
sự thực độc nhất, đó là lúc nào người ta cũng nói dối. Những tác phẩm
của Garcia
Marquez không có tương quan trực tiếp tới chính trị, nhưng chúng đề cập
tới
những vấn đề đại chúng bằng những ẩn dụ. Chủ nghĩa hiện thực huyền ảo
là một
khai triển chiết ra từ chủ nghĩa siêu thực; một chủ nghĩa siêu thực
diễn tả
lương tâm đích thực của Thế Giới Thứ Ba, tức là của những xã hội được
tạo thành
"có một nửa", trong đó, cái cũ có vẻ như không thực chống lại cái mới
làm người ta sợ, trong đó sự tham nhũng, thối nát "công cộng" của đám
cầm quyền và nỗi khiếp sợ "riêng tư" của từng người dân, tất cả đều
trở thành hiển nhiên. Trong thế giới tiểu thuyết của Garcia Marquez,
những điều
vô lý, những chuyện không thể xẩy ra, đều xẩy ra hoài hoài, ngay giữa
ban ngày
ban mặt. Thật hết sức lầm lẫn, nếu coi vũ trụ văn chương của ông là một
hệ
thống bịa đặt, khép kín. Nó không được viết ở trên mảnh đất nào khác mà
chính
là mảnh đất chúng ta đang sống. Macondo có thực. Và đó tính nhiệm mầu
của ông.
Có thể, độc giả Việt Nam đọc
xã hội hiện tại Việt Nam, qua kinh
nghiệm,
cách viết của hai nhà văn trên. do đó mà có sự sùng bái, best
seller, hai ông này chăng?
Hỏi và trả lời, kiểu 'cò mồi', trên đây, giữa tay phóng viên và địch
giả NL, là, hoặc lệch ra ngoài nguyên tác, [biến
hai tác
giả trên, trở thành "vô hại"], hoặc, theo kiểu
ẩn dụ của Rushdie, hoặc, theo chủ trương của nhà nước: Biến mọi tác
phẩm
"nhậy cảm" thành "lãnh cảm".
Câu phán "một nhà văn chỉ thực sự lớn khi không ai có thể bắt chước
được", theo tôi, không đúng, theo như kinh nghiệm của riêng tôi: Viết
văn
là phải có thầy.
Bữa nào rảnh, sẽ trở lại với vấn đề này,
bởi vì, chắc chắn, sẽ có rất nhiều nhà văn Mít, những ông thành danh
rồi, lão làng
rồi, bật cười, tự hỏi, như tao đây, đâu cần thầy! NQT
* Kundera là nhà văn có ý thức
sâu sắc về lối viết và được hâm mộ từ lâu trên thế giới.
Bất cứ nhà văn, nếu là nhà
văn thực sự, thì đều có ý thức sâu sắc về lối viết. Và được hâm mộ trên thế
giới.
Ông nào, nếu hân hạnh được
dịch ra tiếng Mít, thì đều được hâm mộ trên thế giới cả!
Phán kiểu đó, mà không... huề
vốn sao? Ở một số nhà văn lớn tuổi
có
yếu tố “phản tỉnh” như Nguyễn Khải hay Nguyên Ngọc dấu ấn của Kundera
là không
thể phủ nhận. Tuy nhiên, cũng phải nhấn mạnh rằng một nhà văn chỉ thực
sự lớn
khi không ai có thể bắt chước được.
NL
Thú thực, Gấu không làm sao
tìm được mạch nối giữa hai câu văn này.
Bởi vì, NK, hay NN đâu có hề
muốn bắt chước K?
V/v phản tỉnh? Ở Nguyễn Khải?
Ông chỉ mượn K hình ảnh Thượng Đế thì cười, nếu tôi nhớ không nhầm.
Còn cái sự ăn năn cuối đời vì
suốt đời
chịu hèn chịu nhục, giả như phản tỉnh, có lẽ cũng chẳng
mắc mớ gì tới K. Ở NK có sự cay cú, vì không được Đảng coi là con đẻ,
so với mấy ông khác. Cái sự đi tìm cái tôi của ông, có vẻ như là sự
tranh chấp nội tâm của ông, giữa, một bên là Đảng, một bên là Nhà Thờ,
như có lần ông thú nhận, giá không gặp Đảng, thì ông đã chọn nghề linh
mục.
Còn NN, tôi nghĩ ông dịch K là để cho lớp nhà văn trẻ nhiều hơn là cho
ông. Một cách nào đó, ông muốn, ông là K. của Mít, qua những sự kiện
như khám phá ra NHT, dịch K, vờ anh Núp, đứa con tinh thần của ông, khi
có nhà nước có ý định chuyển thành phim cuốn tiểu thuyết lẫy lừng nhất
của ông, có thể như vậy.
Một cách nào đó, 'lối viết' của Kundera được tóm gọn vào câu sau đây,
của ông:
"the struggle of man against
power is the struggle of memory against forgetting.": Cuộc chiến đấu
của con người chống lại quyền lực là cuộc chiến đấu của hồi ức chống
lại sự
lãng quên.
* Hồ sơ K trên
Tin
Văn
Gấu kể như là người đầu tiên giới thiệu Kundera với dân Mít ở hải
ngoại, qua
mục Tạp Ghi trên báo Văn Học của NMG.
Nhờ đọc Kundera, Gấu mới viết được bài Mùa
Thu những di dân, và liên
kết được hình ảnh nhà thơ Văn Cao - đóng hai vai cùng một lúc, vừa là
thi sĩ
vừa là đao phủ thủ - với hình ảnh nhà thơ Mayakovsky ngồi ké né bên
trùm mật vụ
Nga
Dzherzhinsky.
Mít,Yankee mũi tẹt đúng hơn, quả là bảnh thật!
*
Với
tôi, hay nhất ở Phạm Duy, vẫn là những bản nhạc tình. Ông không thể, và
chẳng
bao giờ muốn đến cõi tiên, không đẩy nhạc của ông tới tột đỉnh như Văn
Cao, để
rồi đòi hỏi "thực hiện" nó, bằng cách giết người. Một cách nào đó,
"tinh thần" Văn Cao là không thể thiếu, bắt buộc phải có, đối với
"Mùa Thu", khi mà nhà thơ ngự trị cùng với đao phủ. Kundera đã nhìn
thấy điều đó ở thiên tài Mayakovsky, cũng cần thiết cho Cách mạng Nga
như trùm
cảnh sát, mật vụ Dzherzhinsky. (Những Di chúc bị Phản bội). Nhạc không
lời, ai
cũng đều biết, mấy tướng lãnh Hitler vừa giết người, vừa ngắm danh họa,
vừa
nghe nhạc cổ điển. Cái đẹp bắt buộc phải "sắt máu", phải
"tyranique", (Valéry). Phạm Duy không nuôi những bi kịch lớn. Ông tự
nhận, chỉ là "thằng mất dậy" (trong bài phỏng vấn kể trên). Với kháng
chiến, Phạm Duy cảm nhận ngay "nỗi đau, cảnh điêu tàn, phía tối, phía
khuất",
của nó và đành phải từ chối vinh quang, niềm hãnh diện "cũng được chính
quyền và nhân dân yêu lắm". Những bài kháng chiến hay nhất của Phạm
Duy:
khi người thương binh trở về. Ở đây, ngoài nỗi đau còn có sự tủi hổ.
Bản chất của
văn chương "lưu vong, hải ngoại", và cũng là bản chất của văn chương
hiện
đại, khởi từ Kafka, là niềm tủi hổ, là sự cảm nhận về thất bại khi muốn
đồng nhất
với đám đông, với lịch sử, với Mùa Thu đầu tiên của định mệnh lưu vong.
Phạm Duy muốn làm một người tự do tuyệt đối nên đã bỏ vào thành. Nhưng
Văn Cao,
chỉ vì muốn đồng nhất với tự do tuyệt đối, nên đã cầm súng giết người.
Thiên
tài Mayakovski cần thiết cho Cách Mạng Nga cũng như trùm công an mật
vụ, là vậy.
I am in sympathy with Dostoevsky, who was so
infuriated by Russian
intellectuals who knew Europe better than they did Russia.
Orhan Pamuk: The
Collector
Tôi chịu Dos: Ông cáu lắm khi đám trí thức Nga rành Âu châu hơn nước
Nga của họ.
*
Ui chao, Gấu đọc blog NL, và đọc còm, cũng muốn cáu như Dos đã từng
cáu! NQT
Mình
tưởng vết thương ngày nào đã thành sẹo, không ngờ
vẫn mưng mủ…
Hồi
Gấu còn giữ mục Tạp Ghi cho tờ Văn Học của NMG, sau khi đụng tới
NHT, và
Nguyễn Huệ của ông, khi ra Bắc, làm cái chuyện ấy với bà gì gì đó trong
Phẩm
Tiết, và làm cái chuyện gì gì đó, với đám sĩ phu Bắc Hà, tờ VH nhận
được thư
của một độc giả, phàn nàn, chuyện NHT đã 10 năm rồi, vết thương đã lên
da non,
ông Trụ này còn chọc dao vô, rồi ngoáy ngoáy, nhưng hy vọng, lần này nó
sẽ
thành sẹo!
Khi Văn Cao tự khui ra cái vụ làm đao phủ thủ cho Đảng, Gấu tự hỏi, tại
sao,
nhưng sau nghĩ ra, không khui ra là bỏ mẹ, vì đúng vào sắp sửa đi, chưa
kịp
chôn, mà tổ chức khui ra, như vụ Vũ Bằng thì khốn nạn nào bằng!
Truờng hợp Đỗ thi sĩ, Chung Do Kwan, Gấu thoạt đầu thấy hơi lạ, ông này
đâu cần
phải lạy ông tôi ở bụi này, và lấy trường hợp Kim Phúc để cắt nghĩa,
nhưng một
nữ độc giả "mắng cho", và mách nước, phải so sánh với trường hợp Grass,
và cùng với nó, là thế kỷ bửn nhất trong mọi thế kỷ, và chính vì vậy,
ai sắp
sửa đi, là làm một cú "thú tội trước bàn thờ", để mà còn thanh thản
đi đầu thai.
*
Quả có thế. Thí dụ trường hợp Kundera.
Ông này viết về "Đời nhẹ khôn kham", và Đời bèn đáp lễ: Lịch sử không
nhẹ như cuộc đời đâu. Hòn đá Sisyphe đấy!
Milan Kundera The unbearable weight of
history A long-buried scandal may
taint a giant's reputation
MILAN
KUNDERA'S poignant novels epitomised the tragic division of
central Europe from the rest of the
continent. Works such as
"The Unbearable Lightness of Being" told of lives clouded or ruined
by totalitarianism.
The story of Miroslav Dvoracek, a Czech spy for the West, would fit
well into a
Kundera novel. Caught by the secret police in 1950 while on an
undercover
mission to Prague,
he was tortured and then served 14 years in a labor camp. He was lucky
not to
be executed. He has spent nearly six decades believing that a childhood
friend
called Iva Militka betrayed him; he had unwisely contacted her during
his
clandestine trip. Similarly, she has always blamed herself for talking
too
freely about her visitor to student friends. Now a police record found
by Adam
Hradlicek, a historian at the Institute for the Study of Totalitarian
Regimes,
in Prague,
suggests that it was one of those friends, the young Mr Kundera, who
was the
informer.
Mr Kundera, a recluse for decades, insists that he had no involvement
in the
affair and is baffled by the document.
Communist-era records are not wholly trustworthy. But a statement from
the
Czech archives says it is not a fake; the incident (if it happened)
could help
explain why Mr Kundera, then in trouble with the authorities, was
allowed to
stay at university even though he had been expelled from the Communist
Party.
True or not, the story echoes themes of guilt, betrayal and
self-interest found
in Mr Kundera's own work, such as "unbearable lightness" (dodged but
burdensome responsibility). In "The Owner of the Keys", a play
published in 1962, the hero kills a witness who sees him sheltering a
former
lover from the Gestapo.
As Mr Kundera himself has written so eloquently, "the struggle of man
against
power is the struggle of memory against forgetting." Under
totalitarianism, fairy tales good and bad often trumped truth. Some
heroes of
the Prague Spring in 1968 had been enthusiastic backers of the
Stalinist
regime's murderous purges after the communist putsch of 1948.
Mr Hradlicek surmises that Mr Kundera probably acted out of
self-interest, not
malice or conviction. Millions faced such choices in those times. Some
have
owned up; many have not. Countless episodes like that linger over
eastern
Europe like an invisible toxic cloud + Người Kinh Tế, 18
Oct, 2008
Những cuốn tiểu thuyết nhức nhối của Kundera kể những cuộc đời u ám hay
bị tiêu
tan vì chế độ toàn trị. Và câu chuyện một điệp viên chìm Tây phương gốc
Czech
bị mật vụ tó do có người tố cáo thật hợp với chúng. Anh chàng này cứ
đinh ninh
là mình bị cô bạn thời thơ ấu phản bội. Cô bạn này cũng cứ tự hành hạ
mình, vì
lỡ nói về chuyến đi của anh với bạn bè của cô. Nhưng hồ sơ mật mới khui
cho biết,
người tố cáo là một trong những người bạn của tay điệp viên, và là
chàng trai
trẻ Kundera.
Kundera bác bỏ lời tố cáo, nhưng đây là một tài liệu thực. Và nó giải
thích
được, trường hợp Kundera, tại sao gặp khó khăn với nhà nước vậy mà vẫn
được
tiếp tục ở Đại học, mặc dù đã bị đuổi ra khỏi Đảng.
Chúng ta cứ thử tưởng tượng Nobel vừa rồi về tay Kundera, mới thấy sự
việc
khủng khiếp là dường nào. Chẳng lẽ vừa trao xong, là đòi lại liền?
Kundera như chúng ta được biết, rất ghét cái món tiểu sử. Và sống cũng
rất ư là
ẩn dật. Hay là chàng hơi bị nhột, vì vụ này?
“Sử nặng khôn kham”: Độc giả Kim Dung thì quá rành đòn “Gậy ông đập
lưng ông”.
“Gieo gió gặt bão”, liệu có thể nói như vậy.
*
"Mặt
trời chân lý chiếu qua tim". (Tố Hữu). Tính chất trữ tình không thể
thiếu,
trong thế giới toàn trị (totalitarian world): Tự thân, thế giới đó
không là ngục
tù, gulag. Nó là ngục tù, khi trên tường nhà giam dán đầy thơ và mọi
người nhẩy
múa trước những bài thơ đó, (Kundera, sđd).
Câu
này, có thể áp dụng cho những bài viết của NL: Chúng được dán lên đầy
các tờ báo
hàng ngày hàng tuần, như TTVH, SGTT… và dân Mít tự hào đọc nó, cảm thấy
mình cũng trí thức
[trữ tình] như ai, và quên đi số phần của mình. NQT
* Note::
Tin Văn có đọc bài trả lời của NL.
Xin phúc đáp:
1. Tin Văn không hề áp đặt một cách nhìn Kun. Bạn NL có cách đọc của
bạn, thì cũng phải cho Tin Văn có cách đọc của Tin Văn.
2. V/v vô hại. Thì nó vô hại thực thì đành phải viết ra như vậy.
3. Tôi không hề phỉ báng ông Kap Ba Lan. Ông ta viết về Châu Phi như
thế nào, thì bạn Thái Linh phải đọc, rồi mới có ý
kiến được.
Ba Lan có nhiều tay bảnh hơn Kap. Tin Văn chưa từng gọi những ông như
Milosz,
thí dụ, là khốn nạn hết.
Tôi sợ bạn TL chưa từng đọc Milosz?
[Tôi không hiểu ở Ba Lan bây giờ, tác phẩm của Milosz có được nhà nước
cho phép đọc? ]
4. V/v "Tôi lấy làm choáng ngợp trước hiện tượng các nhà văn, nhà trí
thức,
nhà chính trị của Việt Nam khi chuẩn bị hậu sự bỗng dưng đóng góp nhiều
thế,
sắc sảo thế, ưu thời mẫn thế thế. Còn trước đây thì các ông làm gì?
Almost
nothing. Chuyến tàu vét đi vào lịch sử bỗng thành chuyến tàu của Ấn Độ,
người
người chen lấn lên tận nóc tàu. Hai câu này chi phối hành động của các
vị hơi
nhiều, hoặc là quá nhiều: "Cuốn sổ bình sinh công với tội" và "Đâm
mấy thằng gian bút chẳng tà". Tất nhiên không ai chọn phe nước lèo, tất
tật đều về phe công chính (Những người công chính, mượn đỡ Jean-Paul
Sartre)."
Xin miễn trả lời.
Tuy nhiên, đọc lại bài trên Tin Văn, thấy nặng nề quá.
Đành chịu cú hồi đáp này vậy.
Tks. NQT V/v Ông Kap Ba Lan.
Hình như
vụ này, trên blog NL có một lần đã nhắc tới? Tôi nhớ là có một độc giả
còm, v/v ông Kap này kiêm nghề mật vụ, vào thời kỳ đó, làm sao tránh
khỏi, nếu muốn được đi qua
những nước Tây Phương.
Chúng ta thử hỏi, trong thời
gian dài làm mật vụ như thế, ông Kap này đã làm hại bao nhiêu người?
Xin post lại bài về ông Kap, để chứng minh, cái sự hồ nghi của giới học
giả, không phải của Gấu, về ông ta.
Ryszard Kapuscinski, widely
regarded as
the greatest journalist of the twentieth century, died in January this
year.
Virtually the last sentence he wrote was the one that concludes this
volume of
memoirs. It is a description of the receptionist at a hotel in Bodrum, Turkey,
the modern name for
the ancient town of Halicarnassus,
where the ancient Greek historian Herodotus was born. As she greeted
the ageing
Pole, the “black-eyed” young Turk’s smile was professionally polite,
but
“tempered by tradition's injunction always to maintain a serious and
indifferent mien toward a strange man”.
Kap được nhiều người coi là nhà báo vĩ đại nhất của thế kỷ 20, chết
tháng Giêng
vừa rồi [2007]. Cứ kể như câu văn chót ông viết, là câu đóng lại tập
chót cuốn
hồi ức này của ông. Câu văn tả cô tiếp tân của một khách sạn ở Bodrum,
Thổ nhĩ
kỳ, tên mới của thành phố cũ, Halicarnassus,
nơi sử gia Hy Lạp thời cổ đại Herodotus sinh ra. Mặc dù lịch sự có
thừa, đúng
dân nhà nghề, nhưng nụ cười của cô thiếu nữ Thổ mắt đen lay láy vẫn
phảng phất
sự khinh khi, rè bỉu, lãnh đạm, đúng theo truyền thống, đối với một
“người
dưng”.
*
Đúng là một câu văn của một tay điểm sách nhà nghề, trên tờ báo văn học
số 1
của thế giới. Lịch sự có thừa, nhưng gói gém tất cả những gì bài viết
sau đó sẽ
mở ra.
1. Herodotus là thầy của Kap.
2. Vẻ lãnh đạm truyền thống này, cũng là vẻ lãnh đạm truyền thống, của
những xứ
sở mà Kap viết về họ. John Ryle, trong bài điểm cuốn Bóng Mặt Trời
xác
nhận điều này: "Tác phẩm của ông không được nhiều độc giả Phi châu đón
nhận, và họ, cả học giả, lẫn ký giả, thì đều hồ nghi sự chính xác của
nó".
3. Sự tiếp nhận của Tây phương, cũng dè dặt. Đây là nói về tác phẩm
The
Emperor của ông, vẫn theo John Ryle. Bởi vì "hai lần dè dặt" đối
với nguồn, [awareness of its doubly exotic origin]: Một cuốn sách viết
về một
xứ sở xa vời, và được viết bởi một tác giả cũng vời xa không kém, một "rara avis" [a rare or
unique person
or thing, nhân vật độc nhất], một bậc thầy, bề ngoài, của một thứ ký
giả mới
của Tom Wolfe, từ bên trong thế giới CS bò ra.
Nhắc
tới Le
Carré có ngay Le
Carré. John
Ryle khuyên chúng ta, thà rằng đọc Le Carré còn hơn đọc Kap.
If you want an accurate summary of the war in Sudan
you would do better to read
John Le Carre's The Constant Gardener, which doesn't pretend to
be
anything other than a novel.
Khốn nạn nhất, là tay Kap này còn thực dân cả thực dân, như John Ryle
viết:
As Kapuscinski himself wrote of South American baroque, "If there is a
jungle it has to be enormous if there are mountains they have to be
gigantic if
there is a plain it has to be endless .... Fact is mixed with fantasy
here,
truth with myth, realism with rhetoric." The direction of Kapuscinski's
exaggerations and distortions becomes apparent. This is a continent
without
bookshops. Its inhabitants are prisoners of their environment. They
live on
milk. They are outside time. (Who knows? They may even have heads
beneath their
shoulders.) Europeans can never really understand them. Here we may be
getting
close to the truth, for the one thing that the inhabitants of this
hugely
various continent do have in common is the experience of European
colonialism
or occupation. And despite Kapuscinski's vigorously anti-colonial
stance,
his own writing about the continent is a variety of literary
colonialism, a
kind of gonzo orientalism, a highly selective imposition of form,
conducted in
the name of humane concern, that misrepresents Africans even as it
purports to
speak for them.
Such criticisms do not rob Kapuscinski's writing of its bright allure,
but they
warn us not to take it as a guide to reality. In the last chapter of TheShadow of the Sun, there is a final epic
generalization that embodies
his ambiguous attitude to factual reportage and his attraction to the
realm of
poetry and fiction. "The kind of history known in Europe as scholarly
and
objective", Kapuscinski writes, "can never arise here because the
African past has no documents or records, and each generation,
listening to the
version being transmitted to it, changed it and continues to change
Cái từ "khốn nạn" của Gấu, về ông Kap, là phản ứng tất nhiên, khi đọc
những đoạn viết trên đây.
*
Nhờ đọc
Kundera, Gấu mới viết được bài Mùa Thu những di dân,
và liên kết
được hình ảnh nhà thơ Văn Cao - đóng hai vai cùng một lúc, vừa là thi
sĩ vừa là
đao phủ thủ - với hình ảnh nhà thơ Mayakovsky ngồi ké né bên trùm mật
vụ Nga
Dzherzhinsky.
Mít,Yankee mũi tẹt đúng hơn, quả là bảnh thật! Tiểu
thuyết không phải là tên tà lọt
của sử gia Kỷ
niệm bỏ chạy
* sonata
said...
Đôi khi rất nực cười
về sự giáo điều của những người
nhân danh chống giáo điều! Họ có một giọng thô bạo hết sức để chỉ mặt
đặt tên
cái gì không thuộc "hệ thống" của họ....:(
Tin Văn
giải thích sự kiện trong nước thích đọc Garcia Marquez và Kundera, là
vì họ đọc xã hội Việt Nam qua hai nhà văn này.
Một ông gốc gác CS, một ông viết về thế giới được tạo thành chỉ có một
nửa.
Do chế độ kiểm duyệt cho nên nhà văn Việt Nam không có ai dám viết về
những đề tài nhậy cảm, thì đành phải đọc hai tác giả trên, trong khi
chờ Godot!
Cách đọc như vậy là ‘giáo điều’ của những người nhân danh chống giáo
điều ư? Giọng văn hết sức thô bạo
để chỉ mặt đặt tên cái gì không thuộc "hệ thống" của họ.
Giọng văn trên Tin Văn, nó vốn vậy rồi. Có vẻ anh chị, cà chớn, nhiều
khi xuồng xã nếu là chỗ thân quen. Nhưng không thô bạo.
Bài viết về NL, cũng là chỗ quen biết, thành ra có thể có chút nặng
tay.
Có chủ ý.
*
"Hệ thống" của họ?
Của Tin Văn?
Nếu có, thì Gấu này cũng muốn biết, nó ra làm sao. Không lẽ “… trang Tin Văn có cấu trúc
rất lộn xộn, khi cần muốn tìm cái gì đó coi như là mò kim đáy bể”.. có
một hệ thống? Ngay Gấu này, mỗi lần
muốn kiếm một bài viết cũ liên quan tới đề tài đang viết, nhiều khi
cũng đành chịu. (1)
Nếu có chăng, thì là như thế này, ở dưới một mớ hổ lốn đó, là một câu
hỏi, giả như dân Mít được thông báo về vụ Lò Thiêu, liệu có để xẩy ra
Lò Cải Tạo.
Viện hình ảnh mà Koestler ban cho Newton, một vì nhạc trưởng một dàn
đại hoà tấu, trước khi ông xuất hiện, những hiện tượng thí dụ như thuỷ
triều, mặt trăng, trái táo rớt xuống đất… thì cũng hổ lốn, chẳng làm
sao móc nối với nhau, như những bài viết trên trang Tin Văn, và khi ông
xuất hiện, giơ cao cây đũa thần, thế là dàn nhạc lập tức chơi bản đại
hoà tấu “Vạn Vật Hấp Dẫn”.
Cái bản nhạc Vạn Vật Hấp Dẫn của trang Tin Văn, đó là lòng dân Mít lại
qui về một mối, theo kiểu Nối Vòng Tay Lớn, mỗi bàn tay hút nhau, đẩy
nhau, như vạn vật hấp dẫn vậy!
Để có được bản đại hoà tấu đó, là phải ôm riết lấy Lò Cải Tạo, truy đến
tận cùng Cái Ác Bắc Kít, và khu trục nó.
Bản nhạc trên, đã từng được tấu lên một lần rồi, nhưng là đồ dởm, thành
thử gây đại họa!
(1) Hiện nay, để kiếm bài cũ, Gấu sử dụng Google, thứ đặc biệt có tên
là Google Desktop, downlaod từ net. Nhờ nó, nếu không là vô phương!
* Tự do là khi ta bắt
đầu quên
tên lãnh tụ.
Joseph Brodsky (1940-1996), Nobel Văn chương 1987
talawas trích dẫn.
Note:
Câu này, có cả một giai thoại
đi kèm, và liên quan tới, chỉ một trường hợp Brodsky, như David Remnick
viết: Brodsky
sinh năm 1940 tại Leningrad.
Khi còn là một học sinh, sự tức giận, nổi loạn của ông ít nhắm vào ý
thức hệ Cộng-sản
mà về vẻ u ám của văn hóa Xô-viết và sự thừa mứa hình lãnh tụ. "Có cậu
bé
Lênin, như thiên thần có cánh với mớ tóc nâu", ông viết trong nhật ký
thời
trẻ. "Rồi Lênin trong những năm 20, 30; chẳng có một sợi tóc trên chỏm
đầu, mặt nghệt
ra...".
Bộ mặt này đã ám ảnh mọi người dân Nga. Cố tránh né nó là bước đầu
của ông để trở nên lạnh lùng, dửng dưng. (1) Tôi hết còn tin vào nơi chốn đó.
Hay như Coetzee ghi nhận:
Nhưng bảnh nhất, vẫn là thái độ từ chối
khoe ra những vết thương mà chế độ ưu ái dành cho ông.
Trong hành trình tự thuật
của ông, Brodsky không hề nhắc đến đoạn đời 1960, là lúc xẩy ra vụ án
chấn động
giang hồ của ông, và sau đó là lưu đầy nội xứ ở một nông trường cải tạo
ở phiá bắc
nước Nga. “Bằng mọi cách, hãy tránh đừng ban cho mình cái mác nạn
nhân”, ông nói
với sinh viên trong một cuộc nói chuyện.
Coetzee: Stranger Shores.
(1) Về cái sự dửng dưng đối với
chế độ, nhà nước, quê hương... của Brodsky, có một tay viết về nó, thật
tuyệt, trong cuốn Lưu Vong và Sáng Tạo. Bữa nào rảnh, lục đống sách,
Tin Văn sẽ đi một bài, chỉ về thái độ, "tao chán tụi mày quá rồi!",
của ông.
*
Bài viết chỉ được một nửa sự thực về Nguyên
Ngọc.
Ông đã từng "từ chối" anh hùng Núp?
*
Vậy tại sao ông lại không tiếp tục viết về Tây Nguyên? Lẽ nào sau anh
hùng Núp, lại là sự... "núp bút" của ông?
- Cũng đã cố thử đấy chứ, nhưng cứ được 2, 3 câu là lại trở lại giọng
điệu "anh hùng ca". Tìm một giọng điệu mới để phản ánh hiện thực mới
hình như là điều tôi không làm nổi.
- Tại sao ông lại không thích giọng điệu ấy nữa?
-"Anh hùng ca" là giọng điệu của một thời mà chúng ta đã
sống một cách phi thường. Nhưng là con người, làm sao có thể mãi sống
phi thường? Đã đành, cái phi thường là điều vĩ đại, nhưng biết đâu, cái
bình thường còn vĩ đại hơn?
- Như một số cây bút thành danh khác, ông cũng thích phủ nhận và "xoá
sổ" quá khứ của chính mình sao?
- Không phải phủ nhận, nhưng đó là việc đã được làm xong. Giờ, thì phải
đi làm việc khác. Tôi
sợ sự phi thường
* Mấy lần Đất nước đứng lên Đứng lâu cũng mỏi cho nên
phải nằm Hại thay một Mạch nước
ngầm Cuốn
phăng Đất Quảng lẫn Rừng Xà nu! Xuân Sắc Thế
nào là văn chương tự vấn?
Trên Tin Văn,
có hai bài phỏng vấn thật bảnh về Nguyên Ngọc. Copy từ net, có quá
nhiều lỗi. Đã sửa lại. Xin trân trọng tái giới thiệu, và biết đâu, có
hứng, viết về lần gặp ông tại Hà Nội.
NQT
Nguyên Ngọc & Nguyễn Quốc Trụ
@ Rendez-Vous. Hà Nội [Tháng Sáu 2001]
*
Mauvaise Conscience, cái gì vậy cà?
Thuật ngữ này, Gấu gặp lần đầu tiên, khi phụ trách trang VHNT
cuối tuần của nhật báo Tiền Tuyến, trước 1975.
Đúng ra, không phải Gấu, mà là ông bạn Mít học trường Tây,
Gấu vẫn thường xin bài. Lần đó, ông dịch bài diễn văn Nobel của
Saint-John Perse, và đụng từ này, một buổi sáng đẹp trời, ông ghé Quán
Chùa, hỏi khơi khơi những bạn văn ngồi cùng bàn, Gấu ngứa miệng bèn
dịch liền tù tì: Ý thức hư ngụy. (1) Từ này, sự thực, là mượn đỡ cái từ
tiếng Việt vẫn thường dùng để dịch từ mauvaise foi: ngụy tín.
Ông bạn Mít học trường Tây nhìn Gấu khinh khỉnh, ra cái điều
mày dân Mít học trường Mít, có biết tiếng Tây không đấy, mà dám dịch ẩu
dịch tả.
Nhưng sau đó, ông ta dùng đúng chữ của Gấu để dịch từ này.
(1) Có lần tán gẫu với NTV về từ này, anh cho biết, mấy anh Tầu dịch
là "tự vấn". Gấu bèn lèm bèm, "hư ngụy" hay hơn, vì lấy được ý "ngụy"
mà VC gọi đám Miền Nam. NTV lắc đầu, không được, làm như thế là cố tình
ép chữ vào cái nghĩa mà mình cần, là hấp diêm nó!
*
Người đầu tiên sử dụng thuật ngữ này, là Nietzsche.
La mauvaise conscience
Extrait de Aurore, Livre I, § 76, Nietzsche
: Mal penser c'est rendre mauvais
Les passions deviennent mauvaises et
perfides lorsqu'on les considère d'une façon mauvaise et perfide. C'est
ainsi que le christianisme a réussi à faire d'Éros et d'Aphrodite -
sublimes puissances capables d'idéalité - des génies infernaux et des
esprits trompeurs, en provoquant dans la conscience des croyants les
remords à chaque excitation sexuelle. N'est-ce pas épouvantable de
transformer des sensations nécessaires et normales en une source de
misère intérieure et de rendre ainsi volontairement la misère
intérieure nécessaire et normale chez tout être humain ! De plus, cette
misère demeure secrète, mais elle n'en a que des racines plus profondes
: car tous n'ont pas comme Shakespeare dans ses sonnets le courage
d'avouer sur ce point leur mélancolie chrétienne. - Une chose contre
quoi l'on est forcé de lutter, que l'on doit maintenir dans ses
limites, ou même, dans certains cas, chasser complètement de l'esprit,
devra-t-elle donc toujours être appelée mauvaise ? N'est-ce
pas l'habitude des âmes vulgaires de considérer toujours, un ennemi
comme mauvais ? A-t-on le droit d'appeler Éros un ennemi ? Les
sensations sexuelles, tout comme les sensations de pitié et
d'adoration, ont en commun qu'en les éprouvant un être fait du bien à
un autre être par son plaisir - on ne rencontre déjà pas tant de ces
dispositions bienfaisantes dans la nature ! Et c'est justement l'une
d'elles que l'on calomnie et que l'on corrompt par la mauvaise
conscience ! La procréation de l'homme assimilée à la mauvaise
conscience ! - Mais cette diabolisation d'Éros a fini par avoir un
dénouement de comédie : le « démon » Éros est devenu peu à peu plus intéressant pour les hommes que
les anges et les saints, grâce aux cachotteries et aux allures
mystérieuses de l'Église dans toutes les choses érotiques : c'est grâce
à l'Église que les affaires d'amour devinrent le seul intérêt véritable
commun à tous les milieux, - avec une exagération qui paraîtrait
incompréhensible à l'antiquité - et qui ne manquera pas un jour de
provoquer l'hilarité. Toute notre poésie, toute notre pensée, du plus
élevé au plus bas est marquée et plus que marquée par l'importance
excessive avec laquelle l'histoire
d'amour entre en scène à titre d'histoire
principale : peut-être pour cette raison la postérité trouvera-t-elle à
tout l'héritage de la civilisation chrétienne quelque-chose de mesquin
et de fou. Nguồn
Et c'est assez,
pour le poète, d'être la mauvaise conscience de son temps.
Saint-John Perse sử dụng ý trên để kết thúc bài diễn văn Nobel của ông:
Là ý thức tự vấn của thời của mình, là quá bảnh cho một nhà thơ, rùi!
* Greene thấm ý
này, và thời của mình, bèn lập lại, như tiên tri ra được cái cảnh hết
cờ giải
phóng tới mũ tai bèo giã từ vũ khí:
Nón cờ vừa được "lộng kiếng", là bèn chạy về phía những kẻ
"bị" giải phóng, nếu không muốn biến thành bọ!
Solzhenitsyn, phán, nhà văn là nhà nước trong một nhà nước, là cũng
trong ý đó.
Ngay cả khi nhà nước đúng mười mươi, nhà văn vẫn không thể nào đứng
cùng một
phía với "cái không phải là mauvaise conscience" được. Nhân vật
Rubachov của Koetler, trong Đêm giữa ban ngày, giờ phút chót, trước khi
thi hành
mệnh lệnh chót của nhà nước, công khai thú nhận tội lỗi trước nhân dân,
và Đảng
sẽ nhân danh nhân dân ban cho cái chết tử đạo, mới ngộ ra điều trên:
Trong khi
cái đầu của ông tỏ ra hài lòng với Gletkin, trái tim của ông thừa nhận,
có lẽ
con người không nên theo những hiệu quả logic của tư tưởng đến tận
cùng. Có lẽ,
lý lẽ không thôi, là một cái la bàn không hoàn hảo, nó sẽ đưa con người
vào một
chuyến đi đầy dông bão, cuối cùng bến tới biến mất trong đám sương mù.
Cái khốn nạn của văn chương Miền Bắc, suốt chiều dài chống Pháp, chống
Mỹ cứu
nước, là cứ lăm lăm một điều văn chương là phải lẫm liệt.
Trầm luân
vì niềm tin. "Bằng roi vọt chúng ta quất
lên
đám đông đang rên rỉ, bắt họ hướng về hạnh phúc chỉ có tính tương lai
và chỉ là lý thuyết..."
Koestler: Bóng Đêm Giữa Ban Ngày.
Một cuốn sách
hay giống như một món đồ thân yêu, thuộc loại gối đầu giường cũng nên,
vậy mà có khi cũng không nhận ra hết mọi nét quyến rũ. Hoặc tưởng chừng
đã biết hết, nhưng sự thực không phải như vậy. Rồi một ngày nào, cơ
duyên chợt tới, và cuốn sách lúc đó mới bầy tỏ "niềm bí ẩn cuối cùng"
của nó. VớI tôi, đó là trường hợp cuốn Darkness at Noon, của A.
Koestler.
Tôi đọc cuốn
sách rất sớm, qua bản dịch "Đêm hay Ngày", do Phòng Thông tin Hoa kỳ
xuất bản, những ngày đầu làm quen Sài-gòn, cố tìm cách "biện minh" cho
một chuyến "bỏ nhà ra đi", đi thật xa, chẳng mong có ngày về. Trong trí
óc ngây thơ của chú bé "mất Hà-nội là mất tất cả", đây chỉ là một cuốn
sách "chống cộng", một cuốn sách tuyên truyền, nếu không tại sao nó lại
được người Mỹ xuất bản?
Lần thứ nhì
đọc, qua bản dịch tiếng Pháp, Le Zéro et l'Infini, Số không và Vô tận,
những năm cuối bậc trung học. Đọc và đối chiếu với bản tiếng Việt, chủ
yếu là học, tập tành dịch sách "Tây". Cùng thời với những cuốn sách
khác viết về chủ nghĩa Marx, như của Henri Lefebvre. Merleau-Ponty...
Đọc, yêu, và kính nể tác giả, nhưng vẫn chưa có cơ hội "cảm" nhân vật
của ông, Rubashov.
Lần rời bỏ
Sài-gòn, trong mấy cuốn vội vã mang theo, tôi lại gặp Koestler. Lúc
này, tôi chỉ thấy "thương" Rubashov, khi so sánh nhân vật giả tưởng này
- suốt đời tin vào chủ nghĩa, đến lúc bị đồng bọn đem xử bắn, vẫn mong
mỏi cái chết của mình thuộc loại Tử Vì Đạo, đạo Cộng sản - với những
người Cộng Sản bỏ chạy đồng bọn, vốn đầy rẫy trong các trại tị nạn.
Phải tới lần
cuối cùng, đối diện với Rubashov, tại một thư viện ở Bắc Mỹ, cùng lúc
đọc bài viết của Harold Strauss, May 25, 1941, được đăng lại nhân tờ
Điểm sách của Thời báo New York (The New York Times Book Review) làm số
đặc biệt kỷ niệm 100 năm (1896-1996); nhờ bài điểm sách của H. Strauss,
duyên hạnh ngộ giữa tôi với Koestler, với Rubashov của ông, mới thực sự
trọn vẹn.
Vả chăng, cuốn
sách cũng rất bị "hiểu lầm", và có thể được đọc như là một bài diễn văn
sơ đẳng về một triết lý mang tính chính trị, vì đã thoát thai từ những
"người thực, việc thực", từ những vụ án phản động tại Moscow. Nhưng nó
đã được viết với một sức mạnh bi tráng, với sự ấm áp của tư duy, của
cảm nghĩ; với sự giản dị, đầy tính chiêu dụ mời gọi, và trở nên cuốn
hút như một bản bi ca.
Rubashov là
tổng hợp tất cả những người Bolsheviks cựu trào bị trừ khử bởi Stalin.
Cuốn truyện mở ra vào năm 1938, với sự bắt giữ Rubashov. Ông đang mong
đợi chuyện đó. Ông chẳng phạm bất cứ một tội nào sau đó ông sẽ tự thú.
Theo kiểu suy nghĩ "chuẩn mức", những chuẩn mức "xa xỉ, đỏm đáng", ông
vô tội. Nhưng trong cái đầu có sạn, Rubashov hiểu rất rõ, ông có tội.
Tại sao? Bởi vì ông vẫn là một trong những chuẩn mức làm nên con người
"cách mạng", 40 năm trời cung cúc, tự nguyện hiến thân cho sự nghiệp vô
sản, làm sao hoàn tất nó với tất cả mọi phương tiện, dù ghê tởm, tàn
nhẫn tới đâu. Khi một con người "thép đã tôi" đến mức đó, mà lại để một
chút nghi ngờ cỏn con len lén chui vào tâm tư, khi ông tự hỏi, phải chi
mà cuộc cách mạng đỡ tốn kém đi một chút, những đau thương, những mạng
người, khi đó, ông biết rằng ông hết còn ngây thơ vô tội. Chỉ một chút
lòng trinh bạch là đủ để bị trừng phạt bằng cái chết. Thật tuyệt vời.
Koestler theo sát nút những suy nghĩ của Rubashov, tới tận điểm của "mê
cung", sự thừa nhận cuối cùng "tay chót nhúng chàm": "Tôi hết còn tin
vào ‘khả năng vô địch, bách chiến bách thắng’, của riêng tôi. Vì vậy,
tôi thua".
Tuy là một
cuốn sách viết về nhà tù, nhưng không có sự đối xử "ác ôn, côn đồ" ở
đây. Vấn đề là, một khi bị coi là có tội, theo "chuẩn mức" của nhà nước
Xô-viết, tội nhân, hoặc chết trong im lặng, hoặc "được" quyền tự thú
trước nhân dân.
Giải pháp nằm
trong tay hai thẩm tra viên Ivanov và Gletkin. Cả hai đều muốn Rubashov
bằng lòng tự thú công khai, vì thế giá cách mạng của ông rất cao, trừ
khử ông không một lời giải thích sẽ gây một tổn thất lớn lao về đạo đức
cách mạng đối với nhân dân. Ivanov, vốn là một cựu trào, tin rằng có
thể "nắm" được diễn biến, tư tưởng của người đồng chí cũ.
Hai buổi hỏi
cung đầu do Ivanov. Bằng một "logic" không thể chê, anh cho Rubashov
thấy những vấn đề mà bản thân ông không ngờ được. Anh chứng tỏ, sự mất
cảm tình, không trung thành của Rubashov bắt đầu, là khi ông trở về từ
Đức, sau hai năm bị Nazi cầm tù. Ông đòi hỏi được đi công tác tại hải
ngoại, mặc dù được trao một chức vụ quan trọng ở trong nước.
-Anh không cảm
thấy thoải mái ở đây, chắc thế? Trong lúc anh vắng mặt, đã có một số
thay đổi, và rõ ràng là anh không hài lòng?
Một khi
Rubashov thừa nhận, ông không hài lòng, việc trừ khử những cựu trào,
cái bẫy xiết chặt lấy ông. Bởi vì, theo suy nghĩ của Đảng và Nhà nước,
một chống đối công khai luôn bắt nguồn từ một bất mãn, bất trung thành
ngấm ngầm.
Ivanov chơi
một trò chơi tuyệt hảo với Rubashov. Anh kêu gọi, nhắc nhở người đồng
chí cũ về sự tuân thủ kỷ luật Đảng mà ngày nào ông đã từng một lòng một
dạ. Anh cố làm cho ông tin rằng ông đã lầm lạc. Cuối cùng thành công.
Nhưng Ivanov bị khiển trách và bị xử bắn sau đó, vì đã quá tình cảm với
tội nhân.
Buổi hỏi cung
cuối, khi Rubashov đã sẵn sàng thú tội, là do Gletkin, một kẻ "đã được
cắt nhau ở rốn", nghĩa là không còn một chút dây mơ rễ mái với đám cựu
trào. Đây là một màn tra tấn tinh vi, tạo cơn hấp hối kéo dài. Chủ đích
là phải đem vào bản tự thú, những chi tiết đặc thù. Một thỏa thuận ngấm
ngầm được đặt ra giữa đao phủ và tội nhân: một khi lời buộc tội được
coi như là đúng, tự gốc rễ, cho dù gốc rễ này chỉ có tính trừu tượng,
có vẻ hợp lý; khi đó Gletkin được quyền tha hồ vẽ ra những chi tiết còn
thiếu.
Nhưng đây mới
là mấu chót của câu chuyện, điều mà bao lần đọc Darkness at Noon, vì
thành kiến, tôi đã không nhận ra, may nhờ H. Strauss mới thấy được:
Trong khi bề ngoài, Gletkin thắng trận đấu sinh tử tay đôi (duel), một
sự thay đổi lớn lao đã xẩy ra bên trong Rubashov. Ông lần hồi trở lại
"làm người", một con người của suy tư, cảm nghĩ, của những cảm xúc mang
tính chủ quan. Trong khi cái
đầu của ông tỏ ra hài lòng với Gletkin,
trái tim của ông thừa nhận, có lẽ con người không nên theo những hiệu
quả logic của tư tưởng đến tận cùng. Có lẽ, lý lẽ không thôi, là một
cái la bàn không hoàn hảo, nó sẽ đưa con người vào một chuyến đi đầy
dông bão, cuối cùng bến tới biến mất trong đám sương mù. (1)
Hiệu quả huyền
ảo của cuốn truyện là một mỉa mai bi thảm: Rubashov tự thú công khai
trước nhân dân, và sau đó bị xử bắn. Nhưng ông mới chính là kể thắng
trận, trước đám người thống trị, nhục mạ ông.
Nguyễn Quốc Trụ
Bạn đọc để ý, câu chiêm nghiệm chót của
Rubashov, trầm tư chót, áp dụng đúng y chang vào trường hợp sau 30
Tháng Tư, 1975:
Trong khi bề ngoài, Gletkin thắng trận
đấu sinh tử tay đôi (duel), một sự thay đổi lớn lao đã xẩy ra bên trong
Rubashov. Ông lần hồi trở lại "làm người", một con người của suy tư,
cảm nghĩ, của những cảm xúc mang tính chủ quan. Trong khi cái đầu của
ông tỏ ra hài lòng với Gletkin, trái tim của ông thừa nhận, có lẽ con
người không nên theo những hiệu quả logic của tư tưởng đến tận cùng. Có
lẽ, lý lẽ không thôi, là một cái la bàn không hoàn hảo, nó sẽ đưa con
người vào một chuyến đi đầy dông bão, cuối cùng bến tới biến mất trong
đám sương mù.
Với đám Yankee mũi tẹt, chẳng có chuyến
đi đầy dông bão... : Chuyến đi này thuộc về thuyền nhân.
Nhưng có, cuộc hoá thân sau cùng, hiện
tượng Chúa Sẩy Thai. Nôm na: Biến thành bọ.
Blog Tin Văn
(1) Đây cũng là một bài học muộn, về cuộc chiến Việt nam, của McNamara:
He learned most of the lessons of Vietnam
too latez: Ông học được quá trễ, hầu hết những bài học về Việt Nam
He was
haunted by the thought that amid all the objective-setting and
evaluating, the careful counting and the cost-benefit analysis, stood
ordinary human beings. They behaved unpredictably. During the Cuban
missile crisis of 1962, which he had lived through at cabinet level,
“Kennedy was rational. Khrushchev was rational. Castro was rational.”
Yet between them they had pushed the world to the brink. Rationality,
he concluded, “will not save us.” Perhaps what would were the little
quirks that had made him love John Kennedy: the president’s sudden
capacity to be empathetic, surprised, intuitive, and ready to jettison
his most confident calculations.
Ông bị ám ánh bởi điều, giữa một đống những tính toán, nghiên cứu, đánh
giá, lên kế hoạch, đong đo cân đếm… là con người bình thường, Họ xử sự
rất bất thuờng, nghĩa là đếch làm sao biết trước được. Trong cuộc khủng
hoảng hoả tiễn Cu Bố, Cu Thầy vào năm 1962 mà ông trải qua, “Kennedy
thì hữu lý. K. thì hữu lý. Castro thì hữu lý.” Vậy mà họ đẩy thế giới
tới bờ vực thẳm.
Hữu lý, ông kết luận, ‘đếch cứu được chúng ta”.
Ui chao, còn cái gì hữu lý hơn là chân lý “Lước Việt Lam Nà Một”!
* Có đoạn này, trong bài
viết của Thần đồng họ Trần, về Nguyên Ngọc, thật
tuyệt: Chiều
7-9- 2000, Nguyên Ngọc
về đến Hà Nội thì sáng ngày 8-9, nhà văn Nguyễn Trí Huân, Phó Tổng thư
ký cùng
nhà thơ Nguyễn Hoa, cán bộ Tổ chức Hội, thay mặt Ban Chấp hành đã đến
tận nhà
trao ông Huân chương Độc lập hạng nhì của Nhà nước cùng với lẵng hoa
của Hội
nhà văn. Phó Tổng thư ký Nguyễn Trí Huân còn thông báo cho ông biết,
ông có 7
triệu đồng tiền đầu tư sáng tác
- Ồ, cái đó thì mình không
nhận đâu.
Nguyên Ngọc lắc đầu. Nhà văn
Nguyễn Trí Huân cười điềm đạm:
- Đây là lộc chung thôi anh
ạ. Lộc của Nhà nước mà!
- Lộc nào của Nhà nước. Tiền
đóng thuế của dân đấy. Mình không nhận đâu!
*
Gấu, là Gấu đợp liền!
*
Nhà văn giả đò
Trong số những nhà văn giả đò, bảnh
nhất, có lẽ là me-xừ Romain Gary. Ông này sinh ra đời một cái, là được
bà mẹ
xúi, con phải là nhà văn, còn chính ông con thì tự nhủ: Mình sẽ là Chúa
Giê Su
đợt thứ nhì. Hay đợt thứ ba, thì cũng còn tùy.
Đợt thứ nhì, theo Gấu, khủng khiếp nhất,
đó là trường hợp Chúa Sẩy Thai, hay hiện tượng Con Bọ của Kafka.
Chúng ta cứ giả dụ như Chúa suy tư, như
vầy:
Lần đầu, Ta nhập thế, dưới hình hài con
người, chịu tội thay cho loài người, tụi nó không cám ơn thì chớ, lại
đem Ta
đóng đinh.
Lần thứ nhì, Ta thử nhập thế, dưới dạng
bọ, rồi chịu tội thay cho con người, dưới dạng bọ, dạng ruồi... coi có
đi tới
đâu không.
Cũng không đi tới đâu!
Lần thứ ba, là qua... Romain Gary. Ông
này, không cần loài người đóng đinh, mà tự tay làm thịt mình.
*
Romain Gary
Và điều mà tôi toan tính làm, là, sẽ
thuyết phục bạn, về một sự kiện, bề ngoài xem ra có vẻ quái dị khó tin
[incredible], ông Romain Gary này cứ nhẩn nha nghĩ về mình, và tạo vóc
dáng cho
mình, y như là đây là Lần Tới Thứ Nhì [as if it were the Second
Coming]: Romain
Gary là một "self-anointed, self-appointed, self-resurrected" [tự xức
dầu thánh, tự phong chức, tự tái sinh], và, sau hết, một Chúa Cứu Thế
Tự Đóng
Đinh Chính Mình, a self-crucified Messiah.
Note: Lần Tới
Thứ Nhất, các bạn biết rồi, và đang sửa soạn để tưởng nhớ, vinh danh,
vào ngày
25 Tháng Chạp sắp tới.
Vinh Danh Chúa Trên Trời
Bằng An Người Dưới Thế
"Mẹ tôi," Gary
nói về bà cụ của ông, vào năm 1973, 'hơi
bị được huyễn hoặc', [My mother was pretty legendary]. "Bằng nghĩa đó,
tôi
muốn nói, bà rất ư là giỏi trong cái chuyện phịa ra những huyền thoại".
Hơn thế nữa, ông tiếp tục, bà bị mắc một thứ bịnh rất phổ thông ở Âu
Châu vào
thời kỳ đó: bịnh sính Tây, cứ nghĩ ai cũng có thể là một Jean d'Arc,
thứ bịnh
này lan rộng trong đám Do Thái thuộc vùng Đông Âu.
Thế là ông con được thừa hưởng cả hai
nét [đẹp] này của bà mẹ: Sính Tây và mê đến điên cuồng phịa ra những
huyền
thoại. (1)
(1) Về vụ này, ônh phán: Đếch có một giọt máu Tây nào trong huyết quản
của tôi, nhưng nước Pháp chảy qua tôi!
Bà là Do Thái? Lại một lần nữa, chẳng có
ngay một câu trả lời sẵn sàng. Giữa đám đông, Gary khoái nổ, mẹ tớ là
người Do
Thái, nhưng, riêng tư, cái gốc gác chân thật, Do Thái giáo nói tiếng
Yiddish,
đặc biệt lạ thường của bà mẹ, chỉ còn có 1, nếu ông con nổ, 4. Chính
ông con,
nếu được hỏi, thì bèn hiên ngang 'vỗ ngực xưng tên', "Nếu người ta muốn
tôi là Do Thái, thì hà cớ làm sao mà không nhận, có chết chóc thằng cha
nào
đâu?" ["If people want me to be, I don't mind"].
Ui chao, thế là gần như tất cả mọi người
đều muốn như vậy - khởi đầu, chẳng có gì hồ nghi, là những người Ba Lan
ở Vilnius, và Warsaw. Gary
sống cùng
họ, từ khi ba, tới năm, mười bốn tuổi. Với cái tên Kacew, chạy Trời
không khỏi
nắng... Do Thái: Cậu bé được coi là Do Thái, được gọi bằng một cái tên
Do Thái,
được đối xử như là Do Thái, và như vậy, mọi ý định, toan tính, mục đích
đều đưa
đến chuyện, ông là một Do Thái, ngoại trừ điều này: Bà mẹ Nina đã cho
con làm
lễ rửa tội, là một tín hữu Ky tô, và thường xuyên được một ông linh mục
Chính
Thống giáo ban phước lành.
Nhưng, nói cho cùng, đấng Giêu Su, thì
cũng đâu phải là một tín hữu Do Thái thuận thành, ngoan đạo, ăn chay
trường?
[Jesus wasn't a very kosher Catholic either]. Và, như chúng ta đã biết,
ông
Gary này làm sao mà bỏ qua một dịp may như thế: hăm hở tự nhận mình là
một tay
nào khác, cho dù đây là đấng Giêu Su, và, khi coi mình như là đấng Giêu
Su, thì
làm sao mà bỏ qua dịp may hiếm có: thưởng thức những đau khổ mà Chúa đã
từng
chịu đựng vì nhân loại?
Mãi sau này, ông đã từng hết sức giận
dữ, khi mấy anh Israelis từ chối không đưa tên ông vô cuốn Vẻ Vang dân
Mít, ấy
chết xin lỗi,Vẻ Vang dân Do Thái, của họ. "Những người Đức," ông nói,
"vậy mà có quan điểm thoáng hơn nhiều" [Les Allemands avaient des
vues plus larges] (1974).
*
Note: Trên tờ Le Magazine Littéraire,
số Tháng Sáu 2009, đặc biệt về Socrate, kèm tài liệu mới tìm đuợc về
Romain Gary, cho thấy, chính là một âu lo về Lò Thiêu khiến ông tự sát.
Người ta đã hiểu lầm quá nhiều về ông.
Blasphémer pour afftronter la Shoah. Phỉ báng để đối đầu Lò Thiêu.
Les Risques du je: Rủi ro với trò chơi cái tôi: Gấu, Hai Lúa, Jennifer
Tran, Tuấn Anh, Sơ Dạ Hương, Lý Thương Ẩn, và NQT
Một cách nào đó,
'lối viết' của Kundera được tóm gọn vào câu sau đây, của ông:
"the struggle of man against power is the struggle of memory against
forgetting.":
Cuộc chiến đấu của con người chống lại quyền lực là cuộc
chiến đấu của hồi ức chống lại sự lãng quên.
Note: Câu này, mới được talawas đưa lên đầu trang, với cái nền là xứ
Mít:
Cuộc đấu tranh của con người chống lại quyền lực là cuộc đấu tranh của
ký ức
chống lại sự lãng quên.
Milan Kundera trong "The Book of Laughter and Forgetting"
Hồi ức, hay ký ức, thì cũng “mắm sốt”, "même chose", theo Gấu. Nhưng
"đấu
tranh",
với "chiến đấu", không.
Đấu tranh, dùng trong "đấu tranh giai cấp" thí dụ, đúng, nhưng ở trong
câu này,
không.
Cuộc chiến đấu mà Kun nói tới ở đây, nó bắt nguồn cùng với con người,
và lịch
sử của nó.
Cuộc chiến đấu của con người chống lại quyền lực, không phải để
tranh giành
quyền lực, mà để vẫn là người.
* TQ said...
Theo tôi hiểu, ngoài việc bắt
bẻ cách hỏi của tôi và ý tứ của NL, thì tác giả Tin Văn có lẽ mong đợi
người ta
nên hỏi những câu theo gu của ông ấy.
Tôi không nghĩ là đến nỗi
phải làm sách hướng dẫn tập đọc Kun hay theo ngành Kun-học mới có quyền
hỏi
nhau Kun hay dở ra sao, so sánh Kun với ai là quyền tự nhiên vô cùng...
September 8, 2009 11:02 AM
Blog NL
*
Phúc đáp:
Không phải như vậy. Câu hỏi của
bạn nó “huề vốn”, theo nghĩa, chẳng nói lên được điều gì cả.
Tôi chép lại ở đây. Kundera là nhà văn có ý
thức sâu sắc về lối
viết và được hâm mộ từ lâu trên thế giới. Là người đã dịch một số tác
phẩm của
Milan Kundera, đến cuốn mới in ở VN là Những mối tình nực cười, anh đánh giá thế nào về
ảnh hưởng của Kundera với đời sống viết lách
VN?
*
Câu hỏi của bạn có thể áp dụng cho Garcia
Marquez, Linda Lê, cho bất cứ một tác giả nào nổi tiếng, nói thẳng ra,
nếu đã được
dịch tại Việt Nam.
Thường ra, khi phỏng vấn một nhà văn, hay một
dịch giả, ở đây, người phỏng vấn đọc rất kỹ, hoặc qua loa thì cũng
được, tác phẩm,
dịch phẩm, để có một cái nhìn khái quát, và tìm ra những điều cần hỏi.
Thí dụ, giả như tôi phải phỏng vấn NL, về những
dịch phẩm Kundera, tôi sẽ chuẩn bị sẵn một số dữ kiện trước khi hỏi:
Kundera, nhà văn Đông Âu. Lưu vong. Viết văn
bằng tiếng Pháp.
Đã từng được Aragon
giới thiệu cuốn Chuyện diễu
tới độc giả Pháp…
Rất rành âm nhạc.... Câu
hỏi của bạn khiến tôi
nhớ trường hợp của
tôi, khi về nước, và được một ký giả của tờ Đại Đoàn Kết phỏng vấn. Anh
ta biết
cuốn Những ngày ở Sài Gòn,
tập truyện ngắn đầu tay, và độc nhất, của tôi, xb trước
1975, tại Sài Gòn, gồm 10 truyện, một điều chính tôi cũng không hề để ý
tới, từ
lúc in cho tới lúc được hỏi. Nhũng câu hỏi của anh, và
bài viết sau đó,
chứng tỏ, anh rất rành về tác phẩm đầu tay của tôi.
*
Vấn đề ở đây, hoặc là người phỏng vấn rất rành những câu hỏi 'nhậy
cảm', nghĩa là, rất rành Kundera, nhưng lại cố tình đặt câu hỏi 'huề
vốn', 'vô hại', như trên.
Hoặc là anh ta chẳng biết một tí gì về Kundera.
Ở trong trường hợp thứ nhất, liệu có sự 'dàn xếp' giữa hai người, hỏi,
và đáp. Theo kiểu, này đừng có đẩy nhau vào cửa tử đấy nhé?
Ở trong trường hợp thứ nhì, thì để tính lại, sau khi đọc kỹ những câu
hỏi tiếp theo. NQT
Chúng
ta thử đọc, một tay ký
giả Tây Phương phỏng vấn Kundera.
Tiểu thuyết gia không phải
là
thằng hầu của sử gia” [«Le romancier n'est pas un
valet des historiens»] Milan Kundera
Từ 1985, Milan Kundera từ
chối phỏng vấn. Tuy nhiên ông đã nhận trả lời một số câu hỏi tờ L’Express gửi
tới ông, nhân xuất bản cuốn L'Ignorance
[tạm dịch: Sự Ngu Dốt], viết
bằng tiếng
Tây. -Đấy
là cuốn tiểu thuyết thứ ba của ông viết
bằng tiếng Pháp. Xin ông cho biết mối liên hệ giữa ông và tiếng Tây nó
ra làm
sao? Ông có còn thèm thuồng,hoài nhớ
tiếng Tiệp như nhân vật Josef của ông lảm nhảm nói với người bạn của
anh bằng
thứ tiếng mẹ đẻ đó? -Hoài nhớ? Không đâu. Bởi
vì,
khác với Josef, tôi luôn luôn lảm nhảm tiếng Tiệp với bà xã của tôi.
Nhưng, từ
hai mươi tám năm, thế giới quanh tôi là Tây, nó nói tiếng Tây với tôi,
và tôi
nói với nó cũng bằng tiếng Tây. Mọi ngày như một ngày, tôi có thể nhận
ra sự
khác biệt sâu thẳm giữa tiếng mẹ đẻ và tiếng học được đó [la langue
apprise].
Khi tôi nói tiếng Tiệp, câu kệ cứ thế tuôn ra khỏi miệng, không thể cầm
giữ,
như thể chúng được cài đặt tự động ở trong bộ não của tôi ngay từ lúc
còn nằm
trong nôi. Với tiếng Tây, ngược hẳn lại, chẳng có gì là tự động đối với
tôi.
Với nó, tất cả là ý thức. Là suy nghĩ, đắn đo. Kiểm tra, kiềm giữ.
Nhưng cũng
là mới mẻ. Thâu nhận.Chiến thắng. Là lạ
lẫm, ngỡ ngàng, tuyệt tuyệt. Từ chỉ một từ, chỉ một hình dạng. Cái liên
hệ ý
thức tới cực điểm [archiconscient] với ngôn ngữ như vậy đó, làm tôi mê
mẩn. Nó không
đi ngược với văn phong của tôi, vốn từ lâu, được viết dưới những đòi
hỏi
củasự sáng sủa, giản dị, thấu triệt, và
chân xác. -Đọc tiểu thuyết của ông,
người ta có cảm tưởng, lưu vong vượt lên trên cái gọi là nội dung chính
trị. Nó
là một thứ sao quả tạ giáng xuống bất cứ một ai, và chẳng chừa ai, và
như thế,
nó là một sự kiện cơ bản của hiện hữu. Như thể con người, hoài hoài như
thế đó,
là một kẻ lưu vong ở trong tim trong hồn của nó? Một thứ bệnh kín, thì
cứ nói
như vậy? Ông nghĩ sao? -Di dân là hậu quả của những
xung đột chính trị khủng khiếp. Nhưng, bạn nói đúng, di dân chỉ là mặt
nổi;
cùng lúc đó, về mặt chìm, theo ấn bản nội tại, nó là “sao quả tạ đối
với tất cả
mọi con người”. Tiểu thuyết gia không phải là thằng hầu của những sử
gia. Anh
ta không thể kể về, hay bàn về Lịch sử, nhưng khám phá ra những khía
cạnh chưa
biết tới của hiện hữu con người. Những biến động lớn lao của lịch sử
đối với
anh ta giống như cái đèn giọi bất thình lình làm sáng tỏ những khía
cạnh ẩn
giấu và vạch trần chúng ra. Nói cho cùng, hoài nhớ là gì, nếu người ta
bỏ vào
trong ngoặc tất cả những bản kẽm tình cảm liên can tới vấn đề này? Liệu
có
chăng, bên cạnh hoài nhớ xứ ruồng bỏ [le pays abandonné], là hoài nhớ
lưu vong
đã mất [l’exil perdu]? Bên cạnh hoài nhớ của Penélope, [là] hoài nhớ
của
Calypso? Và sự trở về, Sự Trở Về Lớn Lao? Liệu còn chăng, ở thế giới
này, một
khi Lịch sử tiến nhanh quá, và cứ thế từng ngày phải "nắn lại"
[remodeler] những quang cảnh mới ngày nào còn là của chúng ta? Đâu đâu
tôi cũng
nghe những khẩu hiệu về “bổn phận của hồi nhớ”, “việc làm của hồi nhớ”,
nhưng
hai nhân vật trong cuốn tiểu thuyết của tôi trở về cố hương sau hai
mươi năm,
họ sững sờ nhận ra sự “hiển nhiên của tất cả mọi hiển nhiên: thực tại
ngày nào
là thực tại, nhưng hiện tại thì không còn nó nữa, và không thể nào tái
tạo”.
Quên [lãng] xoá quá [khứ]; [chính] hồi nhớ làm cho nó thay đổi, biến
dạng.
Chúng ta tất cả đều chìm đắm trong sự ngu si dốt nát đần độn và phải
coi, đây
không phải là một khiếm khuyết về trí thức, về tinh thần, mà là một sự
kiện cơ
bản của phận người. -Ông
có thể nói về bố cục của cuốn tiểu
thuyết. Nhịp điệu của nó có vẻ như hối hả trong khi độc giả cứ phải
nhẩn nha
với cái việc đọc: họ bắt buộc phải đọc chậm, là do sức căng đến chóng
mặt của
câu chuyện được kể? -Bạn
vừa mới công thức hoá cái lý tưởng của
tôi về chuyện bài binh bố trận một cuốn tiểu thuyết. Tôi thường xuyên
xuýt xoa,
rằng thì là, ba cuốn tiểu thuyết sau chót của tôi, viết bằng tiếng Tây,
chúng
được gợi hứng từ thể fuga [fugue:
composition musicale écrite du style
ducontrepoint: cấu trúc âm
nhạc viết theo kiểu đối điểm]. Đúng như thế, fuga là
một bài học lớn về sự hoàn hảo về hình thức, có giá trị cho tất cả
những nghệ
thuật. Nguyên tắc đa âm của nó đòi hỏi, rằng mỗi chi tiết, một khi được
phơi
bày ra, biến thành một mô-típ và sẽ tái xuất hiện trong nhiều lập lại
[repetitions], thay đổi [variations], dẫn dụ [allusions] dọc theo cấu
trúc, dàn
dựng. Trong Sự Ngu Dốt, là
những mô típ về hoài nhớ, quên lãng, Ulysse,
Arnold
Schönberg, tấm gương (Irena, Milada, bà mẹ, Gustaf, tất cả đều mê mẩn
bởi tấm
gương), một cái áo T-shirt thô kệch với bộ mặt của Kafka, bên trong căn
nhà tại
Danemark (Josef không ngừng bị nó ám ảnh), âm nhạc biến thành tiếng
động. Những
mô típ này đọng lại ở trong hồi ức của độc giả, ngay từ lần xuất hiện
đầu tiên
của chúng, ở trong cuốn tiểu thuyết, cho tới lúc chót. Chính vì lý do
đó mà
phần hai của cấu trúc lẽ đương nhiên phải đẹp hơn phần đầu, giầu có
hơn, “ác
liệt hơn” [intense], như bạn nói đó, bởi vì càng tiến sâu vô những căn
phòng
của cuốn tiểu thuyết, càng có thêm những tiếng vang [échos] của những
câu kệ
trước đó đã được phô bày ra, những đề tài đã được trình bầy, chúng cứ
thế nhân
lên thêm mãi, kết hợp với nhau thành những cộng hưởng [résonner,
résonnances],
cứ thế vang vọng từ ba bề bốn bên. Đó là cái mà người ta gọi là “strette”, theo
thuật ngữ của giới âm nhạc: phần chót của một fuga, tính đặc thù
của nó là
do cách viết được nén chặt lại một cách thật là đặc biệt.
The struggle of
memory against forgetting Milan Kundera denies a claim he betrayed a spy
in Communist
Czechoslovakia, but lying now would be the greater betrayal
As Kundera wrote in perhaps his most frequently quoted statement, "The
struggle of man against power is the struggle of memory against
forgetting." If the claim were true but he denied it, he might justly
be
blamed less for what he did then, than for what he has failed to
disclose now.
Như một câu phán thật hiển hách của ông, thường xuyên được trích dẫn,
“cuộc
chiến đấu của con người chống lại quyền lực là cuộc chiến đấu của hồi
ức, chống
lại sự lãng quên”, giả như ông không làm chuyện bẩn đó [tố bạn làm cho
Xịa với
VC Tiệp], mà thực sự có làm, thì cái tội ngày xưa, xem ra lại quá nhẹ,
so với
tội bây giờ [nói dối].
Tất cả những hồi ký, “tôi là thằng hèn”, “tôi đi tìm cái tôi của tôi”,
“dòng
thơ chót trong bài Quê hương [Quê hương nếu ai không có, là đếch làm
sao lớn
thành người] đếch phải của tớ" đều là “chiến đấu của hồi ức chống
lại lãng
quên”, theo một nghiã nào đó, nếu chúng ta gạt bỏ cái chuyện đạo đức
qua một
bên. Những phút cuối cùng của
Thiếu tướng Phạm
Xuân Ẩn
SGGP.
Cập nhật ngày 20/09/2006 lúc 23:38'(GMT+7)
Bà ngồi đọc cho ông nghe những bức thư của bạn bè khắp nơi trên thế
giới gửi về
thăm ông khi nghe tin ông ốm nặng. Hôm nay bà đọc đến bức thư của người
bạn Mỹ,
mà thuở ông còn học ở trường báo chí ở quận Cam - California, ông đã ở
trong
nhà và họ coi ông là người trong gia đình. Bà đọc bằng một thứ tiếng
Anh nghe
cứng cáp của người đứng tuổi dù xưa kia bà rất giỏi tiếng Anh và có khi
ông còn
giải thích cho bà những từ khó mà bà không hiểu. Bây giờ dù đã già
nhưng
phát âm rất chuẩn, mỗi từ tiếng Anh phát ra chắc chắn. Bà đọc tới đâu
nước mắt
chảy quanh tới đó. Thỉnh thoảng bà dừng lại và ghé sát tai ông hỏi nhỏ:
Anh có
nghe được không? Ông khẽ gật đầu, nước từ trong khóe mắt đục nhờ của
ông lại
chảy ra. Tất cả y tá, bác sĩ, hộ lý đều đứng nhìn. Thỉnh thoảng có
người
lén lau nước mắt. Họ nói với nhau hãy yên lặng để bà đọc cho ông
nghe...
Lúc ông nhắm mắt lại, những dây nhợ chằng chịt trên người ông nối với
nhiều máy
móc phát ra âm thanh nghe rột rột.
Bà vội đứng dậy đi ra ngoài, nhường chỗ cho các bác sĩ.
Công việc của họ là thông phổi để ông dễ thở hơn một chút, nhưng rồi
ông lại
chuyển vào giai đoạn lúc tỉnh lúc mê, ông gọi bà thều thào mê sảng:
“Em ơi
chúng đang tra tấn anh, chúng bỏ đá vào miệng anh, mệnh chung của anh
sắp đến
rồi, em và các con đừng xa anh nhé...”.
Bà nắm chặt tay ông. Các bác sĩ yêu cầu bà đi ra ngoài. Các con của bà
đứng
nhìn ông qua ô cửa kính. Họ đều khóc và cố gắng như muốn chia sẻ đau
đớn thể
xác cùng ông.
Bà quay sang nói với tôi - vẫn đứng đây từ nãy giờ bất động: Ông ấy khổ suốt cả một giai đoạn dài căng thẳng. Bây giờ
đã đau thể xác thế
này mà tâm hồn cũng không được thanh thản.
Bao nhiêu dồn nén chỗ góc khuất đã trải qua trong nguy nan căng thẳng
nay trong
vô thức trào ra. Bà bật khóc, tôi nắm chặt tay bà.
*
Chúng ta tự hỏi: tại sao VC cho đăng những dòng trên?
Liệu, đây cũng là cuộc ‘chiến đấu của hồi ức chống lại lãng quên’?
*
Quê hương mỗi
người chỉ một Như là chỉ
một mẹ thôi Quê hương
nếu ai không nhớ...
Sau này thì bài thơ trở
thành ngoại giao, trở thành mang một chút sứ mệnh chính trị, thì xin
thưa với
quý vị là điều đó nằm ngoài ý muốn của tác giả, bởi vì một bài thơ được
viết và
khi để nó ra, nó sống hay nó chết, cái đó không nằm trong tầm tay của
người
sáng tác. Thật sự tôi
cũng rất ngạc nhiên là bài thơ này có một số phận rất là đặc biệt,
nó được nhiều người biết đến, nó được loan đi rất là xa, nó có thể gây
yêu mến
nhưng đồng thời nó cũng có thể gây ngộ nhận. Tất cả những cái đó thì đó
là số
phận riêng. Tốt nhất là thôi cứ để nó có số phận của nó. DTQ
Gấu bỗng nhớ trường hợp Paul
Celan. Quê hương của ông, mẹ của ông, kẻ thù giết
mẹ ông, tất cả là một. Thơ của ông, làm bằng ngôn ngữ mẹ đẻ của ông,
cũng là
ngôn ngữ của kẻ thù.
Trường hợp bài Quê Hương, bị lợi dụng, thì có hơi giống trường hợp Kim
Phúc, cô
gái bị ăn bom napan. Kim Phúc đã phản ứng ra sao, cả thế giới đều biết.
Nên nhớ, chỉ đến khi nhà nước đổi cách gọi, phản quốc thành Việt Kiều
yêu nước,
khúc ruột ngàn dặm, thì bài thơ mới bắt đầu vào vai. Và thi sĩ lúc đó
mới thực
sự nổi tiếng, làm sao mà nói nằm ngoài ý muốn của tác giả được?
Nếu đúng vào thời điểm đó, thi sĩ lên tiếng, câu chót đếch phải của tớ,
thì mới
bảnh, đằng này lập lờ, để đến lúc hết cả răng rồi, mới phều phào, thì
chán quá!
Về cái chuyện "nằm ngoài ý muốn", áp dụng vào bài thơ "Tẩu Khúc
của Thần Chết", của Celan mới ghê!
Bởi thế Auden mới phán, thi sĩ đâu có trách nhiệm khi thơ của mình bị
người đời
đem ra làm trò phù thuỷ.
Và mẹ có đau khổ không, mẹ ơi,
như mẹ đã từng đau khổ, ôi chao, một lần ở quê nhà,
Sự dịu dàng, tiếng nói Đức, điệu ru đau buồn đó.
Bạch Dương lá trắng trong đêm
Tóc mẹ tôi chẳng bao giờ bạc...
Vòng sao, cây cuộn vòng vàng
Trái tim mẹ tôi bị cắt bằng dây chì.
Cửa sồi kia, ai ép mi kẽo kẹt
Mẹ dịu hiền của tôi chẳng thể trở về.
Gấy này sợ rằng, bà
mẹ Việt cũng khốn khổ chẳng thua gì bà mẹ [Đức] của Paul Celan.
Có thể vì lý do này là Đỗ thi sĩ đành phải lên tiếng, "câu thơ đó không
phải của tao", chăng?
*
"Đôi khi thiên tài này trở nên âm u, và chìm vào cái giếng chua cay là
trái tim của mình."
Trong những năm tháng muộn màng cuối đời, Celan rất cô đơn, và suy sụp.
Khi
được trao tặng giải thưởng Bremen Prize cho thơ của ông vào năm 1958,
ông tỏ ra
thực tình biết ơn, nhưng bài cảm tạ của ông cho thính giả thấy Denken
và
Danken- suy nghĩ và cám ơn, vốn từ cùng một nguồn - hai tiếng này nhắc
nhở
chúng ta tới "những kẻ khác" cũng nói cùng "ngôn ngữ của chúng
ta", một mỉa mai cay đắng của một người Do thái thời kỳ hậu-chiến tại
Đức.
*
Mít chúng ta cũng có 'những kẻ khác': Những tên Yankee mũi tẹt! Phúc
phương phì Câu
cuối không hề có!
Ui chao, trễ quá
rùi
Một độc giả
Tin Văn, chắc là nữ
độc giả,
sau khi đọc bài viết về nỗi thiếu quê hương, không thể lớn thành người,
đã viết
mail, trách nhẹ Gấu, không thể so sánh Đỗ thi sĩ với Kim Phúc được, vì
một lý
do rất giản dị, không một người phụ nữ nào muốn cái chuyện, thân thể
của mình
bị mang ra làm trò, bất cứ trò gì, đừng nói trò tuyên truyền khốn nạn.
For Your
Eyes Only, không nhớ sao, Chú/Bác Gấu?
Bà/Cô nhắc tuồng Gấu: Phải so sánh với
trường hợp Grass, và cái chân lý về thế kỷ bửn, thế kỷ Lò Thiêu, Lò Cải
Tạo:
Không ai muốn từ giã nó mà trên người không có tí… cứt!
*
Những hình ảnh
trong bài Quê Hương của DTQ, là về một Miền Nam,
nhiều hơn. Với Gấu, một tên
Bắc Kít 54, thì cái hình ảnh ghê gớm nhất, đâm thấu tim Gấu, của Miền
Bắc, là
con đê, là luỹ tre làng. Của một làng quê ven Sông Hồng. Làng Thanh
Trì, huyện
Thanh Lạng, phủ Quốc Oai, tỉnh Sơn Tây của Gấu.
Lần về lại, mất hết. Chỉ mang đi được, cái lô cốt trên đê, ngay kế bên
những
dòng chữ này!
Cái luỹ tre làng của Gấu, Gấu quá nhớ nó, ấy là vì, qua nó, còn là hình
ảnh Cô
Hồng Con, mối tình đầu tưởng tượng của Gấu.
Làng Thanh Trì, từ con đê đi xuống, có hai lối vô. Một ở đầu, một ở
cuối làng,
tính theo chiều Bắc xuống Nam.
Lối phía Bắc, trên đê có một cái điếm canh. Khi về Gấu vẫn còn thấy nó,
và dòng
chữ "Sửa xe đạp" ở trên bức tường gạch nham nhở gạch, không biết có
từ hồi nào, và bên trong điếm canh, chẳng có gì.
Theo lối đi này, xuống làng, sẽ thấy hai bên bờ đường, là những cái ao
nho nhỏ,
điểm những khóm tre, ruộng lúa nho nhỏ, những căn nhà, bờ ruộng là lối
đi dẫn
đi suốt làng, đi mãi, thì ra phía sau làng, tới cánh đồng.
Lối xuống thứ nhì, ở cuối làng mới thật là tuyệt vời, và cứ ở mãi trong
trí
tưởng của Gấu, từ lúc rời làng, tản cư, về lại, xuống làng Vân Xa sống
nhờ ông
ngoại, đi học, đậu tiểu học, về tỉnh Sơn lêu bêu mất một năm, rồi được
về Hà
Nội, học… cho đến khi trở về vào năm 2001, thì hết nhớ!
Midway said...
Chính
ra hồi xửa hồi xưa nhưng cũng chưa xưa lắm bác TV viết cũng cân nhắc
phết nhé,
như talawas bộ cũ chẳng hạn.
Thế rồi bỗng dưng bác ý thoái lui ở ẩn, một mình tung hoành một cõi. Blog
NL [Phần còm]
Quả có thế. Đọc
Gấu như vậy, là hiểu Gấu, tuy cái phần sau, […Thế nhưng cung cách múa may từa
tựa một thứ "The Almighty" (1) của bác thì mình lại thấy rưng rưng, nhớ
tới ông Hù Bá Jan], thú thực Gấu này chịu thua, không hiểu người
viết tính nói
gì, chắc là "nhất bên trọng, nhất bên khinh", khen nó một phát, thì
phạng cho nó
một phát?
Cũng được thôi. (1)
Almighty is an Abrahamic
term for God.
See Omnipotent [Wikipedia]
Nếu là nghĩa này, thì không đúng.
Steiner đã từng coi mấy tay chửi ông ta là "tản mạn", múa may quay
cuồng trong quá nhiều lãnh vực: Phỉnh nịnh ông.
Bởi vì, cả đời ông chỉ băn khoăn có mỗi một điều, có hay không, một
đấng Thượng
Đế, God.
Có thể nói, trang Tin Văn cũng có cùng một nỗi băn khoăn như vậy, nhưng
ngược
lại: Có hay không, một Con Quỉ Bắc Kít?
Khi viết cho
talawas, cho báo giấy Việt của băng đảng Hậu Vệ, Gấu vẫn còn chút hy
vọng vào cái
đám hải ngoại, nhất là đám Bắc Kít. Chỉ đến khi vỡ mộng thì mới ôm đầu
máu chạy
về, nói ‘thoái lui ở ẩn’, là không đúng, bởi vì, chỉ tới lúc đó, Gấu
lấy thanh
kiếm “qui ẩn” ngày nào, nghĩa là, dùng lại cái nick cũ, được nhà thơ
‘anh thay mực
cho vừa mầu áo tím' ban cho, [tên 'sa đích văn nghệ'], và, không tha
thằng nào nữa! Bỏi
vì
Gấu nghĩ,
chỉ còn một cách duy nhất, là, lập lại
điều mà NHT đã từng làm! Đọc những gì bác TV
cao ngạo phê phán
dân Mít với dân Yankee mũi tẹt mình thấy không phải đều vô vị cả… Tks. NQT
Thái Linh
said... Bác Tin Văn này hồi trước
cũng có 1 bài phỉ báng Kapuściński, mình đọc đến câu ổng nhận xét
Kapuściński
"viết về châu Phi như thế thì thật là khốn nạn" thì chán quá, ko buồn
nói nữa.
Sự kiện, Gấu đụng tới những ông
trùm văn
học một thời, ở những nước cựu CS, và bị "chán quá không buồn nói nữa"
này, nó có nguyên nhân của nó. Nhưng, những người như Thái Linh, như
Nhị Linh
không biết tới những nhà văn, nhà thơ như Milosz, Ba Lan, mà còn được
Nobel nữa
cơ đấy, thì quá nguy hiểm!
Đọc trong nước, có vẻ như có rất nhiều mảng văn học thế giới bị vờ đi.
Văn học
Nga, thiếu hẳn tảng “dưới hầm” của nó. Gấu mà đụng tới một ông Gorki là
cũng
‘chán quá không buồn nói nữa’!
Còn Solz, ư? NL đâu đọc được ông này, như đã từng
phán, mấy cái truyện ngắn thì còn đỡ đỡ, chứ truyện dài…?
Ông Kap này, cũng không phải đồ dở, nhưng làm sao so được với Milosz,
hay với
Kolakowski?
Thứ nhất, nếu coi ông như là một nhà giả tưởng thì được, nhưng về mặt
này, ông ta còn thua cả Le Carré!
Nếu coi ông ta là sử gia thì còn “khốn nạn” hơn
nữa!
Kap, về mặt sử gia, chọn thầy là Herodotus, ông này được coi là "cha
già của sự
dối trá", báo chí Tây Phương bèn gọi Kap, “bà mẹ của sự dối trá”!
V/v nhận xét của Gấu về ông Kap, như trên, đó là ‘cảm tưởng’, "phản
ứng", đúng hơn,
của Gấu. khi đọc những dòng viết về ông Kap, khi ông ta viết về Phi
Châu, của
giới báo chí Tây phương.
(1) "The kind of history known in Europe
as scholarly and objective", Kapuscinski writes, "can never arise
here because the African past has no documents or records, and each
generation,
listening to the version being transmitted to it, changed it and
continues to
change it .... " "As a result", he continues, "history,
free of the weight of archives, of the constraints of dates and data,
achieves
here its purest, crystalline form - that of myth."
“Thứ lịch sử được biết tới ở Ấu Châu, mang tính trường lớp và khách
quan”, Kạp
viết, “chẳng bao giờ có thể mọc lên ở đây, bởi vì quá khứ của Phi Châu
chẳng có
hồ sơ, tài liệu, ghi nhận, và từng thế hệ, nghe ấn bản được truyền lại
cho nó,
bèn thay đổi, và cứ thế tiếp tục thay đổi.. ”. “Và như một hậu
quả”, ông
tiếp tục, ‘lịch sử, thoát ra khỏi gánh nặng của thư khố, cưỡng ép của
ngày
tháng, của sự kiện, bèn tiến tới cõi thăng hoa tuyệt vời của nó: Cõi
Thiên Thai.
Cõi Huyền
Thoại”
Viết như thế về Phi Châu, thì còn khốn nạn nào bằng!
Có thể nói, những
hiểu biết
của Gấu, nếu có được chút nào, là nhờ đọc những ông đã từng có kinh
nghiệm
cay đắng với chủ nghĩa CS, hoặc với Lò Thiêu của Nazi.
Mà
về mặt này, những NL và độc giả, bạn hữu… của
anh, có thể nói là không rành lắm, ngoại trừ về Kun.
Nhưng rành hay không rành, thì cũng không thể nào hiểu được, rành tới
đâu, và như thế nào.
Có thể cách đọc Kun của trong nước khác của Gấu này, chăng?
Chính vì thế
mà phải
mở ra cuộc chơi nho nhỏ này, nhân bài trả lời phỏng vấn của NL.
Hai cú đột phá quan trọng nhất,
hai cánh cửa mở ra thế giới, của văn học Mít, là cú giới thiệu Kundera,
và cú giới thiệu Lò Thiêu. Và đây là công lao của Nhị Linh và Nguyên
Ngọc.
Theo "thiển ý" của Gấu, về NL, không phải tự nhiên mà anh, cùng lúc,
dịch Les Bienveillantes, của
Littell, và những tác phẩm của Kundera.
[Thành
thử, đọc lời phán của
nhà đại phê bình NHQ, để "xoa đầu" NL, Gấu, tức cười quá đỗi, và sau
đó, "lại đâm bực": Đọc
Nhị
Linh, người ta thấy một người say mê đọc sách, có trí nhớ tốt, thích tò
mò nhiều chuyện liên quan đến thế giới chữ nghĩa."!]
Michel Foucault, trong một cuộc
trả lời phỏng vấn, khi được hỏi, tại
sao không dính vô (engage) mấy vụ bút chiến (polemics), ông trả lời:
Tôi thích
bàn luận (discussion), và khi được hỏi, tôi cố gắng trả lời. Nhưng đúng
là tôi
không khoái dính tới mấy vụ bút chiến. Nếu tôi mở một cuốn sách mà thấy
tác giả
của nó buộc tội địch thủ, một kẻ tả phái ấu trĩ, tôi đóng liền nó lại.
Đó không
phải là cách làm việc của tôi. Tôi không thuộc về thế giới những người
làm việc
kiểu đó. Đây là điều thiết yếu đối với tôi. Toàn thể vấn đề đạo đức
được đặt
ra. Đạo đức liên can đến việc truy tìm sự thực, và liên hệ với tha
nhân. Những
câu hỏi và trả lời tùy thuộc cuộc chơi - vừa thích thú vừa khó khăn -
trong đó
mỗi bên chỉ được dùng quyền của mình do đối phương ban cho, dưới hình
thức đã
được chấp nhận của cuộc đối thoại. Người bút chiến, ngược lại, tự cho
mình quyền
ưu tiên. Anh ta chẳng bao giờ bằng lòng hỏi. Đối phương không phải là
bạn,
partner, trong cuộc truy tìm sự thực, mà là một kẻ thù, một kẻ sai, gây
hại, một
mối đe dọa. Và anh ta có bổn phận phải tiêu diệt, không cho phép đối
phương được
quyền thảo luận. Mục đích tối hậu của anh ta không là tiếp cận sự thực
khó
khăn, được chừng nào tốt chừng đó, mà là chiến thắng sau cùng, của công
lý
(just cause) anh ta đeo đuổi từ đầu. Kẻ bút chiến tự cho mình cái quyền
hợp
tình hợp pháp, điều mà đối phương của anh bị từ chối ngay từ đầu cuộc
chơi.
Theo M. Foucault, bút chiến là hình nhiễu (parasite figure) của bàn
luận. Bút Chiến
Bài viết này, (1), bây giờ đọc
lại,
Gấu mới nhớ ra là một bài Tạp Ghi
viết cho tờ Văn Học, về một Số Tết của tờ báo, và về một bài viết của
NHQ,
về ca dao, nói về chuyện Vân Tiên núp lùm, chờ trăng lặn để sờ Nguyệt
Nga.
Bài viết có vẻ như tiên đoán trận đụng độ sau đó, vào năm 2002, và
bây giờ.
Đúng là tránh không khỏi số!
(1) Server cho biết, bài này đang "top", như vậy là độc giả Tin Văn
cũng bị dính vô cái chuyện làm xàm này rồi! Đúng như một tay độc giả
của Blog NL phán:
Tớ cũng hay đọc TV
của chiến sĩ Trụ. Nói chung vui là chính, vì chửi nhau đấm đá nhau là
mình thú.
Trụ đọc nhiều, chửi cũng hay, cũng ác. Nhưng với tư cách nhà văn thì
các tác
phẩm của Trụ đều phò, đọc chả có mẹ gì hay ho.
Lời phán của
Bạn, ngược hẳn lại của một ông "bạn cũ" của Gấu, vẫn còn ở Sài Gòn.
Nhà thơ Vương Tân, còn viết dưới cái tên Hồ Nam.
Bài
viết, có nhiều sai sót về
sự kiện.
Nhưng chuyện này
"dài" lắm. Để bữa nào rảnh, hầu tiếp. NQT
Milozs ở đây là
ai nhỉ? Ông được giải Nobel hay ông anh em bà con Oskar?
Blog NL
Milosz hay được nhắc tới trên Tin Văn, là ông được Nobel văn chương,
Czeslaw
Milosz, tác giả cuốn Cầm Tưởng, The Captive Mind, nổi tiếng, nhưng bản
thân
ông, thì lại quá chán cuốn này, như có lần than thở, khi viết nó, giống
như ở
trong thế đụng chân tường, ‘cùng tắc thông’, viết cho xong, để còn làm
việc
khác. Ông rất bực, vì đa số chỉ biết ông, qua cuốn đó, như trong bài
viết về
Koestler, thằng cha tưởng mình bảnh, chỉ biết tôi qua tác phẩm Cầm
Tưởng! (1)
V/v Oskar Milosz, trên Tin Văn có bài viết về ông, của Kundera, trong
cuốn hiện
đang lèm bèm, “Une rencontre”.
Czeslaw cũng có một bài về Oskar thi sĩ, On Oscar Milosz, cũng
tới lắm,
in trong To Begin Where I Am, Selected Essays [“Bắt đầu nơi
tôi là”,
tuyển tập tiểu luận]. Tin Văn sẽ post bài này, trong những kỳ tới.
(1)
Với ông, tôi chỉ là tác giả của một cuốn sách, đó là cuốn Cái Đầu Bị
Cùm, hay
Cầm Tưởng, The Captive Mind, mà ông đã đọc và nghĩ là "được". Tuy
nhiên, với riêng tôi, thành thực mà nói, tôi bảnh hơn thế, hoặc khiêm
nhường
hơn, tôi khác thế, không hẳn chỉ có thế: Tôi là tác giả của những bài
thơ mà
ông ta chẳng biết một tí gì về chúng. Koestler
Tớ cũng hay đọc TV
của chiến sĩ Trụ. Nói chung vui là chính, vì chửi nhau đấm đá nhau là
mình thú.
Trụ đọc nhiều, chửi cũng hay, cũng ác. Nhưng với tư cách nhà văn thì
các tác
phẩm của Trụ đều phò, đọc chả có mẹ gì hay ho.
Lời
phán của
Bạn, ngược hẳn lại của một ông "bạn cũ" của Gấu, vẫn còn ở Sài Gòn.
Nhà thơ Vương Tân, còn viết dưới cái tên Hồ Nam.
*
Còn đây là tài liệu về ông Káp, dành riêng cho Thái Linh: Famed Polish
writer
outed as 'spy' in
anti-communist purge
Bùi Chát là người
thi sĩ nhất trong số các thi sĩ của Mở Miệng (nói điều này tôi thấy
không cần
phải kèm theo lời xin lỗi các thành viên khác). Bài thơ một vần
(One-rhyme
Poems, bản tiếng Anh của Lê Đình Nhất-Lang) là tác phẩm riêng thứ
sáu của
Bùi Chát kể từ năm 2003. Tác phẩm lần này vẫn do Giấy Vụn Publishing
House ấn
hành, một quyển sách đủ đẹp để làm ghen tị toàn bộ hệ thống xuất bản
Việt Nam
từ trong
nước đến ngoài nước, từ chính thống đến ngoài luồng. Dường như Bùi Chát
và Giấy
Vụn làm được một điều cực kỳ khó trong in sách: chỉ in những gì thật
đẹp. Hớt
váng chứ không hớt bùn, chỉ hớt váng chứ không tranh thủ hớt tí bùn kèm
theo.
Blog NL
Note: Liệu cú này, là để phản
ứng, phản bác, phản biện "cái gọi là"
văn chương vô hại?
NQT Ngay cả cái sự chào
mừng "thái quá" Nobel
2009, Người được giải
Nobel Văn chương 2009 trên báo chí Việt Nam, là cũng nằm trong cùng một dòng, chăng?
Để nhắc nhở, Tin Văn là nơi đầu
tiên nhắc đến những DTH và NHT. (1)
(1)
Đọc những bài điểm tác phẩm của
Muller, một Mít ta sẽ cảm thấy, DTH được Nobel năm nay. Như Kadare được
Booker mà nghĩ là NHT được!
Có vẻ như, để phản [biện] bác
thứ văn học
vô hại ở trong nước, thì có hai cách:
1. Làm thơ trí tuệ, là thứ “của hiếm” ở
trong xã hội không có thơ đó.
2. Làm thơ rác, thứ ê hề, cũng ở trong xã hội
không có thơ. Đó.
Cách thứ nhất, thì phải ra ngoài này, thì mới có cơ may để
làm, mà cũng không có dễ đâu.
[Nói thêm, thơ rác vẫn là thơ. Do chưa đọc, nên chưa có ý kiến gì về
nhà
thơ Bùi Chát và tác phẩm mới này. Qua một số bài trích trên talawas, và
trên blog Nhị Linh, thì, thú thực, có một cái gì thiếu ở trong đó. Có
thể cái thiếu, chính là... thơ?]
*
Nguyễn Huy Thiệp lọt vô chung
kết Man Booker!
TLS
số
đề ngày 1 Tháng Bẩy, 2005,
mục Sổ Tay, bàn về giải Man Booker Quốc Tế, khác với Booker Prize, dành
cho nhà
văn Hồng Mao, cho biết một "tin động trời", đối với đám viết lách
người Mít: Có tên Nguyễn Huy Thiệp trong danh sách những tác giả thượng
hảo
hạng, fisrt rate, được ban giám khảo lọc ra để lấy người đoạt giải.
TLS trích lời một ông giám
khảo [Alberto Manguel], trên tờ Spectatortháng
vừa qua [Tháng Sáu], "trong danh sách những
tác giả thượng
hạng... chúng tôi đã phải gạt bỏ Peter Handke, Antonio Lobo Antunes....
Nguyen
Huy Thiep, Pascal Quignard, và Christa Wolf, tất cả những người này
đều, hoặc
chưa được dịch sang tiếng Anh, hoặc đã dịch nhưng nay tuyệt bản".
Về tác giả Kadare, người đoạt
giải, [Tin Văn đã loan tin] ban giám khảo dựa trên những bản dịch tiếng
Anh,
được dịch từ tiếng Pháp, dịch từ nguyên bản tiếng Albania, và điều này
làm cho
giải thưởng hơi mất giá, [hơi rẻ tiền], theo người bình luận trên tờ
TLS.
Rẻ tiền, là 60 ngàn Anh Kim!
Nhưng, với tên Nguyễn Huy
Thiệp trong danh sách, quả đúng như Kadare nhận xét, “Danh sách chót
không
thôi, tự nó đã làm nên một gia đình văn học lạ thường rồi.”
Và, Nguyễn Huy Thiệp kể như
đã nhận được giải thưởng, bởi vì Kadare có thể coi như một Nguyễn Huy
Thiệp của Albania.
Tin Văn tính giới thiệu bài
viết về ông, trên Guardian, khi ông được giải, nhưng nay có bài viết
trên TLS
sẽ cống hiến các bạn dưới đây. Tin Văn Cũ
Cái
sự hồ hởi với Nobel 2009, "của người", cho thấy, có thể đây là
đòn "cách
sơn
đả ngưu" của Mít ta, chăng? Viện
Hàn Lâm Thuỵ Điển không cho DTH Nobel, và nếu cho, cũng chẳng dám
bốc
thơm, thì đành "xoa... đầu" bà Muller, vậy!
We look
back to David Lodge's
review of The Unbearable Lightness of
Being. To see the review in full, go to
www.the-tls.co.uk
Graham
Greene, when described
as a Catholic novelist, is apt to say that he is rather a novelist who
happens
to be a Catholic. Milan Kundera, who was expelled from the Czech
Communist
Party in 1950, reinstated in 1956, expelled again in 1970 and finally
forced
into exile, has been insisting for many years that he is not a
"dissident
novelist" but a novelist who happens to be a Czech at a time of
peculiarly
tragic and poignant political experience for his country. Though he
writes,
inevitably, about that experience, he is offended by a political
reading of his
work. In an interview with Kundera published in the latest issue of
Granta Ian
McEwan asked him why.
Because it is a bad reading.
Everything you think is important in the book you've written is
ignored. Such a
reading sees only one aspect: the denunciation of a communist regime.
That
doesn't mean I like communist regimes; I detest them. But I detest them
as a
citizen: as a writer I don't say what I say in order to denounce a
regime.
Kundera repudiates the
sentimental Western attitude which sometimes takes the form of a
perverse envy,
that persecution automatically confers a special value and authenticity
on
writing from Eastern Europe. There is
a
character in his latest novel who has a Czech emigré mistress called
Sabina, a
painter:
Franz greatly admired
Sabina's country. Whenever she told him about herself and her friends
from
home, Franz heard the words 'prison', 'persecution' 'enemy', 'tanks',
'emigration', 'pamphlets', 'banned books', 'banned exhibitions', and he
felt a
curious mixture of envy and nostalgia .... the trouble was that Sabina
had no
love for that drama. The words ... were ugly without the slightest
trace of
romance. The only word that evoked in her a sweet nostalgic memory of
her
homeland was the word 'cemetery'.
Sabina
finds a biography of
herself in an exhibition catalogue that reads like the life of a saint
or
martyr:
She protested but they did
not understand her.
Do you mean that modern art
isn't persecuted under Communism?
'My enemy is kitsch, not
Communism!' she replied, infuriated.
From that time on she began
to insert mystifications in her biography and by the time she got to America she even managed to disguise
the fact
that she was Czech.
Milan Kundera has never,
of
course, tried to disguise his Czech nationality, but he has inserted
mystifications into his later fiction in order to elude reductively
ideological
interpretation. His marvelous first novel The Joke (1967), written in Czechoslovakia,
for Czechoslovakians, did not need that protection. A novel constructed
on
classic modernist lines, it uses temporal rearrangement of the
narrative line
and shifting limited viewpoints to retard but not ultimately to
frustrate our
understanding of its complex plot. The Joke cunningly interweaves
sexual with
political intrigue, betrayal and disillusionment, and maintains a
miraculous balance
between comedy and pathos, irony and compassion. Not surprisingly it
became a
cult book of the Prague Spring of 1968, and probably only Czech readers
can
fully appreciate its subtleties. Certainly Kundera felt that its huge
international success, partly sustained by the wave of sympathy for Czechoslovakia
under Russian occupation, vulgarized its message.
His first response seems to
have been to eliminate overt reference to politics in subsequent
fiction .... The
Unbearable Lightness of Being
is rather more conventional in form than its
predecessor. Fantastic events in the magic realist mode are naturalized
as
dreams ....
TLS Nov 6 2009
Graham Greene, bị chụp cho cái
nón, 'tiểu
thuyết gia Ky Tô', đã gật gù trả lời, tớ là một tiểu thuyết
gia, 'không
may' còn là một tín hữu Ky Tô!
Milan Kundera bị tống ra khỏi Đảng VC Czech năm
1950, tái xét và cho nhập lại 1956, lại tống ra vào năm 1970 và sau
cùng bị ép
phải lưu vong, cũng lèm bèm trong rất nhiều năm, ông không phải là ‘nhà
văn ky
khai’, nhưng mà là một tiểu thuyết gia, không may, cùng lúc, còn là một
tên
Czech, và cùng với tên Czech là
ông đó, là
cái kinh nghiệm thê lương, cay đắng nhức nhối, về chính trị, về lưu
vong, của đất
nước của ông, qua ông!
[Ui chao, đọc một cái
là Gấu gật gù, tớ cũng thế! Tớ còn
bảnh hơn ông nhiều, lưu vong, bỏ chạy quê hương, cũng vài lần, vượt
biển nhiều
lần, và thảm hơn ông, còn bị cả một gánh nặng là Cái Ác Bắc Kít đổ lên
đầu!]
Ông viết, tất nhiên, về kinh
nghiệm đó, và rất bực khi bị đọc bằng một cách đọc chính trị. Và ông
trả lời
Ian McEvans, trong một số báo Granta, khi bị hỏi tại sao.
Bởi vì đó là một cách đọc tồi tệ. Tất cả những gì
bạn nghĩ quan trọng ở trong cuốn sách bị bỏ qua. Một cách đọc như thế
chỉ nhìn
thấy một khía cạnh: Tố cáo chế độ Cộng Sản. Nói thế không có nghĩa là
tôi thích
những chế độ Cộng Sản; tôi tởm chúng. Nhưng tôi tởm chúng như là một
công dân:
như là một nhà văn, tôi không nói điều tôi nói để tố cáo một chế độ.
*
Đây là sự khác biệt giữa Kundera, với Solz, thí dụ. Hay với Brodsky.
Hay với Nguyễn Du.
Brodsky, viết, Mĩ mới là Mẹ của Đạo Hạnh, bởi vì ông tin rằng, nhân dân
càng trọng Mĩ tới đâu, thì càng sàng lọc cái Xấu, Cái Tà Ma Ác Quỉ ra
tới đó.
Sở dĩ người đọc, đọc, cách đọc chính trị, tác phẩm của Kundera, ấy là
vì,
về mặt "kỹ thuật", ông chưa vươn tới cái Đẹp, tương xứng với tác phẩm!
Ông chưa làm cho người đọc quên cách đọc chính trị, và chỉ đọc ông,
theo cách đọc văn chương!
Đám mê văn chương, theo nghĩa tệ nhất của nó, [nghĩa là chỉ mê cái
đẹp], đã không đọc được Solz, một cách nào đó, cũng là một cách đọc tồi
tệ, theo Gấu.
Đám Bắc Kít chê thơ Nguyễn Chí Thiện, chê văn DTH, là cũng theo nghĩa
này.
*
Ở đây, chúng ta đụng tới một
vấn đề sinh tử của văn chương, Kafka đã từng đụng, và ông ngộ ra, khi
phán:
Kỹ thuật mới là linh hồn [hữu thể, chữ của ông], của văn chương.
Theo nghĩa đó,
Barthes phán, ‘viết thế nào’, comment écrire, mới quan trọng, và nhờ
'viết
thế nào', thì ra được, 'tại sao thế giới', pourquoi le monde.
Với Gấu, cách viết
hách nhất,
là, viết như không viết!
Còn Barthes? Ông đề nghị viết
ở cái mức không độ của nó.
.. In 1953 in Le Degre zero, however,
Barthes was thinking not of Alain
Robbe-Grillet but of Albert Camus,
whose attempt at neutral, non-affective writing, Barthes called 'zero
degree
writing'. Sartre had seen Camus's écriture blanche as a refusal of
commitment,
but for Barthes, Camus's writing, like other examples of self-conscious
literature since Flaubert, is historically engaged at another level: it
struggles against 'literature' and its presumptions of meaning and
order. Barthes: A Very Short
Introduction … Vào năm 1953, trong
Không độ của cách viết, Barthes không
nghĩ tới đám tiểu thuyết mới, mà là Camus, với cách viết ‘người dưng’
[dửng dưng,
không dấn thân, không nhập cuộc, ‘em chả, em chả’], và Barthes gọi đây
là ‘cách
viết ở không độ’. Sartre nhìn cách ‘viết trắng’, của Camus như là từ
chối xuống
thuyền, nhập cuộc. Nhưng Barthes coi đây là một dấn thân ở một mức độ
khác…
Trở lại
với Kundera, chúng ta
nhận ra một điều, sở dĩ người đọc đọc ông như tác phẩm chính trị, ấy là
vì tác
phẩm của ông chưa vươn tới mức ’viết mà như không viết’, chất chính trị
mạnh quá,
lấn lướt chất văn học. Đây là một ‘lỗi lầm’ về kỹ thuật, đúng như Kafka
nói.
Có một
ông bạn nhà văn, thuộc
loại đàn em, rất mê TTT, và coi TTT như là đỉnh cao chói lọi của văn
chương Miền Nam.
Mới đây, trong cuộc trò chuyện, anh cho biết, bây giờ anh bắt đầu thấy
ra, truyện của TTT đã bị vượt, theo nghĩa, anh vẫn đọc, nhưng thấy
không hay bằng
của… Gấu, cũng được viết ra vào thời kỳ đó!
Anh cho rằng, có một cái gì đó,
trong truyện của Gấu vượt ra được tính chính trị của thời đại, và nhờ
vậy, sống
sót!
Thú nhất là, anh phán, 'cote' [rating] của BHD và em Mai [Mai, để anh kể cho Mai nghe, về một thành
phố mà anh vừa biết yêu nó, thì phải rời bỏ...], ngày càng lên!
Tks. NQT
Nhưng,
phải Kafka mới là kẻ tử
đạo, văn, và cùng lúc, đời, khi phán, trong cuộc đấu sinh tử, tay đôi,
giữa
anh và thế giới, hãy ở bên… thế giới! In the duel between you and the world,
back the world. (1)
Kafka Thần sầu!
(1) Câu trả lời của Kafka
Đang đợi bạn Nhị Linh bình luận giải Nobel Văn học. Nghe đài địch diễn tả thì có điểm chung với Dương Thu Hương?