gau
Nguyễn Quốc Trụ
phụ trách



Quan Hệ Mỹ Việt?

Trên Talawas có bài viết của nhà làm phim Đặng Nhật Minh, trích đoạn sau đây:

.. Bộ phim Bao giờ cho đến tháng Mười bắt đầu một cuộc hành trình rất dài qua màn ảnh của rất nhiều quốc gia trên thế giới, mang lại không ít thiện cảm cho đất nước Việt Nam, nền điện ảnh Việt Nam. Sau này tôi được nghe kể tại buổi chiếu đầu tiên của bộ phim tại Honolulu (Hawaii) vào tháng 11/1985 như sau: Các thuyền nhân Việt Nam ở Honolulu nghe có một bộ phim của Cộng sản Hà Nội được chiếu kéo đến đầy xung quanh rạp với những biểu ngữ phản đối. Trước giờ chiếu 15 phút cảnh sát nhận được một cú điện thoại báo tin trong rạp bị cài mìn. Lập tức khán giả được mời ra khỏi rạp. Sau một giờ rà soát, cảnh sát xác định tin kia là thất thiệt mới cho khán giả vào lại. Nhiều thuyền nhân cũng vào xem cốt để gây rối trong khi chiếu. Nhưng buổi chiếu đã kết thúc tốt đẹp trong tiếng vỗ tay và những giọt nước mắt đọng trên mi mắt của nhiều người trong đó có cả những thuyền nhân Việt Nam. Họ xúc động xem từ đầu đến cuối quên cả dự định phá rối. Ðó là những ngày căng thẳng nhất trong quan hệ Mỹ - Việt...

Bài viết của ĐNM về những ngày làm phim của ông thật tuyệt, nhưng như câu văn trên, mà người viết bài này nhấn mạnh, cho thấy, liệu có đúng đó là những ngày căng thẳng nhất trong quan hệ Mỹ Việt, hay căng thẳng nhất, giữa những người Việt, “ở” ngoài nước, về phim Việt, “của” trong nước?

Tôi nghĩ là ĐNM đã cố tình viết khác đi, về một quan hệ, giữa người Việt với người Việt, thành một quan hệ Việt Mỹ.
Ông không là người độc nhất, khi phải “nhập nhằng”, về một “chính danh” như thế.
Trường hợp sau đây, theo tôi, cũng là nhập nhằng: Khi một đại học Mỹ mời một số nhà văn trong nước viết về đề tài văn học hải ngoại, đúng ra là về nguyên nhân cuộc bỏ nước ra đi, bởi vì, do có vụ bỏ nước ra đi, mới có cái gọi là văn học VNHN. Tôi nghĩ là đại học Mỹ đã quyết định đúng, khi chỉ mời những nhà văn ở trong nước tham dự đề tài trên, những nhà văn hải ngoại, nhất là những nhà văn của miền nam trước đây chẳng có lý do nào để đòi hỏi, phải có tiếng nói của họ ở trong đó. Bởi vì hai thằng “ăn cướp” nó vào nhà mình, rồi sau đó, nó “tranh công”, “buộc tội” lẫn nhau, tao mới là thằng gây nên cái gọi là văn học lưu vong của người Việt hải ngoại, hà cớ gì “khổ chủ” lại cần phải có mặt?

Một độc giả Tin Văn &
Talawas

Nguyên văn bài viết của Đặng Nhật Minh trên Talawas:
 

Ðặng Nhật Minh
Một thời phim ảnh... (Hồi ký, trích)

Phòng đạo diễn xưởng phim truyện Việt Nam
Xưởng phim truyện hồi đó được phân thành các phòng, trong đó có phòng Đạo diễn. Ðạo diễn phim truyện chỉ có vài chục người, không đông hàng trăm như bây giờ và không phải bất cứ ai cũng có thể làm đạo diễn như bây giờ. Sinh hoạt tại phòng Đạo diễn có ba lớp người; những đạo diễn kỳ cựu có mặt từ ngày đầu thành lập Xưởng như các đạo diễn Phạm Văn Khoa, Phạm Kỳ Nam, Nguyễn Tiến Lợi... ; các đạo diễn được đào tạo tại trường Ðiện ảnh khóa I dưới sự hướng dẫn của chuyên gia Liên Xô như: Trần Vũ, Hải Ninh, Bạch Diệp, Huy Thành, Nông ích Ðạt, Nguyễn Ðức Hinh... và lớp đạo diễn học Liên Xô về, trong đó có những người học hết 5 năm như Nguyễn Khắc Lợi, Lê Ðăng Thực và những người học dở dang thì bị gọi về vì Liên Xô bắt đầu thời kỳ xét lại như Trần Ðắc, Bùi Ðình Hạc, Nguyễn Thụ, Nguyễn Ðỗ Ngọc. Ồn ào hơn cả là cánh học ở Liên Xô về mà anh em vẫn gọi là cánh Vờ-Gích (tên viết tắt trường Ðại học điện ảnh Liên Xô). Có một điều cần ghi nhận, hồi đó tất cả các anh đều say sưa với mộng sáng tác, chưa ai nghĩ đến chuyện tiến thân bằng con đường quan chức như sau này. Những buổi sinh hoạt ở phòng Đạo diễn thật sôi nổi. Các đạo diễn học ở Liên Xô về thường hay đem những tên tuổi "ốp, ép" ra để tranh luận học thuật. Tôi thường nghe họ nhắc đến các tên tuổi sau: Iukevich, Prep, Bonarsuc, Mikhai Rôm, đặc biệt là tên nhà biên kịch Gabrilovich... cứ như tất cả đều là bạn thân của họ cả. Ngay khi về phòng đạo diễn tôi gặp ngay sự phản ứng mạnh mẽ của cánh Vờ-Gích, những người tự coi là được đào tạo chính quy nhất lúc bấy giờ. Trong một cuộc họp có người đã lớn tiếng cho rằng, không thể vì chính sách ưu tiên con em liệt sĩ mà đưa một người không có học hành, không bằng cấp về làm đạo diễn được. Như thế là xúc phạm tới nghề đạo diễn cao quý...

Thời kỳ này các đạo diễn Vờ-Gích bắt đầu lần lượt ra quân. Lê Ðăng Thực với Ðộ dốc, Bùi Ðình Hạc với Chùm hoa thiên lý, Ðường về quê mẹ; Trần Ðắc với Ga, Bài ca ra trận; Nguyễn Khắc Lợi với Lá cờ chuẩn, Bức tường không xây; Nguyễn Thụ với Bức tranh để lại; Nguyễn Ðỗ Ngọc với Không phải tại tôi... Các đạo diễn được đào tạo trong nước thì ra sức chứng minh mình cũng không thua kém gì cánh học nước ngoài về. Hải Ninh làm Rừng o Thắm, Vĩ tuyến 17 ngày và đêm; Trần Vũ làm Chuyến xe bão táp, Vợ chồng anh Lực; Huy Thành làm Vùng trời, Phía Bắc thành phố; Bạch Diệp làm Ngày lễ thánh v.v... Các phim khi tổng kết hằng năm đều được lãnh đạo đánh giá để xếp hạng. Mỗi lần tổng kết như vậy cả Xưởng đều tụ tập đông đủ tại hội trường hồi hộp lắng nghe ý kiến của Thứ trưởng Hà Xuân Trường. Phim nào được ông nhắc đến đầu tiên coi như phim đầu bảng, cứ thế mà biết thứ tự của các phim được trên đánh giá như thế nào. Ngày ấy làm phim không phải vì mình, vì người xem mà vì cấp trên. Ðại diện cho cấp trên ngày đó là Thứ trưởng Bộ Văn hóa Hà Xuân Trường. Ông này bao giờ cũng đánh giá cao các phim của đạo diễn Hải Ninh và biên kịch Hoàng Tích Chỉ. Họ trở nên cặp bài trùng, át chủ bài của xưởng. Cũng vì sự đánh giá đó mà tự nhiên trong đội ngũ đạo diễn biên kịch của Xưởng hình thành 3 nhóm: Nhóm Hải Ninh - Hoàng Tích Chỉ, nhóm Trần Ðắc - Trần Kim Thành và nhóm Trần Vũ - Bành Bảo. Mỗi nhóm có những đệ tử đông đảo vây quanh. Riêng các đạo diễn lão thành như Phạm Văn Khoa, Phạm Kỳ Nam đứng ra một bên không tham gia phe nhóm nào. Còn tôi đương nhiên đứng ngoài cuộc. Tôi vào nhóm của những người ngồi chiếu cuối trong phòng đạo diễn cùng các anh Phan Vũ, Bắc Xuyên, Trúc Lâm. Phan Vũ vốn là một tác giả sân khấu có tên tuổi, về Xưởng làm biên kịch, nhưng rồi dính vào nhóm Nhân văn nên bị đẩy xuống làm phó đạo diễn. Trúc Lâm cũng vậy, từng là đạo diễn lồng tiếng một số phim Liên Xô rất hay, nhưng có thơ đăng trong Giai phẩm (tạp chí của nhóm Nhân văn) nên chỉ được giao làm đạo diễn các phim sân khấu cùng với Bắc Xuyên. Cả xưởng ai cũng ngại gần Phan Vũ vì sợ tổ chức để ý, trừ tôi và một vài người như Tự Huy, Trung Tín. Phan Vũ hay làm thơ và đọc thơ cho tôi nghe. Cứ mỗi lần họp phòng Đạo diễn xong anh lại rủ tôi về nhà anh, trên đường không quên ghé qua thăm diễn viên Trung Tín để xem tranh. Không biết ai xui khiến Tín đóng cửa suốt ngày vẽ tranh. Tín xin bột màu của xưởng đem về vẽ lên giấy báo. Tín vẽ như điên, quên ăn quên ngủ. Từ ngày say mê với hội họa, không còn ai nhận ra diễn viên Trung Tín ngày nào, một đảng viên trẻ năng nổ, một Bí thư Ðoàn thanh niên của cơ quan. Tranh của Tín ngây ngô, hồn nhiên như con trẻ nhưng chất chứa một nỗi đau nào đó. Bức nào của anh cũng có những mặt người với hai hốc mắt sâu hoắm. Tín thường đem tranh ra khoe với tôi và Phan Vũ, và lần nào cũng nói: "Phái vừa xem xong, thích lắm" (Phái là họa sĩ Bùi Xuân Phái). Rồi Tín mơ màng mong có ngày đem tranh bày ở Paris. Tôi và Vũ cùng phụ họa tâng bốc Tín lên tận mây xanh (ngờ đâu bây giờ tranh Tín được trưng bày ở Paris thật). Năm 75 sau khi thống nhất Tín trở về Nam. Không lâu sau anh đánh một bức điện ra Hà Nội xin thôi cơ quan và ra khỏi Ðảng. Cả cơ quan sửng sốt cho rằng Tín vào Nam đã bị ăn đạn bọc đường. Riêng tôi thì không lấy gì làm ngạc nhiên vì tôi biết Tín đã lấy hội họa làm lý tưởng của đời mình. Con người ta không thể tôn thờ cùng một lúc nhiều lý tưởng. Phan Vũ viết văn, làm thơ rất hay. Trong mắt tôi kịch bản do Vũ viết hay hơn nhiều kịch bản được xưởng thông qua hồi ấy, song tất nhiên chúng không bao giờ được duyệt. Vợ anh là nữ diễn viên đầu tiên của điện ảnh Việt Nam - chị Phi Nga. Anh yêu vợ và yêu các phụ nữ đẹp. Những người phụ nữ ấy đã mang lại chất lãng mạn trong thơ anh. Bài thơ Em ơi Hà Nội phố viết xong, anh đọc cho tôi nghe đầu tiên trên căn gác nhà anh ở phố Hàng Bún. Tôi còn thân với đạo diễn Bắc Xuyên vì nhà anh ở phố Trần Xuân Soạn cách nhà tôi ở Hàn Thuyên không xa. Bắc Xuyên không phải là đảng viên nên chỉ chuyên được phân làm đạo diễn các phim sân khấu. Lần đầu tiên anh được phân làm phim truyện dài là phim Ðến hẹn lại lên theo kịch bản của Vương Ðăng Hoàn. Nhưng sau khi phân công xong, Ðảng ủy, ban Giám đốc xưởng thấy chưa yên tâm, bèn cử đạo diễn Trần Vũ và biên kịch Bành Bảo đi theo để kèm cặp giúp đỡ. Trong quá trình kèm cặp giúp đỡ đó Bắc Xuyên dần dần cảm thấy mình bị đẩy xuống hàng thứ yếu. Lòng tự trọng bị tổn thương và trong phút phẫn chí không tự kiềm chế được, anh đã bị một chiếc xe tải cán chết khi vừa ra khỏi cổng Xưởng phim (không ít người nghĩ rằng đây là một cuộc tự sát). Riêng trường hợp đạo diễn Nông Ích Ðạt uống thuốc ngủ thì rõ ràng là một vụ tự sát không thành. Lý do cũng chỉ vì lòng tự trọng bị tổn thương như trường hợp Bắc Xuyên (lần này là với phim Hai người mẹ). Sau những sự việc bi thảm trên, tôi bắt đầu cảm nhận cái khốc liệt của chốn bon chen này. Nhưng dù sao, tôi đã dấn thân vào rồi...


Bao giờ cho đến tháng Mười

Tôi bắt tay viết kịch bản Bao giờ cho đến tháng Mười xuất phát từ nỗi đau của gia đình tôi, từ nỗi đau của hàng vạn, hàng triệu người có người thân ngã xuống trong chiến tranh. Ðó là những điều đã có sẵn trong tôi, không phải tìm kiếm đâu xa cả. Chỉ cần tìm hình thức thể hiện nữa thôi.

Kịch bản Bao giờ cho đến tháng Mười được Cục Ðiện ảnh thông qua một cách nhanh chóng không gặp trắc trở gì, chỉ yêu cầu không được để thầy giáo Khang yêu cô Duyên (hồi ấy ông Nguyễn Thụ làm Cục trưởng). Nhưng đối với tôi, không có mối quan hệ đó thì còn gì là phim. Chấp hành ý kiến của Cục tôi chỉ làm nhẹ mối quan hệ đó chứ không bỏ hẳn. Giám đốc Hãng phim lúc này là ông Hải Ninh. Ông đã cử cho tôi một chủ nhiệm phim yếu nhất Hãng, chưa làm chủ nhiệm chính một phim bao giờ. Ông phân cho tôi một máy quay phim Côn-vát cũ của Liên Xô chất lượng kém nhất Hãng, đến nỗi trong lúc quay phá hỏng không biết bao nhiêu thước phim, buộc tôi phải quay đi quay lại nhiều lần. Không chịu được nữa tôi bèn tự đi mượn một máy quay của Viện Sốt rét Ký sinh trùng và Côn trùng (nơi cha tôi trước kia làm Viện trưởng) để quay nốt nửa phim còn lại. Ðây là chiếc máy quay Côn-vát do Liên Xô viện trợ cho Viện để quay các phim giáo khoa về phòng chống sốt rét. May thay nó còn rất mới vì ít được dùng. Trong lúc đang quay giữa chừng, nhà quay phim Nguyễn Lân (vốn là giảng viên quay phim của trường Ðiện ảnh được Hãng mời sang quay cho phim này) bỗng nhiên thông báo sẽ đi Campuchia để giảng dạy trong 1 tháng (những ngày ấy được đi Campuchia là một dịp may rất có hời, ít ai từ chối). Không thể dừng cả đoàn chờ đợi được, tôi quyết định sẽ làm việc với phó quay phim Phạm Tiến Ðạt. Ông Lân biết vậy tuyên bố với giám đốc Hải Ninh rằng sau khi đi Campuchia về sẽ không quay lại đoàn làm phim nữa. Giám đốc Hải Ninh tức tốc vào đoàn phim yêu cầu ngừng quay, không chấp nhận phó quay phim Phạm Tiến Ðạt làm quay chính. Nhưng khi vào tới nơi, thấy tôi vẫn bình tĩnh làm việc với Ðạt, công việc vẫn tiến hành đều đặn, ông trở về và vài hôm sau cử nhà quay phim Nguyễn Ðăng Bảy xuống đoàn để phụ giúp. Vậy là trong phim này thực chất có 3 quay phim với 3 phong cách khác nhau khiến tôi phải vất vả rất nhiều để giữ sự thống nhất trong các cảnh quay. Tôi đã mời nữ diễn viên Lê Vân vào vai chính của phim, để rồi từ đó tên tuổi của cô gắn liền với hình ảnh chị Duyên, người vợ liệt sĩ, tiêu biểu cho hàng vạn hàng triệu phụ nữ Việt Nam trong chiến tranh. Trước đó Lê Vân đã xuất hiện trong một vài phim nhưng để lại ấn tượng nhất cho khán giả đến nay vẫn là vai Duyên trong phim Bao giờ cho đến tháng Mười. Khi bộ phim hoàn thành Giám đốc Hải Ninh yêu cầu cắt bỏ trường đoạn "chợ Âm Dương" với lý do mê tín dị đoan. Ðây là một trong những trường đoạn tâm đắc nhất của tôi trong phim này, nó đến với tôi không phải tình cờ. Từ lâu tôi có đọc trong kho tàng truyện cổ Việt Nam có một truyện làm tôi hết sức chú ý. Ðó là câu chuyện về đôi vợ chồng trẻ, không may người chồng bị chết một cách oan ức. Anh báo mộng dặn chị chờ đến phiên chợ Mạch Ma thì đến để anh gặp. Tại phiên chợ đó hai người đã gặp được nhau. Người chồng đã nói rõ sự oan ức của mình để vợ kêu lên cửa quan. Truyện còn ghi rõ chợ Mạch Ma ấy nằm ở Quảng Yên. Một lần trên đường đi Hạ Long, khi qua bến phà Rừng, xe dừng lại ở Quảng Yên và tôi bàng hoàn nhận ra mình đang ngồi uống nước trong chính cái chợ Mạch Ma đó. Sau này lên Hà Bắc tình cờ tôi cầm trên tay cuốn Ðịa dư chí Hà Bắc. Trong sách đó, ở mục chợ Hà Bắc có ghi rõ những thôn nào, xã nào, ngày giờ nào, có những phiên chợ Âm Dương. Qua hai sự việc trên tôi nhận ra rằng trong tâm thức của người Việt Nam không có sự cách biệt giữa cõi Âm và cõi Dương, giữa người sống và người chết đúng như cụ Nguyễn Du viết: Thác là thể xác, còn là tinh anh. Ðó là một đặc điểm tâm lý rất Việt Nam. Nhưng Giám đốc Hải Ninh không quan tâm tới điều đó. Ông chỉ sợ cấp trên phê bình là phim mang màu sắc duy tâm huyền bí, tuyên truyền cho mê tín dị đoan.

Trước áp lực của ông tôi đành nhân nhượng cắt ngắn bớt trường đoạn này, điều làm tôi đau xót vô cùng. Nhưng Giám đốc Hải Ninh vẫn chưa yên tâm, bắt tôi phải bỏ hẳn. Ông thường có một lập luận thoạt nghe rất có lý: bộ phim làm ra không phải của cá nhân một ai, nó là tài sản chung, là cơm áo gạo tiền của cả Hãng. Nếu phim có gì trục trặc, trên không cho ra thì hàng trăm cán bộ công nhân viên Hãng chết chứ không chỉ mình đạo diễn. Bởi vậy người giám đốc mới là người có trách nhiệm chính đối với bộ phim. Tôi không thể chấp nhận lập luận kiểu đó nên cương quyết không chịu cắt bỏ thêm một cảnh nào nữa trong trường đoạn chợ Âm Dương. Không còn cách nào dồn ép tôi được, Giám đốc Hải Ninh bèn mời các cấp trên xuống xem trước cho an toàn. Có lẽ chưa có phim nào của điện ảnh Việt Nam lại phải duyệt đi duyệt lại nhiều tầng nhiều nấc như bộ phim này. Cứ mỗi nấc duyệt lại nảy sinh thêm những rắc rối mới. Mặc dầu Thứ trưởng Bộ Văn hóa Ðình Quang ủng hộ nhưng Thứ trưởng Vũ Khắc Liên lại băn khoăn không biết lúc này đã nên nói đến chuyện đau thương mất mát trong chiến tranh chưa? Ông cho biết ở Liên Xô 15 năm sau chiến tranh người ta mới làm phim Khi đàn sếu bay. Ở ta chiến tranh vừa mới chấm dứt không lâu, ở biên giới Tây Nam vẫn còn chiến sự, cần động viên thanh niên ra trận bảo vệ Tổ quốc. Nên xin ý kiến thêm các anh ở trên. Cứ như vậy lần lượt các Thứ trưởng đến Bộ trưởng trong Bộ, rồi tới ủy viên Bộ Chính trị Tố Hữu, Trưởng ban Tổ chức Trung ương Ðảng Nguyễn Ðức Tâm và rồi cuối cùng là tới Tổng Bí thư Ðảng Trường Chinh duyệt. Tổng cộng tất cả là 13 lần. Trước khi được gọi đem phim tới chiếu tại nhà Tổng Bí thư Trường Chinh, tôi nói với các đồng sự có lẽ đây là phiên xử cuối cùng. Ðồng chí Trường Chinh ăn cơm tối xong cùng cả nhà ra phòng khách để xem phim. Một chiếc máy quay lưu động đã được đặt sẵn giữa phòng. Ðèn tắt. Phim bắt đầu chiếu trong tiếng máy chạy rè rè. Tôi ngồi một góc phòng bên cạnh nữ diễn viên Lê Vân hồi hộp quan sát thái độ của đồng chí Tổng Bí thư. Tôi thấy đồng chí im lặng xem, theo dõi diễn biến trên phim không biểu lộ thái độ gì. Khi đèn bật sáng, đồng chí chậm rãi tiến về phía nữ diễn viên Lê Vân bắt tay và chỉ nói mỗi một câu: Thương lắm rồi đi vào. Ðồng chí thư ký của Tổng Bí thư bảo chúng tôi ra về, ông sẽ truyền đạt ý kiến của Tổng Bí thư xuống cho lãnh đạo Hãng sau. Cả đoàn ra về phấp phỏng, không biết hai chữ thương lắm có phải là lời phán quyết cuối cùng chưa? Chúng tôi kéo nhau đi ăn phở. Tôi nói đùa với Lê Vân: " Biết đâu ông nói thương là thương cháu chứ không phải thương cô Duyên thì sao? " Những nhà chính trị nói ít nhưng ta phải hiểu nhiều. Tôi nhớ lần đem phim này vào chiếu cho ông Tố Hữu duyệt. Xem xong ông chỉ nói một câu: "Gãi đúng chỗ ngứa thế này thì thiên hạ thích đây". Mãi về sau tôi mới hiểu chỗ ngứa mà ông nói nghĩa là gì. Ðó là nỗi đau, sự mất mát trong chiến tranh trong mỗi gia đình người Việt Nam. Tôi đã chạm vào nỗi niềm đó, và chỗ đó theo ông là chỗ ngứa. Tôi bỗng nhớ đến những câu thơ mà ông đã từng viết thuở còn trong bóng tối trong bài Tiếng hát sông Hương: Ngày mai thôi kiếp lầm than... Sẽ đưa em đến một vườn đầy xuân v.v... ý nghĩ về bộ phim Cô gái trên sông của tôi bắt đầu hình thành từ đấy.

Sau lần đem phim vào chiếu cho Tổng Bí thư xem tôi không thấy Giám đốc Hải Ninh hành gì nữa. Vụ xử đã kết thúc. Bộ phim Bao giờ cho đến tháng Mười đã được tha bổng. Lập tức nó được khán giả trong cả nước đón nhận một cách hết sức nồng nhiệt. Không những thế còn nhận được mối thiện cảm rất lớn của khán giả nước ngoài. Có lẽ đây là một phim truyện đầu tiên của Việt Nam đến được với công chúng ngoài biên giới sau năm 75...

... Bộ phim Bao giờ cho đến tháng Mười bắt đầu một cuộc hành trình rất dài qua màn ảnh của rất nhiều quốc gia trên thế giới, mang lại không ít thiện cảm cho đất nước Việt Nam, nền điện ảnh Việt Nam. Sau này tôi được nghe kể tại buổi chiếu đầu tiên của bộ phim tại Honolulu (Hawaii) vào tháng 11/1985 như sau: Các thuyền nhân Việt Nam ở Honolulu nghe có một bộ phim của Cộng sản Hà Nội được chiếu kéo đến đầy xung quanh rạp với những biểu ngữ phản đối. Trước giờ chiếu 15 phút cảnh sát nhận được một cú điện thoại báo tin trong rạp bị cài mìn. Lập tức khán giả được mời ra khỏi rạp. Sau một giờ rà soát, cảnh sát xác định tin kia là thất thiệt mới cho khán giả vào lại. Nhiều thuyền nhân cũng vào xem cốt để gây rối trong khi chiếu. Nhưng buổi chiếu đã kết thúc tốt đẹp trong tiếng vỗ tay và những giọt nước mắt đọng trên mi mắt của nhiều người trong đó có cả những thuyền nhân Việt Nam. Họ xúc động xem từ đầu đến cuối quên cả dự định phá rối. Ðó là những ngày căng thẳng nhất trong quan hệ Mỹ - Việt...


Cô gái trên sông

Sau khi đi thực tập về điện ảnh một thời gian ngắn ở Bulgari về, tôi bắt đầu viết kịch bản Cô gái trên sông mà tôi đã có ý định từ trước như một món nợ tinh thần đối với xứ Huế, quê hương tôi. Cô gái trong kịch bản chính là cô gái trong bài thơ của nhà thơ Tố Hữu: Tiếng hát sông Hương. Cô gái đó tượng trưng cho nhân dân khổ đau hy vọng vào một ngày mai tươi sáng, hết lòng che chở cho cách mạng. Nhưng khi thành công rồi thì một số người đã quay lưng lại với họ. Phim bắt đầu bằng cảnh trong bệnh viên Huế. Liên, một phóng viên của một tờ Tạp chí, đến thăm Nguyệt, cô gái vừa được đưa vào bệnh viện cách đây mấy hôm vì định lao vào xe tô tải để tự tử. Thì ra hai người đã quen nhau khi Nguyệt còn đang trong trại cải tạo nhân phẩm và Liên là nhà báo đến để viết một phóng sự. Nguyệt đã kể lại cho Liên câu chuyện riêng của mình liên quan đến một người đàn ông, người mà trước đây khi Huế còn chưa giải phóng cô đã có lần cứu giúp, rồi đem lòng yêu người đó vì những lý tưởng cao đẹp mà anh theo đuổi. Ngày ấy Nguyệt là một cô gái sống bằng nghề bán thân nuôi miệng trên sông Hương, còn người đàn ông kia là một chiến sỹ hoạt động nội thành. Anh đã gieo vào lòng cô những hy vọng về một cuộc sống đầy hoa như trong bài thơ Tiếng hát sông Hương mà anh đã đọc cho cô nghe. Anh hứa sẽ quay lại tìm Nguyệt. Nhưng rồi anh đã không bao giờ quay trở lại. Sau ngày Huế giải phóng Nguyệt đã cất công đi tìm anh để rồi khi tìm được thì bị anh từ chối. Người chiến sĩ kia không nhận là đã quen cô vì anh bây giờ đã là một cán bộ cao cấp trong thành phố... Sau khi hỏi chuyện Nguyệt xong Liên viết một bài báo tố cáo, lên án sự bội bạc của người cán bộ hoạt động nội thành trước đây. Mặc dù có lệnh của trên không nên đăng bài báo đó, nhưng nhờ sự cương quyết của cả toà soạn cuối cùng nó vẫn được đăng. Ðến lúc đó Liên mới biết rằng người cản trở không cho đăng bài báo của cô chính là chồng mình và anh chính là người cán bộ cách mạng bội bạc mà cô đang lên án...

Đây là thời kỳ đất nước bắt đầu đổi mới. Kịch bản đươc thông qua dễ dàng, thuận lợi. Tôi đã mời nữ diễn viên Minh Châu vào vai Nguyệt, không chút do dự, mặc dù trước đó Minh Châu chỉ mới xuất hiện trong một vài phim không để laị ấn tượng gì đặc biệt. Tôi tin ở sự lựa chọn của mình và quả thực Minh Châu đã hoàn thành xất sắc vai diễn này. Trong thời gian đang làm phim ở Huế, tôi đọc báo biết tin ở Hà Nội, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh có cuộc gặp gỡ anh chị em văn nghệ sĩ kêu gọi không uốn cong ngòi bút, cởi trói và hãy tự cứu lấy mình trước khi Trời cứu. Tôi yên tâm tiếp tục làm phim lòng mừng khấp khởi nghĩ rằng từ đây người nghệ sĩ sẽ tạo mọi điều kiện thuận lợi hơn cho sáng tác. Người quay phim này là Phạm Việt Thanh, một quay phim trẻ, khoẻ mạnh và đây là phim truyện đầu tay của anh. Phim đã quay được gần một nửa mà tôi vẫn chưa quyết định nên mời ai làm nhạc. Tôi bỗng nghĩ đến nhạc sỹ Trịnh Công Sơn, một người rất nặng lòng với Huế, bèn gọi điện vào Thành phố Hồ Chí Minh. Chỉ cần nói tôi đang ở Huế, đang làm một phim về Huế, và có ý định mời Sơn làm nhạc cho phim, lập tức anh nhận lời ngay không chút do dự, mặc dầu chưa biết nội dung phim. Sau này khi phim đã dựng xong hình ảnh đem vào thành phố Hồ Chí Minh để lồng tiếng tôi mới chiếu cho Sơn xem để làm nhạc. Người lồng tiếng Huế cho vai Nguyệt trong phim chính là ca sỹ Thanh Lan. Cha cô là người Bắc, mẹ là người Huế, sinh sống ở Miền Nam, cô nói được giọng cả ba miền không hề pha trộn. Thanh Lan rất nhiệt tình lồng tiếng cho phim, mặc dầu trước đó cô chưa hề lồng tiếng cho bất cứ phim nào trừ những phim có vai diễn của mình. Sau khi hoàn thành xong phần lồng tiếng thì Sơn cũng vừa soạn xong phần âm nhạc. Hôm thu nhạc cho phim Sơn bị sốt cao nhưng vẫn cố đến phòng thu để theo rõi, sửa chữa những chỗ cần sửa, làm việc với dàn nhạc do Nhạc sỹ Phạm Trọng Cầu chỉ huy. Âm nhạc mềm mại và sâu lắng của Sơn đã hỗ trợ cho phim rất nhiều.

Trong không khí của những ngày đầu Ðổi mới phim Cô gái trên sông được Cục điện ảnh thông qua rất nhanh chóng, không gặp khó khăn trở ngại gì. Bộ phim lập tức được giới điện ảnh và công chúng đón nhận hết sức nồng nhiệt. Nhưng phim ra mắt khán giả chưa được bao lâu thì nghe tin một đồng chí lãnh đạo cao cấp của Ðảng đã lên án nó gay gắt hai lần. Một lần tại diễn đàn của Hội nghị Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và một lần tại kỳ họp của Quốc hội khoá 7. Nội dung phê phán xoay quanh việc trong phim người cán bộ cách mạng thì bội bạc, còn tên lính nguỵ, người yêu của cô gái trên sông thì lại thuỷ chung. Bộ phim bị coi là đã bôi nhọ hình ảnh người chiến sỹ cách mạng (tuy vậy cho đến nay cũng không có một văn bản chính thức nào ra lệnh cấm chiếu). Ban tổ chức Liên hoan phim diễn ra năm 87 tại Đà Nẵng đã lâm vào cái thế hết sức khó xử. Một bên là sự đón nhận nồng nhiệt chưa từng có của công chúng Đà Nẵng và một bên là ý kiến phê phán của lãnh đạo. Hơn thế nữa kết quả cho điểm bằng phiếu kín của các thành viên trong Ban Giám khảo cho thấy bộ phim Cô gái trên sông đạt số điểm cao nhất. số điểm cao nhất. Nghe tin bộ phim bị cấp trên phê phán một số người trong giới điện ảnh tung tin bộ phim đó bị cấm chiếu ở Huế làm Ban tổ chức lại càng hoang mang, có lúc đã định gạt hẳn phim ra khỏi danh sách giải thưởng. Cuối cùng người ta đã tìm ra được một giải pháp dung hoà: chỉ cho phim Cô gái trên sông giải Bạc (trong khi lẽ ra nó đủ điểm để được Giải Vàng). Về sau tôi được nghe một số người trong Ban tổ chức kể lại: khi công bố phim Cô gái trên sông chỉ được giải Bông sen Bạc đã gây nên một làn sóng bất bình rất lớn trong khán giả Đà Nẵng. Những ngày đó không khí tung tin, vận động, xúi giục trước khi bước vào Liên hoan phim đã là m tôi cảm thấy hết sức chán nản nên đã quyết định không tham dự Liên hoan phim Ðà nẵng. Cả đoàn làm phim cũng theo gương tôi cùng ở lại Hà Nội. Tôi cùng chủ nhiêm Vũ Văn Nha, nhà quay phim Phạm Việt Thanh và nữ diễn viên Minh Châu nhận lời mời của Công ty chiếu bóng Hà Bắc lên Bắc Giang tiếp xúc với bà con trên ấy. Trong lúc đó ở Đà Nẵng khán giả chờ đợi chúng tôi từng ngày. Có người tung tin rằng chúng tôi vào tới Huế, thấy phim bị cấm bèn lộn ra (sau này nhiều người khi về qua Huế thấy khắp thành phố căng đầy áp phích của phim mới biết mình bị lừa). Sự nhiệt tình của khán giả Đà Nẵng năm ấy làm các nhà điện ảnh nước ngoài được mời tham dự phải ngạc nhiên. Ông Đinh Triết Giám đốc Phát hành phim Trung ương cho biết số người xem Cô gái trên sông đông đến nỗi tiền bán vé thu được từ bộ phim này đủ để trang trải cho mọi chi phí của Liên hoan phim, thậm chí còn thừa. Ông đề nghị trích tiền doanh thu của phim ra để thưởng cho đoàn làm phim, nhưng không ai dám quyết. Sau Liên hoan phim Đoàn thanh niên Đà Nẵng đã mời nữ diễn viên Minh Châu vào gặp gỡ với khán giả trẻ thành phố và nhận chị là Đoàn viên danh dự của đoàn thanh niên Đà Nẵng. Minh Châu trở thành người nữ diễn viên được hâm mộ nhất lúc bấy giờ qua vai Nguyệt trong Cô gái trên sông. Dù sao bộ phim cũng đã nhận được giải Bông sen Bạc và Giải nữ diễn viên xuất sắc trái với dự định của những kẻ rắp tâm hãm hại nó.

Thật trớ trêu thay, bộ phim Cô gái trên sông lại được dư luận nước ngoài đón nhận như một biểu hiện của đường lối Đổi mới của Việt Nam trong lĩnh vực văn nghệ. CHDC Đức là nước đầu tiên mua và chiếu bộ phim này tại Tuần phim của các nước XHCN tổ chức tại thành phố Cottbus với bản phim đã được lồng tiếng Đức (hồi đó phe XHCN chưa tan rã). Sau này Nhật Bản, Mỹ, Ấn Độ... và nhiều nước khác tiếp tục mời chiếu. Ở đâu nó cũng cũng được đón nhận với nhiều thiện cảm. Năm 1992 khi tôi sang New York để dự Tuần phim Việt Nam do Hiệp hội Asean Cinevision đứng ra tổ chức, đại sứ Lê Văn Bàng đã nói với tôi: Anh cứ đem phim Cô gái trên sông ra để chứng minh cho đường lối Đổi mới của ta trong lĩnh vực văn nghệ (ông ở xa nên không biết bộ phim bị trong nuớc phê phán). Trong buổi chiếu phim này tại NewYork ông đại sứ và phu nhân cũng có mặt và tỏ ra rất hài lòng. Đến năm 1996, có nghĩa là 10 năm sau khi sau khi bộ phim hoàn thành, Liên hoan phim Toronto giới thiệu một chương trình phim Việt Nam trong đó có phim Cô gái trên sông. Ban Tư tưởng Văn hóa Trung ương hồi đó đã yêu cầu không chiếu phim này nếu không sửa. Thật oan cho bộ phim khi được nước ngoài đón nhận như một dấu hiệu đáng mừng của công cuộc Đổi mới ở nuớc ta! Quả thật số phận của bộ phim cũng long đong như số phận cô gái được miêu tả trong phim vậy, nhưng kết cục của nó lại rất có hậu. Tháng 4 năm 2000 để kỷ niêm 25 năm ngày Giải phóng Miền Nam, kênh truyền hình ARTE của Châu Âu đã chiếu lại phim Cô gái trên sông. Ðây là bộ phim truyện Việt nam duy nhất được chiếu trong dịp này. Hình ảnh của phim còn rất tốt vì đó chính là bản phim đã được Công hoà dân chủ Ðức mua trước đây. Sau 13 năm, phim Cô gái trên sông đã sống lại lần thứ hai một cách thật bất ngờ.

Tạp chí Sông Hương, số 169 tháng 3/2003