*


   

*

Tuyển tập phỏng vấn của The Paris Review, tập IV

 
Murakami trả lời, có câu này, tặng đám hậu hiện đại Mít

Phỏng vấn viên: Có vẻ như ông chỉ khoái dịch mấy tay nhà văn hiện thực, realists – Carver, Fitzgerald, Irving. Điều này cho thấy khiếu thưởng ngoạn của ông, như một độc giả? Hay nó có ích cho ông, trong việc viết?
Murakami: Những tác giả mà tôi dịch, viết toàn những cuốn mà tôi có thể học được một điều gì. Đó là chính. Tôi học được nhiều từ những nhà văn hiện thực. Tác phẩm của họ đòi hỏi phải dí mắt thật sát chúng thì mới dịch được và mới có thể nhìn thấy những bí mật của chúng. Nếu tôi dịch những tác giả hậu hiện đại như Don DeLillo, John Barth, hay Thomas Pynchon, thì sẽ chỉ có một đống... kít, a crash - sự khùng điên của tôi chống sự khùng điên của họ, my insanity against their insanity. Tôi thích, admire, những tác phẩm của họ, lẽ dĩ nhiên, nhưng khi dịch, tôi chọn những nhà văn hiện thực.

Hầu hết những tác phẩm của những nhà văn ngoại xuất hiện trên TV, nhìn dưới ánh sáng của câu trên, đều có một điều gì đó mà Mít – GNV đúng hơn - cần đọc, và cần học!
*
Tập 4 này gồm nhiều nhà văn hiện đang còn sống. Có bài phỏng vấn Pound, cũng thú, phải ngưng nửa chừng vì tình trạng sức khỏe.
Hỏi, khi lên đài phát thanh Ý lèm bèm trong thời gian chiến tranh, ông có nghĩ là ông vi phạm luật Mẽo không, Pound trả lời:
-Không. Tôi hoàn toàn ngạc nhiên. Ông biết đấy, tôi có sự hứa hẹn đó. Tôi được tự do sử dụng cái micro hai lần một tuần. “Mi được yêu cầu không được nói điều gì ngược lại luơng tâm của mi, hay ngược lại bổn phận của mi, như là một công dân Mẽo”.
Tôi nghĩ tôi làm đúng như thế.
Ông không biết là luật phản quốc nói về điều “đem sự trợ giúp và sự thoải mái đến cho kẻ thù, và kẻ thù không phải là xứ sở mà chúng ta đang có chiến tranh vói họ ư?
-Tôi nghĩ là tôi chiến đấu vì một điểm liên quan tới hiến pháp. Có thể đúng là tôi khùng, nhưng rõ ràng là tôi cảm thấy mình không phạm tội phản quốc.
Tuyệt thật. Vậy mà điên, phản quốc cái quái gì cơ chứ!
*
Tập IV này, quả là thật tuyệt vời, một phần vì những tác giả được phỏng vấn còn sống và rất gần gụi với chúng ta - như những độc giả, và nhất là, như  những nhà văn nhà thơ -  bởi vì những quan tâm về văn học giữa đôi bên. Đọc những câu trả lời của Murakami, của Naipaul, thật tuyệt.
Thí dụ câu này, của Murakami.
Người phỏng vấn:
Ông nói đâu đó, khi nhắc tới Ký sự chim văn dây thiều, rằng, ông quan tâm tới cha ông, tới chuyện xẩy ra cho cha ông, và toàn thế hệ của cha ông. Nhưng chẳng thấy một ông cha nào ở trong tiểu thuyết, hay nói rõ hơn, trong bất cứ một giả tưởng của ông. Làm sao kiếm cho ra, ở trong chính cuốn sách, nhân vật ‘biểu tượng’ này?
Murakami: Hầu như tất cả những tiểu thuyết của tôi đều được viết bằng nhân vật thứ nhất [nhân vật xưng tôi]. Mục tiêu chính của nhân vật của tôi là quan sát những sự vật xẩy ra chung quanh anh ta. Anh ta nhìn cái anh ta phải nhìn, hay điều anh ta đúng ra cần phải nhìn, trong thời gian của ngày, actual time. Tôi có thể nói, anh ta giống như Nick Carraway ở trong The Great Gatsby. Anh ta thì vô tư, neutral, và để giữ cho được sự vô tư đó, anh ta phải tự do thoát ra khỏi mọi quan hệ, mọi liên hệ tới cái hệ thống gia đình theo chiều thẳng đứng.
Vấn đề là như thế này: sự kiện ‘gia đình’ đã đóng một vai trò hơi bị ý nghĩa hóa, hay nói một cách khác, bị quá tải về ý nghĩa, trong văn học truyền thống Nhật bản. [Gấu nhớ đến ông bố Bắc Kít của văn chương Bắc Kít!] Tôi muốn miêu tả nhân vật chính của tôi như là một cá nhân độc lập, tuyệt đối cá nhân.
*
Trên TV đã có bài phỏng vấn Murakami của Trần Minh Huy, một fan của tác giả, và còn là phó tổng biên tập của tờ Le Magazine Littéraire. Bài này có trùng lập một số ý, tuy nhiên, cũng cần đọc.


Paris Review 4

David Grossman
Nghệ thuật giả tưởng

Năm 1987, để đánh dấu 20 năm Israel chiếm đóng West Bank và Gaza Trip, mấy tay chủ bút, chủ biên của tờ tuần báo Do Thái Koteret Rashit phái tiểu thuyết gia trẻ David Grossman tới West Bank, 7 tuần, “đi thực tế”.
Grossman, thông thạo tiếng Ả Rập, bèn làm những chuyến tham quan dân Palestine ở trại tị nạn, thành phố, vườn trẻ, đại học, cũng như đám định cư Do Thái ở trong những pháo đài chung quanh có giây kẽm gai [chắc cũng giống những khu định cư, kinh tế mới của đám Bắc Kít, sau 30 Tháng Tư 1975, Nam Tiến, tới những vùng đất cao nguyên Trung Phần, nơi chúng phá rừng trồng cà phê, hay trồng bất cứ cái khỉ gió gì miễn ra tiền và vô phúc cho một người bản địa nghèo đói nào lén vô là chúng thả chó ra, không chỉ cắn chết, mà còn xé xác ăn thịt!], và đám sĩ quan, binh lính Do Thái tuần tra những khu vực dành cho người Palestine. Thu hoạch của chuyến đi thực tế chiếm trọn một số báo, và gây chấn động trong đám Bắc Kít, ấy chết xin lỗi, Do Thái.
Grossman rất rành mạch, rõ ràng, trong những bài viết, về điều này:
"Dân Palestine hết còn chịu nổi rồi, hết còn ngoan ngoãn như lũ cừu rồi" [nguyên văn: "Người Palestine, ngày ngày đau đớn khổ sở vì những sự tàn ác dã man của đám chiếm đóng hàng thế hệ, sẽ không còn hiền lành, dễ bảo nữa, would be docile no more".]
“Đúng là một cú sốc”, Tom Segev, một trong những tay biên tập nói. “Cho đến lúc đó chúng tôi không hề biết họ thù ghét chúng tôi tới mức như vậy”

Năm tiếp theo năm đó, khi báo cáo của Grossman được xb bằng tiếng Anh, với cái tít trận Hoàng Phong, the Yelllow Wind, thì cuộc nổi dậy, intifada, của người Palestine đang tưng bừng hoa lá. Những gì Grossman viết trở thành tiên tri, “sấm Trạng Trình”, biến ông trở thành một tác giả tầm vóc thế giới.
*
Phỏng vấn viên:
Trong Nụ Cười của Cừu Non, The Smile of the Lamb, Uri [nhân vật chính] nói, “Nhà ở đâu, nói cho cùng?”, và Abner trả lời, nhà là khoảng trống rỗng giữa đầu cây viết và tờ giấy, home is the empty space between the tip of his pen and the paper. Đó là điều ông cảm nhận ư?
Grossman:
Nhà là nơi mà những người tôi yêu thương ở đó, home is where the people I love are. Càng về già, thế giới đó càng lạ lẫm, alien, và hơn thế nữa, tỏ ra thù nghịch đối với tôi. Câu chuyện mà tôi đang viết là một cái nhà khác, cho dù phải mất từ hai cho đến ba năm nó mới trở thành nhà. Tôi chẳng bao giờ cảm thấy cô đơn, trơ cu lơ một mình, khi tôi có câu chuyện của tôi, khi tôi biết giọng điệu, the tonus, của mọi nhân vật và ngôn ngữ.
Giọng điệu?
Giọng điệu, sức căng của bắp thịt, the tension of the muscles. Liền lập tức tôi cảm thấy mình được nối kết, connected, với những xao động, the emotional vibrations, của những con người ở Israel, điều mà tôi không thể cảm thấy khi ra nước ngoài.
Tuy nhiên, có vẻ như ông rất bị ảnh hưởng bởi những nhà văn của thế hệ Do Thái Lưu Vong [Jewish Diaspora]?
-Khi bạn sắp sửa ló dạng ra, như là một nhà văn, mọi người sẽ nói cho bạn biết, văn của bạn giống, hay, thôi thì nói đại, chôm của ai. Khi còn trẻ, tôi ngoan ngoãn lắm, và đồng ý với bất cứ điều gì mà người ta bảo tôi. Một tay làm việc cho đài truyền hình Do Thái, một người mới tới, a newcomer, từ Ba Lan, một bữa gọi điện thoại cho tôi, và cho biết, cuốn The Smile of the Lamb của tôi hiển nhiên là chịu ảnh hưởng của Bruno Schulz. Tôi nói, có thể. Tôi chưa từng đọc Bruno Schulz, và chẳng lẽ nói với tay đó, là mình dốt ư?
Ngay từ phút đầu tiên đọc Schulz, tôi cảm thấy như bị điện giật! Mỗi đoạn văn là một sự bùng nổ của những thực tại khác nhau - mộng, mị, ác mộng, tưởng tượng, quái tưởng, fantasy. Đọc ông ta khiến tôi muốn sống hơn, sống nữa, reading him made me want to live more.
Rồi tôi đọc những câu chuyện về cái chết của ông. Ông ta được một sĩ quan Đức bảo bọc. Ông này đã từng giết một nha sĩ Do Thái của một viên sĩ quan Đức khác. Viên sĩ quan này bèn đi kiếm Schulz và bắn ông ta chết ngay trên đường phố. Bạn giết tên Do Thái của tớ thì tớ giết tên Do Thái của bạn.
 [Trên TV có một ấn bản khác nữa, nhưng cả hai đều xác nhận chuyện Schulz bị một viên sĩ quan Đức khác giết, và khi anh này nói với tay sĩ quan bảo trợ Schulz, hắn ta xua tay, nhằm nhò chi, để kiếm thằng Do Thái khác thay thế].
Khi đọc điều này, tôi cảm thấy quá đỗi thê lương. Tôi chẳng còn muốn sống trong một thế giới, nơi một chuyện như thế có thể xẩy ra, khi con người có thể thay thế, có sẵn đó, tùy nghi sử dụng, replaceable, disposable. Tôi cảm thấy tôi phải làm cái gì đó để cứu chuộc cái chết không cần thiết, và tàn nhẫn của ông ta [I must redeem his needless, brutal death]. Thế là tôi viết See Under: Love.
Tôi có thể nói cho bạn biết, trong hầu hết ngôn ngữ cuốn sách của tôi được dịch – chừng 14 thứ tiếng- trong vòng chừng 1 năm hay cỡ đó, là có một lần tái bản câu chuyện về Schulz.
Ui chao thật là ngọt ngào, thật là dễ thương đối với tôi, khi biết rằng cuốn sách của mình đã làm được một điều gì đó cho ông ta, sau khi ông ta làm điều cho tôi.
Ai, ngoài Sshulz ra, ảnh hưởng tới ông?
Kafka, tuy nhiên, thật khó mà kiếm thấy một nhà văn không bị ảnh hưởng bởi Kafka, ngay cả khi người này không viết cùng một cái văn phong như của Kafka. Kafka là một giai đoạn văn học mà bạn bắt buộc phải vuợt qua [Kafka is a literary stage you have to go through]. Tôi luôn luôn tưởng tượng ra cái xen, Kafka đứng, hai tay trên bờ cửa sổ, nhìn bên trong vào cuộc đời [looking inside into life]. Như thể ông nhìn ra phía bên ngoài từ cái chết, ngay cả khi ông đang còn sống. Tôi chưa tìm ra điều này, ở bất cứ nhà văn nào khác.

David Grossman
Nghệ thuật giả tưởng

Grossman sinh năm 1954 tại Jerusalem. Bà mẹ sinh tại Palestine, ông bố di dân, từ Ba Lan, vùng Galicia. Khi còn là một đứa trẻ, ông bắt đầu làm việc như là diễn viên, và một phóng viên cho đài phát thanh nhà nước Kal Israel. Ông làm hơn hai chục năm tại đó, rồi đi quân dịch mất 4 năm, làm nghề ký giả nhà binh, và new anchor, rồi lại trở về làm tiếp. Ông bắt đầu viết giả tưởng đầu những năm 20 của mình, và cho xb một tập truyện ngắn, hai cuốn tiểu thuyết, trong khi làm việc toàn thời gian tại đài phát thanh.
Cuốn tiểu thuyết đầu tay của ông, The Smile of the Lamb, 1983, là cuốn tiểu thuyết Israel đầu tiên lấy bối cảnh West Bank. Câu chuyện một người lính trẻ, Uri, làm quen và sau bị bắt giữ như là một con tin bởi Khilmi, một ông già chuyên kể chuyện, mù dở, người Palestine. Những câu chuyện kể của ông già Khilmi thì giống như một dòng thơ xuôi, lừ đừ, nóng hổi, trộn trong đó là dòng ý thức và những câu đoạn réo rắt âm thanh của chuyện kể dân gian Ả Rập. Cuốn thứ nhì, See Under: Love (1986), là, và vẫn luôn luôn là một tuyệt tác. Đây là một tác phẩm tái tưởng tượng lịch sử đầy tính sáng tạo hoang dại, a wildly inventive work of historical re-imagination, gồm 4 phần, nhà phê bình người Mẽo Edmond White so sánh nó với Âm Thanh và Cuồng Nộ của Faulkner, Cái Trống Thiếc của Grass, và Trăm Năm Cô Đơn của Garcia Marquez. Còn Steiner thì coi đây giản dị chỉ là ‘một trong những bữa tiệc lớn lao của giả tưởng hiện đại’.
*
Người phỏng vấn:
Trong Chết như là Cách Sống, Death as a Way of Life, ông phán: “Tôi không thuộc về số người coi Lò Thiêu là một sự kiện đặc thù Do Thái”.

Grossman: Tôi không nghĩ, người ta có thể tách "tính Do Thái", the Jewishness, ra khỏi Lò Thiêu, the Shoah, nhưng đây là một sự kiện mắc mớ đến toàn nhân loại. Mọi người, bất cứ một người, ai cũng nên đặt ta cho chính mình, một vài câu hỏi liên quan tới Lò Thiêu.

Một trong những câu như vậy, là:
Đối diện với chủ nghĩa mặc kệ nó toàn diện như thế đó, làm sao tôi có thể khăng khăng nghĩ mình, như là một con người?
Điều gì, cái gì, cái phần nào, trong tôi, không thể nào thiến bỏ được?

Ui chao, đọc một cái là biết liền tù, cái phần đếch thể nào thiến bỏ được của anh cu Gấu, là tật cù lần, quá mê BHD, mỗi lần gặp em là há hốc mồm, mặt thộn ra!
Hà, hà!

Mi đừng có lôi ta ra làm trò hề, nhất là ở một chuyện nghiêm túc như Lò Thiêu!


*

Bữa nay đẹp trời, nắng như nắng Sài Gòn, [làm sao mà như được!], Gấu đi lang thang, vớ được số The Paris Review, Winter 2009, ngỡ ngàng, vì cứ nghĩ ba thứ này tuyệt bản ở Toronto, do cái vụ suy thoái kinh tế.
Hồi Gấu mới qua, 1994, thành phố hiển hách với một vài tiệm sách cực kỳ lâu đời của nó, sách báo cỡ gì cũng có, rồi cứ thế mất dần, như nó muốn biểu Gấu, mi già rồi, sách mới báo làm gì nữa!
Hay là nó muốn nói, như cô bạn đã từng nói, cũng những ngày tháng mới gặp lại đó, đọc như vậy đủ rồi, viết về tôi đi!
Ui chao có mấy kỷ niệm về cô bạn, thật tuyệt cú mèo, mà cứ không dám viết, vì sợ uổng!
Trong số báo có hai bài phỏng vấn thật tuyệt, một, Ha Jin, the Art of the Fiction, và một, Mary Karr, the Art of the Memoir.

I am profoundly devoid of cool. I remember a poem about a suicidal dog, which began, ‘Don’t do it, dog.’
[Cái này là dịch ẩu: Tôi chẳng còn tí ‘cool’(nghĩa đen: mát mẻ) nào.Tôi nhớ tới một bài thơ về một con chó tự tử, bắt đầu bằng, “Đừng làm thế, chó". Nếu thực tình mày muốn như vậy, thì chờ tao kiếm tí lá mơ đã!]

Mary Karr
The Art of the Memoir
Winter 2009

Interview Ha Jin

Ha Jin khởi sự nghề văn [viết một cách nghiêm túc] sau cú Thiên An Môn, 1989, mà ông gọi là sự bắt đầu cuộc đời của ông như là một nhà văn, ‘nguồn của mọi nhiễu nhương’ [‘source of all the trouble’]. Tác phẩm đầu tay bằng tiếng Anh của ông là một bài thơ, “The Dead Soldier’s Talk”, cuộc nói của người lính chết, cho một xưởng thơ, poetry workshop, ở Brandeis. Ông thầy, thi sĩ Frank Bidart, đưa bài thơ cho Jonathan Galassi, lúc đó là tay chủ biên thơ của tờ The Paris Review. Ông này vồ ngay lấy, in liền tút suỵt! Với sự hối thúc của Bidart, Jin xin gia nhập chương trình MFA, học viết giả tưởng, của Đại học Boston. Tốt nghiệp, đi dậy ở Emory University ở Atlanta, vừa dậy học vừa viết truyện ngắn, tiểu thuyết, được mấy cái giải thưởng, PEN/Faulkner Award, the Flannery O’Connor Award dành cho truyện ngắn, một cái Guggenheim fellowship, và The National Book Award.

Vào cái thời ông sống dưới chế độ CS, ông có cảm thấy ngột ngạt không?
Không. Tôi cũng bị tẩy não vậy.
Làm thế nào mà trở thành không còn bị tẩy não?
[How did you become un-brainwashed?]
Đó là một tiến trình dài. Thoạt đầu, tôi không thể tưởng tượng thế giới quá biên giới TQ: như hầu hết những người TQ trẻ, tôi trở thành rất ái quốc và tin tưởng ở cái phải, cái đúng của cách mạng và của đảng. Nhưng, trong khi tôi theo học tại Đại học Shandong, tôi bắt đầu đọc một lố văn học Mỹ từ nguyên tác, và dần dần nhận ra có rất nhiều đường hướng giao tiếp, thông cảm, và có những dân tộc sống khác hẳn [người TQ]. Và, viết bằng một ngôn ngữ khác thay đổi tôi.
Tại sao những cuốn sách của ông lại bị biếm [banned]?
Tôi viết về những đề tài cấm kỵ: Tibet, Cuộc Chiến Korean, Cách Mạng Văn Hóa, cú Thiên An Môn. Sau cú TAM, tôi trở thành một gã lớn họng, a outspoken…. Tôi chẳng hề muốn dính đến chính trị, nhưng những nhân vật của tôi chạy trời không khỏi nắng [my characters exist in the fabric of politics]. Nói vậy để thấy rằng, thật vô phương tránh né chính trị, nhất là ở TQ.
*
Sự thực mà nói, Gấu chưa hề đọc được bất cứ một nhà văn Mít, Bắc Kít, trong nước cũng như hải ngoại, dám nhìn lại chính họ, như những Đại Hán, thí dụ, Ha Jin, Ma Jian…  và nhất là Cao Hành Kiện.
Có lần Gấu đành phải phán thật khốn nạn, miệng họ đều có mùi chiến lợi phẩm ["phẩn" cũng được!], thành thử không làm sao cất lên tiếng nói, hay viết ra như những đấng Đại Hán trên, là vậy!

*
Giấc mơ giải phóng Miền Nam thống nhất đất nước là giấc mơ tuyệt vời nhất của Miền Bắc, và nó càng thêm tuyệt vời khi rong ruổi với giấc mơ Mác Xít về một con người hoàn toàn, l’homme total, con người mới xã hội chủ nghĩa. Nhưng nằm dưới đáy sâu lịch sử của một miền đất, nằm nơi đáy sâu của bất cứ một con người Miền Bắc, vừa đẻ ra là đã có rồi, kể từ khi có Đàng Trong, còn là con thú săn mồi sống mà nhân loại có từ thời ăn lông ở lỗ, và cùng với con thú đó, là cơn đói khát, ao ước được thoả mãn, thành thử rong ruổi với cái tốt, còn là cái xấu, cái đại ác của một miền đất, quá cằn cỗi vì thiên nhiên khắc nghiệt ảnh hưởng tới lòng người hà khắc, chai đá.

Tới thời điểm 30 Tháng Tư, thì cái tốt mất hết, chỉ còn cái xấu, con thú xổ chuồng, khi đẩy được Miền Nam vào thế bại trận, biến cả một miền đất thành chiến lợi phẩm. Đó là sự thực về cuộc chiến, theo Gấu.

Câu nói của DVM, chúng tôi chờ mấy ông để bàn giao, và hành động trước đó, đuổi Mỹ ra khỏi Miền Nam trong vòng 24 tiếng, bắt VNCH bỏ súng, nói lên tấm lòng của người Miền Nam, nhưng câu nói của Bùi Tín, cũng nói lên "tấm lòng" của người Miền Bắc. Sự thực của cuộc chiến, chỉ cần hai câu nói, là quá đầy đủ!

Gấu này tin rằng, ngay trong đám tinh anh của sĩ phu Bắc Hà cũng không nhận ra cái phần đẹp nhất của giấc mơ giải phóng Miền Nam của Yankee mũi tẹt, chính vì vậy mà DTH cho rằng, đây là cuộc chiến ngu xuẩn nhất của dân Mít.
Bạn phải nhìn ra cái phần đẹp nhất của nó, thì mới có thể tưởng niệm những liệt sĩ của Miền Bắc, như nữ thi sĩ Xuân Quí, như Đặng Thùy Trâm được. Và, ở bên kia thế giới, họ mới bớt đau lòng.
Giấc mơ đẹp biến thành hiện thực khủng khiếp, chính là do Cái Độc Cái Ác của một miền đất mà ra.
Chính Cái Độc, Cái Ác này đã đẩy họ vô chiến trường, như chính họ thú nhận trong nhật ký. Họ quá tởm nó, mà bỏ Đất Bắc, một phần.
Sở dĩ Lời Dối Trá được muôn người một một tin theo, ấy chính là vì nó hợp với giấc mơ của muôn người
Gấu đã mường tượng điều này, khi viết về bài thơ Điện Biên của Tố Hữu:
"Balzac mô tả cái nón, là bởi vì có người đang đội nó" (3). Đằng sau những loa dậy đất, đèn đuốc đỏ rực bản làng, có một giấc mơ - cái thật trong tương lai - mà cả một miền đất muốn vươn tới, muốn sở hữu. Chúng ta phải hiểu như vậy, thì mới giải thích được, dù chỉ một người ngã xuống ở mảnh đất Điện Biên.
Như chúng ta đều biết, giấc mơ đã không trở thành hiện thực, và đó là những cay đắng giấu kín đằng sau nụ cười hiền như Phật của Tố Hữu.

PXA, đến giờ chót, đi không được, là cũng vì giấc mơ thất bại đó, chắc hẳn?

Đỉnh Cao Chói Lọi

Sao ghét talawas

Cái sự bành trướng về phía Nam là số phần của giống dân quần tụ tại đồng bằng sông Hồng, lúc nào cũng nơm nớp hai hiểm họa, giặc Bắc và lũ lụt. An Nam nhất thốn thổ, mảnh đất sông Hồng nhỏ quá, người cứ đẻ mãi ra, đất thì chỉ có thế, ruộng thì càng ngày càng co lại vì bờ nhiều hơn ruộng, ruộng thì ngày càng cằn cỗi vì con đê sông Hồng chặn hết mọi phù sa mầu mỡ, nước sông ngày càng đục ngầu, mầu như mầu máu. Kể từ khi có Đàng Trong, là toàn thể cộng đồng Bắc Hà nhìn về nó, như là Miền Đất Hứa. Thành ra giải phóng Miền Nam thống nhất đất nước, hai miền chan hòa, là giấc mơ đẹp nhất của xứ Bắc Kít.
Nhưng không ai có thể ngờ được, nằm bên dưới giấc mơ đẹp nhất, là Cái Độc, Cái Ác của một miền đất.
Chỉ đến khi lấy được Miền Nam thì Cái Ác mới lộ diện.
Phải đầu hàng, không có bàn giao bàn giếc mẹ cái gì hết! Bố khỉ!
Mày phải đầu hàng, vì tao là kẻ chiến thắng, đất đai của mày, nhà của mày, vợ con của mày, của cải của mày, căn cước của mày… tất tất của tao, của chúng ông, tất tất đều chiến lợi phẩm. Hiểu chưa, chú gà tồ Big Minh!
*

Ha Jin khởi sự nghề văn [viết một cách nghiêm túc] sau cú Thiên An Môn, 1989, mà ông gọi là sự bắt đầu cuộc đời của ông như là một nhà văn, ‘nguồn của mọi nhiễu nhương’ [‘source of all the trouble’]. Tác phẩm đầu tay bằng tiếng Anh của ông là một bài thơ, “The Dead Soldier’s Talk”, cuộc nói của người lính chết, cho một xưởng thơ, poetry workshop, ở Brandeis. Ông thầy, thi sĩ Frank Bidart, đưa bài thơ cho Jonathan Galassi, lúc đó là tay chủ biên thơ của tờ The Paris Review. Ông này vồ ngay lấy, in liền tút suỵt! Với sự hối thúc của Bidart, Jin xin gia nhập chương trình MFA, học viết giả tưởng, của Đại học Boston. Tốt nghiệp, đi dậy ở Emory University ở Atlanta, vừa dậy học vừa viết truyện ngắn, tiểu thuyết, được mấy cái giải thưởng, PEN/Faulkner Award, the Flannery O’Connor Award dành cho truyện ngắn, một cái Guggenheim fellowship, và The National Book Award.

The Paris Review:
Vào cái thời ông sống dưới chế độ CS, ông có cảm thấy ngột ngạt không?
Không. Tôi cũng bị tẩy não vậy.
Làm thế nào mà trở thành không còn bị tẩy não?
[How did you become un-brainwashed?]
Đó là một tiến trình dài. Thoạt đầu, tôi không thể tưởng tượng thế giới quá biên giới TQ: như hầu hết những người TQ trẻ, tôi trở thành rất ái quốc và tin tưởng ở cái phải, cái đúng của cách mạng và của đảng. Nhưng, trong khi tôi theo học tại Đại học Shandong, tôi bắt đầu đọc một lố văn học Mỹ từ nguyên tác, và dần dần nhận ra có rất nhiều đường hướng giao tiếp, thông cảm, và có những dân tộc sống khác hẳn [người TQ]. Và, viết bằng một ngôn ngữ khác thay đổi tôi.
Ông về lần nào chưa?
Ha Jin:
Chưa.
Không bao giờ về ư?
Chưa về đất liền, nhưng Đài Loan, Hồng Kông thì có. Lúc đầu hăm hở về lắm, để thăm gia đình, bạn bè. Tôi kiếm đủ mọi cách, nhưng 7 năm qua tôi không làm sao gia hạn, renew, thông hành, không làm sao đi ra khỏi Mẽo. Rồi tôi trở thành công dân Mẽo, và tôi chán ngấy cái chuyện trở về. Bạn thử nghĩ coi, sách của bạn thì bị biếm - bạn có thể trở về, nhưng sách của bạn thì không được phép. Tôi không sao chấp nhận cái trò đó.
Tại sao sách của ông bị biếm [banned]?
Tôi viết toàn đề tài cấm kỵ: Tây tạng, chiến tranh Triều tiên, Cách mạng Văn hóa. Sau cú Thiên An Môn, tôi còn la dữ. Những cuốn sách của tôi làm nhà nước bực. Tôi không hề có ý định những gì tôi viết ra có tính chính trị. Nhưng những nhân vật của tôi thì chạy trời không khỏi nắng. Nói vậy để cho thấy, vô phương tránh né chính trị, nhất là ở TQ. Và, lẽ dĩ nhiên, nhà cấm quyền TQ sợ những câu chuyện thực được kể từ quan điểm của cá nhân. Còn vấn đề nữa, tôi là một thứ misfit, không thích hợp. Tôi lại còn to tiếng nữa, outspoken. Tôi viết bằng tiếng Anh, và như thế là bị coi như một kẻ phản bội tiếng mẹ đẻ. Tôi đi Mẽo, vờ phục vụ nghĩa cả, nhiệm vụ của Đảng giao cho. Đối với họ, tôi đúng là một con sâu làm rầu nồi canh, một thí dụ xấu, a negative example.