V.S.
Naipaul: Hai thế giới.
Diễn văn Nobel 2001 (ngày 7 tháng Chạp 2001).
Đây là một dịp lạ lẫm đối với tôi. Tôi thường đọc văn, chẳng mấy khi
diễn văn. Có ai yêu cầu diễn văn, tôi nói, tôi không có. Và thực tình
là vậy. Chuyện có vẻ kỳ kỳ, đối với một người loay hoay với mớ chữ, mớ
cảm
xúc, ý tưởng trong vòng gần năm chục năm, vậy mà gần như chẳng có chi
để
mà diễn thuyết, cứ nói như vậy. Nhưng tất cả những gì có chút giá trị
về
tôi, là ở trong những cuốn sách mà tôi đã viết ra. Giả sử có thêm, thì
chưa
hình thành một cách đầy đủ, còn mơ màng ở trong tôi, như chờ đợi cuốn
sách
tới, và, với một chút may mắn, nó sẽ tới với tôi trong lúc viết, thường
bằng
sự ngạc nhiên. Chính nỗi ngỡ ngàng là điều tôi tìm, trong khi viết. Đó
là
cách mà tôi đánh giá việc làm của tôi – vốn chẳng hề là một việc dễ làm.
Trong cuốn "Chống Sainte-Beuve", gồm những bài viết đầu đời, Proust
thật thấu đáo khi chỉ ra sự khác biệt giữa nhà văn như một người viết,
và nhà văn như một con người ở trong xã hội. Sainte-Beuve, một nhà phê
bình người Pháp thế kỷ 19, tin tưởng rằng, muốn hiểu một nhà văn thì
cần biết, càng nhiều càng tốt, về con người bên ngoài, những chi tiết
về cuộc đời
của nhà văn đó. Soi sáng tác phẩm bằng con người là một phương pháp mê
hoặc,
và có lẽ cũng khó mà phản bác. Tuy nhiên, Proust đã phá tan lập luận
này
một cách thật là thuyết phục. "Phương pháp của Sainte-Beuve", Proust
viết,
"không biết tới điều mà chỉ cần tự giác sơ sơ cũng học được, là, cuốn
sách
là một sản phẩm của một cái tôi khác với cái tôi mà chúng ta biểu tỏ
qua
thói quen, cuộc sống xã hội, tật xấu. Cố lục lọi cõi thâm sâu, biết đâu
tới
được cái tôi đặc thù đó."
Những lời này của Proust, chúng ta phải tâm niệm, mỗi lần chúng ta đọc
tiểu sử một nhà văn, hay tiểu sử của bất cứ ai dựa vào hứng khởi. Những
chi tiết về cuộc đời, những thói tật, những bạn bè, ích chi đâu, bí ẩn
trong cách viết của người đó vẫn còn nguyên. Biết bao tư liệu, lý thú
biết
là chừng nào, ích chi đâu. Tiểu sử một nhà văn – ngay cả tự thuật –
luôn
hụt hẫng như vậy.
Proust là bậc thầy trong cách nói thậm xưng sảng khoái, và tôi thật
muốn trở lại trong chốc lát với cuốn "Chống Sainte-Beuve" của ông.
"Thực sự," ông nói tiếp, "những phát tiết của cái tôi sâu thẳm viết
trong cô
đơn cho riêng mình, chính là nhà văn tặng cho công chúng. Những gì mà
một
người cho biết về đời tư trong khi trò chuyện... hoặc trong những tiểu
văn ở phòng khách, chỉ là chuyện trò đem in ấn, và là sản phẩm của một
cái
tôi hoàn toàn hời hợt, không phải của cái tôi sâu thẳm mà một người chỉ
có thể phục hồi bằng cách gạt đi cả thế gian và cả cái tôi chung chạ
với
thế gian."
Khi viết như vậy, Proust chưa tìm ra đề tài nhờ nó ông có được hạnh
phúc như là thành quả của việc lao tâm khổ tứ vì những con chữ. Nhưng
bạn có thể nhận ra, qua những dòng tôi trích dẫn, đây là một người tin
vào trực giác, và đang rình rập cơ may của mình. Tôi đã trích dẫn những
dòng trên đây một vài lần rồi. Lý do là, chúng minh định công việc viết
lách của tôi. Tôi cũng tin vào trực giác. Không phải mới đây, mà ngay
từ
lúc thoạt đầu. Bây giờ thì cũng vậy. Khi viết, tôi thực tình không
lường
trước được, chuyện sẽ ngã ngũ ra làm sao, và sẽ phải tiếp tục như thế
nào.
Tôi phó mặc cho trực giác tìm kiếm đề tài, và khi viết, cũng viết bằng
trực giác của mình. Khởi đầu tôi có một ý nghĩ, một hình dạng; nhưng
phải
đợi vài năm sau tôi mới hoàn toàn hiểu được những gì mình viết.
Trên đây, tôi có nói, những gì có giá trị ở nơi tôi, là ở trong những
cuốn sách. Tôi nói thêm: tôi là tổng số những cuốn sách của tôi. Được
cảm nhận bằng trực giác và, trong trường hợp những cuốn tiểu thuyết,
được
gầy dựng bằng trực giác, mỗi cuốn như thế đó, cuốn sau dựa vào cuốn
trước,
cuốn sau mọc ra từ cuốn trước. Cứ như vậy, ở bất cứ giai đoạn nào trong
cái nghiệp viết của tôi, có thể nói, cuốn sách cuối là cuốn bao gồm tất
cả những cuốn kia.
Được như vậy, là do gốc gác của tôi. Gốc gác của tôi vốn rất ư giản dị
và cũng rất ư là rắc rối. Tôi ra đời tại Trinidad. Đây là một hòn đảo
nhỏ ở ngay họng con sông lớn Orinoco của xứ Venezuela. Như vậy,
Trinidad không thực sự thuộc Nam Mỹ và cũng không thực sự thuộc vùng
Caribbean.
Hòn đảo nhỏ đã phát triển như là đồn điền thuộc địa của Tân Thế Giới,
và
vào cái năm tôi ra đời là năm 1932, dân số đảo chừng 400 ngàn người.
Trong
số đó 150 ngàn là Ấn độ, Ấn giáo và Hồi giáo, hầu hết gốc ruộng và từ
đồng
bằng sông Hằng.
Đó là cái cộng đồng nhỏ xíu của tôi. Công cuộc di dân chủ yếu là vào
thời kỳ sau 1880. Hợp đồng như vầy: sau năm năm làm việc tại đồn điền
sẽ được cấp, có thể là năm sào đất, hoặc một vé tầu trở về Ấn Độ. Vào
năm 1917, những xáo trộn do Gandhi và những người khác gây ra đã khiến
kiểu hợp đồng trên bị hủy bỏ. Và có thể do đó, và vì lý do khác nữa,
những người tới
sau đã không có đất, và cũng chẳng có vé tầu trở về Ấn Độ. Họ hoàn toàn
tay
trắng, cơ cực. Họ ngủ đường ngủ chợ, tại thủ đô Port of Spain. Khi còn
là
một đứa bé, tôi đã nhìn thấy họ như vậy. Khi đó, tôi chưa biết tay
trắng cơ cực nghĩa là gì, chắc là sau này mới biết. Tôi thản nhiên
nhìn. Đây là cái phần độc ác của đồn điền thuộc địa.
Tôi sinh ra tại tỉnh nhỏ ở phía bên trong đảo, có tên là Chaguanas,
cách Vịnh Paria chừng hai hay ba dặm. Chaguanas, đúng là một cái tên
đánh vần kỳ cục mà phát âm cũng kỳ cục, và nhiều người Ấn – đa số ở
trong vùng là họ – ưa gọi bằng cái tên tương xứng với giai cấp của
mình, là Chauhan.
Ba mươi tư tuổi tôi mới biết cái tên nơi tôi ra đời do đâu mà ra.
Tôi lúc đó đang sống ở Luân Đôn, và đã ở Anh mười sáu năm. Tôi đang
viết
cuốn sách thứ chín của mình. Đó là một câu chuyện về xứ Trinidad, con
người ở đây, cố gắng tái tạo họ, và những câu chuyện về cuộc đời của
họ.
Tôi thường tới Viện Bảo Tàng Anh Quốc để đọc những tài liệu Tây Ban Nha
về miền đất. Những tài liệu này – được sao chép từ những thư khố Tây
Ban
Nha – là để cho nhà cầm quyền Anh, vào những năm 1890, khi xẩy ra cuộc
xào
xáo về vấn đề biên giới với xứ Venezuela. Tài liệu bắt đầu vào năm
1530,
chấm dứt cùng với sự biến mất của Đế quốc Tây Ban Nha.
Tôi đọc được một tài liệu liên quan tới cuộc tìm kiếm khùng điên El
Dorado và chuyến xâm nhập giết người của người hùng Anh, là Sir Walter
Raleigh. Vào năm 1595, ông này đột kích Trinidad, mặc sức tàn sát tất
cả
những người Tây Ban Nha mà ông ta có thể, ngược sông Orinoco, tìm Thành
Phố Vàng (El Dorado). Chẳng thấy đâu hết, nhưng khi trở về Luân Đôn,
ông
ta nói là đã kiếm thấy. Để chứng mình, ông chìa ra một mẩu vàng và một
dúm
cát. Nói là đã cậy ra từ một mỏm đá ở bờ sông Orinoco. Sở đúc tiền
hoàng
gia cho biết, mớ cát mà ông ta đưa cho họ thử nghiệm chẳng có giá trị
gì
hết, còn một số người khác thì đưa ra gợi ý, rằng ông ta đã mua vàng từ
trước
đó, ở Bắc Phi. Raleigh sau viết sách để chứng tỏ quan điểm của mình, và
bốn
thế kỷ tiếp theo, người ta cho rằng ông ta đã kiếm được một cái gì đó.
Tuy
khó đọc, sự huyền ảo của cuốn sách của Raleigh, là ở cái tên dài thòng
của
nó: Sự Khám Phá Đế Quốc Guiana Rộng Lớn, Giầu Có, Tuyệt Trần, cùng sự
liên
hệ với thành phố lớn, chứa toàn vàng, là Manoa (người Tây Ban Nha gọi
là
El Dorado), những vùng Emeria, Aromaia, Amapaia, những xứ sở khác, cùng
những
con sông lân cận của chúng. Cứ như thiệt! Vậy mà ông ta chưa đi vào
dòng
chính của con sông lớn Orinoco.
Và rồi thì, đi đêm mãi thì có ngày gặp ma, Raleigh thực sự khốn khổ vì
những ba hoa chích chòe của mình. Hai mươi mốt năm sau, già, bịnh,
ông bị đưa ra khỏi nhà tù ở Luân Đôn, tới Guiana, để tìm những mỏ vàng
mà ông ta nói đã kiếm thấy. Trong cuộc phiêu lưu gian trá này, con trai
của ông mất. Người cha, chỉ vì muốn bảo vệ danh tiếng, bảo vệ những lời
nói dối, đã đẩy con tới chỗ chết. Đau khổ tràn trề, sống nữa thì không
biết để làm chi, vì chẳng còn lý do gì để mà sống, Raleigh trở lại Luân
Đôn, để ‘được’ hành hình.
Câu chuyện đúng ra là ngưng tại đây. Nhưng người Tây Ban Nha nhớ dai –
chắc chắn là do liên lạc đế quốc của họ quá chậm: nhiều khi phải mất
hai năm, một lá thư từ Trinidad mới tới được Tây Ban Nha. Tám năm sau
đó, những người Tây Ban Nha ở Trinidad và ở Guiana vẫn còn lo tranh
chấp với thổ dân vùng Vịnh. Chứng cớ là, một bữa, tôi được đọc, tại
Viện Bảo Tàng Anh, một lá thư của Hoàng đế Tây Ban Nha gửi viên toàn
quyền Trinidad. Lá thư đề ngày 12 tháng Mười 1625.
"Tôi yêu cầu ông", Hoàng đế viết, "cho tôi tin tức về một đất nước nào
đó, của những thổ dân Chuaganes, mà theo ông có chừng trên một ngàn
người; những người này đã đặt họ vào một vị thế thật là tệ hại: họ đã
dẫn
dắt người Anh, khi đám người nàyï chiếm đoạt thành phố. Tội ác của họ
chưa
bị trừng phạt, bởi vì chưa có những lực lượng được chỉ định để làm công
việc này, và bởi vì những người thổ dân thừa nhận, ngoài chuyện tự
nguyện
tham gia, không có quan thầy nào khác. Ông đã quyết định trừng phạt họ.
Tiếp theo đây là những luật lệ mà tôi thảo ra, cho tôi biết ông sẽ tiến
hành ra sao."
Ngài toàn quyền tiến hành ra sao, tôi không được biết. Tôi không kiếm
thấy chỉ dẫn nào tiếp theo liên quan tới những người Chaguanes, trong
số những tài liệu tại Viện Bảo Tàng. Có thể còn có những tài liệu khác
về họ, trong núi giấy tờ lưu trữ tại Thư Khố Tây Ban Nha ở Seville,
nhưng
những nhà thông thái người Anh được nhà cầm quyền nước họ phái tới đó,
đã bỏ sót, hoặc coi là không quan trọng, không cần sao chép. Duy chuyện
này thì thực: cái bộ lạc nho nhỏ trên một ngàn người – có thể đã sống ở
cả hai bên bờ Vịnh Paria - biến mất sạch, đến nỗi chẳng còn ai ở thành
phố
Chaguanas hay Chauhan biết một chút gì về họ. Và ngồi tại Viện Bảo
Tàng,
tôi chợt nẩy ra ý nghĩ, mình là người đầu tiên, kể từ năm 1625, với
con-người-đầu-tiên-là-tôi này, lá thư của vị Hoàng đế Tây Ban Nha đã có
một ý nghĩa thực sự. Và lá thư này chỉ được moi ra khỏi những thư khố
vào năm 1896 hay 1897. Một sự biến mất, và rồi thì là, một sự im lặng
hàng bao thế kỷ.
Chúng tôi tôi sống trên đất của người Chaguanes. Niên học - tôi vừa mới
bắt đầu đi học – ngày nào tôi cũng ra khỏi nhà bà tôi, đi qua hai
hoặc ba cửa hàng nằm trên đường lớn, một tiệm Tầu, nhà hát Jubilee, một
nhà máy nhỏ của người Bồ Đào Nha, quãng đường này sặc mùi xà bông mầu
xanh
và mầu vàng, loại rẻ tiền, những thỏi dài được phơi khô ngay từ buổi
sáng
ở bên ngoài nhà máy – những cảnh vật tưởng như mãi mãi như thế đó, ngày
nào
tôi cũng đi qua, trên con đường từ nhà tới trường nhà nước Chaguanas.
Quá
ngôi trường, là đồn điền trồng mía, trải dài mãi tới Vịnh Paria. Những
con
người ngày xưa sở hữu mảnh đất này, họ có loại trồng trọt, lịch ngày
tháng,
mùa màng, những luật lệ, những nơi chốn đình đám thiêng liêng của riêng
họ.
Họ thuộc nằm lòng những đợt triều lên xuống của con sông Orinoco, đem
mầu
mỡ đến cho vùng Vịnh Paria. Giờ đây, mọi kỹ năng, hiểu biết của họ, và
mọi
chuyện về họ, đều tiêu tan.
Thế giới luôn chuyển động. Đâu đâu cũng vậy thôi, những con người
có lúc trở thành trắng tay. Tôi nghĩ, cú sốc của tôi vào năm 1967, khi
khám phá ra cái tên nơi mình sinh như trên, là bởi vì tôi chưa từng có
một ý nghĩ gì về nó. Nhưng đây là số phần của hầu hết những con người
như
chúng ta, sống mù lòa, tại những xứ thuộc địa mà cuộc sống chủ yếu dựa
vào
nông nghiệp. Không phải nhà cầm quyền mưu toan giữ dịt chúng ta vào
trong
cảnh tối đen mù lòa như thế. Theo tôi, giản dị chỉ là thế này: ở đó
không
có tri thức, nói nôm na, không có hiểu, chẳng có biết. Quan trọng gì ba
thứ
hiểu biết về những người thổ dân Chaguanes. Và cũng thật khó mà bảo tồn
gìn
giữ. Một bộ lạc nhỏ xíu, mà lại là thổ dân. Những người như thế – chúng
tôi
nghe nói về những người đồng loại với họ, ở nơi đất liền, tức nơi chốn
có
tên là B.G, tức Guiana thuộc Anh (British Guiana) – thường được nêu ra
để
làm trò cười. Theo như tôi được biết, tất cả những cộng đồng sắc dân ở
Trinidad, họ đều gọi những con người ồn ào, cư xử không giống ai như
vậy, là những "warrahoon".
Lúc đó, tôi nghĩ, đây là một từ được bịa đặt ra để chỉ sự man rợ. Chỉ
tới
khi, bốn chục tuổi, bắt đầu du lịch xứ Venezuela, tôi mới biết đây là
tên
một bộ lạc thổ dân khá lớn tại đó.
Hồi nhỏ, có một câu chuyện có vẻ mơ hồ – bây giờ, nó gây chấn động ở
nơi tôi – về những người thổ dân: vào những thời điểm nào đó, họ từ đất
liền dùng ca nô tới đảo, đi vô rừng ở phía nam, tới một địa điểm nào
đó, hái một thứ trái cây đặc biệt, hoặc cử hành một thứ tế lễ, rồi vượt
Vịnh Paria, trở về, tới vùng đất sũng nước ở cửa sông Orinoco. Nghi lễ
này chắc là rất quan trọng, bởi vì nó sống sót, qua bao thăng trầm kéo
dài bốn thế kỷ, qua sự hủy diệt những bộ lạc thổ dân ở Trinidad. Và có
lẽ – mặc dù Trinidad và Venezuela cùng chung một quần thực vật (flora)
– họ chỉ tới để hái một thứ trái cây đặc biệt nào đó. Tôi không hiểu.
Tôi cũng chẳng có cách chi để mà tìm hiểu, bởi vì chẳng tìm ra một ai
để mà làm chuyện này. Và bây
giờ thì một chút mảy may hồi nhớ về câu chuyện trên cũng chẳng còn; và
một
thánh địa như vậy, nếu có thiệt, thì cũng trở thành một thứ của chung
trong
trời đất.
Quá khứ là... quá khứ. Tôi ngỡ, đây là thái độ chung. Và chúng tôi,
người Ấn, di dân từ xứ Ấn Độ tới đây, cũng có "thái độ chung" (general
attitude) như vậy, với con đảo. Sống rúi mãi vào những nghi lễ tập tục;
chẳng thể nào, hoặc chưa thể nào có đủ "nội lực" để mà tự thẩm định
(self-assessment) - bởi vì khi bắt đầu đánh giá mình, cũng là lúc khởi
đầu của tri thức, học hỏi. Trên đất đai của những người Chaguanes, một
nửa trong số chúng tôi cứ giả đò, có lẽ cũng không phải giả đò, có lẽ
chỉ có cảm tưởng, nhưng chẳng hề phát biểu ra thành lời một cách gọn
gàng như một ý nghĩ, hay tư tưởng, rằng, "chúng mình" đã mang theo một
thứ Ấn Độ với chúng mình, và cái thứ Ấn Độ đó, hóa ra là một tấm thảm,
và cứ thế trải ra mặt đất.
Căn nhà của bà tôi ở Chaguanas chia làm hai phần. Phía trước bằng
gạch và vữa, sơn mầu trắng. Giống như kiểu nhà Ấn, tầng một có miếng
sân
lớn có lan can, tầng trên có một phòng nhỏ dùng làm nơi cầu nguyện.
Tham
vọng là ở trong từng chi tiết trang hoàng: những cây cột đội bông sen,
những tượng thần Ấn Độ, tất cả được thực hiện bởi những con người mà
với
họ, xứ Ấn Độ chỉ còn là một kỷ niệm. Đặt vào xứ Trinidad, nó là một thứ
kiến trúc kỳ quặc. Ở phía sau - được nối với căn nhà phía trước bằng
một
hành lang cao, giống như một căn phòng dùng làm cây cầu - là một căn
nhà
bằng gỗ theo kiểu nhà Tây ở vùng Caribbean. Lối vào chính ở về một bên,
giữa hai căn nhà. Một cái cổng sắt cao, khung bằng gỗ, mang vẻ thật
riêng
tư và bề thế cho căn nhà.
Vậy là, ngay từ khi còn là một đứa con nít, tôi đã cảm ra được rằng, có
hai thế giới; một ở bên ngoài cái cổng sắt cao, và một ở bên trong nhà
– hay khiêm tốn hơn, thế giới căn nhà bà tôi. Đó là cõi còn lại, ấy là
nói về thứ tình cảm giai cấp của chúng tôi, thứ cảm quan muốn đẩy mọi
thứ khác ra ngoài, và đóng sập cửa lại. Tại Trinidad, những người mới
tới như chúng tôi, chúng tôi co cụm lại thành một cộng đồng, thua thiệt
đủ thứ, thành
thử cái ý nghĩ đẩy mọi thứ ra ngoài, tự cô lập, hóa ra là hình thức tự
vệ;
nó giúp chúng tôi – vào lúc đó, và chỉ nội vào lúc đó – sống theo kiểu
của
riêng chúng tôi, theo những qui luật của riêng chúng tôi, [nghĩa là]
sống
ở trong cái xứ Ấn Độ đã xa xăm, nhạt nhòa của riêng chúng tôi. Đấy là
một
cách chúi rũi mãi vào chính mình thật là khác thường. Chúng tôi nhìn
vào
phía bên trong; chúng tôi sống mòn những ngày tháng của mình; thế giới
bên ngoài hiện hữu như một vùng tối tăm; chúng tôi chẳng thèm để ý,
chẳng
thèm tìm hiểu.
Có một cửa tiệm của người Hồi giáo ở kế bên. Hàng hiên nhỏ cửa tiệm bà
tôi đụng bức tường trần trụi cửa tiệm bên đó. Người chủ tên Mian. Tôi
chỉ biết có vậy, về ông và gia đình ông. Chắc đã từng nhìn thấy ông,
nhưng tôi chẳng còn giữ được một hình ảnh nào về ông. Chúng tôi chẳng
biết gì về những người Hồi giáo. Cái ý nghĩ về sự xa lạ, về một điều gì
phải gạt phăng ra khỏi đầu, lan tới cả những người Ấn giáo khác. Tôi
lấy thí dụ, chúng tôi ăn cơm vào buổi trưa, và bánh mì vào buổi chiều,
trong khi có một số người khác thường, lại đảo ngược trật tự bình
thường này, họ ăn cơm vào buổi chiều. Với tôi, những người ăn cơm vào
buổi chiều như thế, là những kẻ xa lạ – hãy tưởng tượng ra thằng bé
chưa đầy bẩy tuổi là tôi, bởi vì khi tôi đúng bẩy tuổi là cái cuộc đời
ở căn nhà của bà tôi tại Chaguanas cũng chấm dứt luôn. Chúng tôi dời
lên thủ đô, rồi lên vùng đồi tây bắc.
Nhưng những thói quen "khép vô-đẩy ra" như thế, nẩy sinh ở trong đầu,
sẽ còn vương vất một thời gian. Nếu không đọc những truyện ngắn của cha
tôi, tôi hoàn toàn mù tịt về cuộc sống chung của cái cộng đồng người Ấn
của chúng tôi. Những truyện đó đã đem đến cho tôi không chỉ sự hiểu
biết,
mà còn sự vững tâm. Chúng cho tôi điểm tựa để mà đứng ở trên đời. Tôi
không thể tưởng tượng ra được, cuộc sống tinh thần của tôi sẽ ra sao
nếu thiếu chúng.
Thế giới bên ngoài hiện hữu như một vùng tối; chúng tôi chẳng thèm tìm
hiểu gì hết. Tôi cũng khá lớn và biết chút ít về những hùng ca Ấn Độ,
đặc biệt là hùng ca Ramayana. Những đứa trẻ kém tôi chừng năm tuổi,
trong
cái gia đình mở rộng đó, đã không có được cái may như tôi. Không ai dậy
chúng tôi tiếng Hinđi [được nói chủ yếu ở vùng phía bắc Ấn Độ]. Thỉnh
thoảng
cũng có người viết ra bảng chữ cái cho chúng tôi học, chỉ có vậy; muốn
biết thêm, là phải tự mầy mò. Cứ thế, tiếng Anh thấm vô, tiếng mẹ đẻ
mất
dần. Căn nhà của bà tôi thì đầy tín ngưỡng: có đủ thứ lễ, kinh kệ, có
những
buổi lễ ngày này qua ngày khác. Nhưng chẳng có ai giải thích hoặc dịch
cho chúng tôi, còn chúng tôi thì càng ngày càng nghe không kịp. Niềm
tin
về cội nguồn, về tổ tiên ông bà cứ thế lui dần, và thay vì niềm tin, nó
trở thành một thứ huyền bí, không thích ứng với cuộc sống hàng ngày của
chúng
tôi.
Chúng tôi chẳng tìm hiểu về cái xứ Ấn Độ, những bà con trong gia đình
còn ở đó. Khi nghĩ lại, hoặc mong biết về xứ sở con người, thì đã quá
muộn. Tôi chẳng biết gì về bà con bên nội, nghe nói hình như có một vài
bà con như thế, tới từ Nepal. Cách đây hai năm, có một tay người Nepal
dễ mến, anh ta khoái cái tên của tôi, và đã gửi bản sao một số trang,
từ
một tập san địa lý của Anh vào năm 1872, về xứ Ấn Độ, Giai cấp và Bộ
lạc
Hinđi tiêu biểu ở Benares. Có một số mang tên Naipaul, trong cả mớ ở
trong
đó, và thuộc danh sách những người Nepal sinh sống tại thánh địa
Banaras.
Tôi chỉ biết có vậy về cái tên cúng cơm của mình.
Bên ngoài cái thế giới căn nhà bà tôi, nơi chúng tôi ăn cơm buổi trưa,
bánh mì buổi chiều, là một cõi u u minh minh – dân trên đảo chỉ có 400
ngàn người; đa số Phi Châu, hoặc có gốc rễ Phi Châu. Họ là cảnh sát; họ
là thầy giáo. Cô giáo đầu đời học trò của tôi, tại Trường Nhà Nước
Chaguanas, là một trong số họ; trong nhiều năm tôi cứ nhớ hoài cô giáo
kính yêu của tôi. Có thủ đô, nơi chẳng bao lâu chúng tôi tới để học, và
kiếm việc làm, cũng là nơi chúng tôi đóng trụ dài dài, giữa những người
xa lạ. Có những người da trắng, không phải tất cả là người Anh; người
Bồ Đào Nha, người Trung Hoa, ngày xửa ngày xưa cũng là di dân như chúng
tôi. Và, bí ẩn hơn hết, có những người mà chúng tôi gọi là Spanish,
‘pagnols’, những người pha
trộn (mixed) có mầu da nâu ấm, tới từ thời còn người Tây Ban Nha, trước
khi
hòn đảo tách ra khỏi xứ Venezuela và Đế Quốc Tây Ban Nha – một thứ lịch
sử
hoàn toàn vượt ra khỏi sự cảm thông của một đứa trẻ là tôi hồi đó.
Để bạn có ý nghĩ như trên, về gốc gác của tôi, tôi phải viện tới sự
hiểu biết và những ý nghĩ đến với tôi mãi sau đó, chủ yếu là từ những
cuốn sách của tôi. Khi còn là một đứa bé, tôi hầu như chẳng biết gì
hết,
ngoại trừ những gì có được từ thế giới căn nhà bà tôi. Tất cả trẻ con,
tôi cứ nghĩ, đều bước vào thế giới như vậy, chẳng biết chúng là ai.
Nhưng
với trẻ con người Pháp, thí dụ vậy, sự hiểu biết đang chờ đợi chúng. Nó
ở
lòng vòng chung quanh chúng. Nó sẽ tới, một cách gián tiếp, qua trò
chuyện
của người lớn. Nó sẽ có, ở trong tờ nhật báo, hay từ đài phát thanh. Và
ở
trường, qua những tác phẩm của nhiều thế hệ những nhà học giả, được thu
gọn
vào trong những bài học; chúng sẽ đem đến cho những đứa trẻ ý nghĩ này
nọ,
về nước Pháp, và người Pháp.
Ở Trinidad, một đứa trẻ như tôi, cho dù thông mình sáng láng, vẫn
bị bao quanh bởi những vùng tối. Trường học chẳng soi sáng gì cho tôi.
Tôi bị nhồi nhét đủ thứ, nào sự kiện, nào công thức. Mọi thứ đều phải
học thuộc lòng. Mọi thứ đều trở thành trừu tượng đối với tôi. Một lần
nữa, ở đây, tôi chẳng hề tin tưởng, rằng đã có một chương trình, hay
mưu
đồ đề ra những "giáo án" như vậy. Đây là chương trình học chuẩn. Trong
một khung cảnh khác, nó có nghĩa. Vả chăng, thất bại một phần là do
tôi.
Do hiểu biết quá nghèo nàn về xã hội, thật khó, bằng tưởng tượng, nhập
vào những cõi người khác, hay phiêu lưu tới những vùng đất xa lạ. Tôi
muốn yêu sách vở, nhưng đọc chúng sao khó quá! Tôi cảm thấy thật thoải
mái, với những cuốn như của Andersen, Aesop, chúng như vượt thời gian,
không gian, không loại trừ người đọc. Tới năm học chót (năm thứ sáu ở
trung học), tôi bắt đầu
thích những bài học trích ra từ những tác phẩm của Molière, Cyrano de
Bergerac
– theo tôi, chúng mang dáng dấp những câu chuyện thần tiên.
Khi trở thành nhà văn, những vùng tối chung quanh đứa trẻ là tôi ngày
nào trở thành những đề tài của tôi. Địa linh: miền đất cũ; nhân kiệt:
những thổ dân; Tân Thế Giới; thuộc địa; lịch sử; Ấn Độ; thế giới Hồi
giáo,
ít nhiều gì cũng có tôi ở trong đó; rồi thì Anh Quốc, nơi tôi ngồi vào
bàn, và viết. Theo nghĩa đó, tôi muốn nói, như đã nói ở trên, là những
cuốn sách của tôi, cuốn nọ chồng lên cuốn kia, và tôi là tổng số những
cuốn sách của tôi. Cũng vẫn theo nghĩa đó, gốc gác, nguồn văn, hứng văn
của tôi, thì rất ư giản dị và cùng lúc, cực kỳ rắc rối. Bạn thấy đấy,
giản dị biết bao, là cái tỉnh lỵ nhà quê Chaguanas đó. Và tôi cũng tin,
bạn đã thông cảm, rằng, cái con đường đưa đẩy tôi trở thành nhà văn sao
thật rắc rối đa đoan. Gay go nhất là lúc khởi đầu, khi những mẫu mã văn
học của tôi – chúng đều là những mẫu mã có được từ cái mà tôi chỉ có
thể gọi là tri thức dởm – phải đương đầu với những xã hội hoàn toàn
khác biệt. Có thể bạn có cảm
tưởng, rằng, viết dễ ợt, một khi có một mỏ chất liệu như vậy. Nhưng cái
mỏ
chất liệu, nói rõ hơn, những hiểu biết của tôi về gốc gác của mình, là
do
ba chuyện viết lách mà có. Và, tin tôi đi, khi tôi nói với bạn rằng,
cái cõi
văn của tôi như thế đó – cấu trúc văn học, xương sống tác phẩm, [hay
nói
theo kiểu chưởng Kim Dung, hai huyệt Nhâm Đốc được đả thông], cõi văn
đó
trở nên rõ ràng chừng hai ba tháng gần đây thôi. Bây giờ, mỗi khi nghe
đọc
những đoạn văn lấy ra từ những cuốn sách cũ, tôi như nhìn thấy những
liên
hệ, những móc nối của chúng, [tôi như nhìn thấy một con rắn luồn lách ở
trong
mớ cỏ đó]. Trước đây, khổ tâm nhất, là làm sao diễn tả, làm sao nói cho
độc
giả biết, tôi đã xoay sở viết lách ra sao.
Tôi đã nói, tôi là một nhà văn của trực giác. Trước sao, giờ vậy,
khi đi gần trọn con đường. Tôi chưa hề có một chương trình. Tôi không
theo một kế hoạch. Tôi làm việc theo trực giác. Mỗi lần nhắm viết, là
viết,
là làm sao sáng tạo ra một điều gì đó, và nó sẽ dễ đọc, sẽ thú vị. Ở
mỗi
giai đoạn, tôi làm việc tùy theo mức hiểu biết, cảm xúc, tài năng, và
viễn
ảnh của tôi về thế giới. Như kiến tha lâu đầy tổ, cuốn trước đẩy cuốn
sau.
Chúng đều được làm ra theo nghĩa này: tôi đã viết chúng, bởi vì chưa có
những
cuốn sách viết đem đến cho tôi điều tôi muốn. Và theo nghĩa này nữa:
tôi
phải làm cho ra ngô ra khoai cái thế giới của tôi, làm sáng tỏ nó, cho
chính
tôi.
Tôi phải tìm tài liệu ở Viện Bảo Tàng Anh Quốc và ở những nơi khác, để
có được cái cảm quan thực sự về lịch sử thuộc địa. Tôi phải tới Ấn
Độ, bởi vì chẳng có ai nói cho tôi về cái xứ mà ông bà tôi đã bỏ đi đó,
nó ra sao. Có những điều được viết bởi Nehru và Gandhi; và thật lạ
lùng,
chính là Gandhi, đã cho tôi khá nhiều nhưng cũng chưa đủ, qua kinh
nghiệm
của ông về Nam Phi. Ngoài ra còn Kipling; những nhà văn Anh-Ấn, thí dụ
John Masters (thật nổi đình nổi đám vào thập niên 1950 khi đưa ra kế
hoạch,
sau bỏ ngang - tôi e rằng như vậy – sẽ cho ra lò một chùm gồm 35 cuốn
tiểu
thuyết, về Ấn Độ thuộc Anh); những cuốn tiểu thuyết diễm tình của những
nhà văn nữ. Một số ít nhà văn Ấn đã nổi bật được lên, vào hồi đó, nhưng
đều thuộc giai cấp trung lưu, cư dân thành phố; họ không biết gì về xứ
Ấn
Độ mà chúng tôi đã từ đó mà ra.
Và khi nhu cầu Ấn Độ như thế đó, được thỏa mãn, những nhu cầu khác bật
ra: Phi Châu, Nam Mỹ, thế giới Hồi giáo. Vấn đề luôn luôn là: bổ túc,
làm đầy cái hình ảnh của tôi về thế giới, bởi vì ngay từ nhỏ tôi đã cảm
thấy, phải làm sao thoải mái với chính mình. Đôi khi, có những người
thật tốt bụng viết cho tôi, hỏi có nên đi Đức, hay Trung Quốc, để mà
viết. Nhưng đã có nhiều cuốn sách tốt về Đức hay Trung Quốc và tôi sẵn
sàng dựa vào thứ
văn chương hiện có, về những nơi như vậy. Vả chăng, những đề tài đó là
để
cho những người khác. Không phải là những vùng tối mà tôi cảm thấy vây
quanh
tôi, khi còn là một đứa nhỏ. Bởi vậy, tôi viết tới đâu, cách kể chuyện,
sự
hiểu biết, mức xúc cảm theo tới đó, chúng như có một sự đồng nhất, một
điểm
xoáy, cho dù tôi muốn làm ra vẻ đi lòng vòng theo nhiều đường hướng.
Khi bắt đầu, tôi chẳng biết đi đâu. Tôi chỉ muốn, làm ra một cuốn
sách. Tôi cố viết về xứ Ăng Lê, nơi tôi sống sau những năm học đại học,
và tôi cảm thấy rằng, kinh nghiệm của tôi mỏng dính, không đủ, không
đúng
thứ để mà viết ra được những cuốn sách. Tôi cũng không kiếm thấy một
cuốn
sách nào viết về những điều gần gụi với gốc gác của tôi. Một người trẻ
tuổi, Pháp hay Anh, nếu muốn viết, chắc là dễ kiếm ra những khuôn mẫu
để
bắt đầu. Tôi thì không, nghĩa là chẳng có một mẫu mã nào. Những truyện
ngắn
của cha tôi, về cộng đồng Ấn, đã thuộc về quá khứ. Thế giới của tôi
hoàn
toàn khác biệt. Nó mang nặng tính thành phố, và cũng thật tạp sắc.
Những
chi tiết giản dị, chỉ mang tính vật chất, là cuộc sống đại gia đình của
tôi ở đô thị, cứ mỗi ngày lại thêm người thêm việc – nào là giờ giấc,
nơi
ăn chốn ngủ, người này kẻ nọ... - vậy mà thật khó xoay sở, sắp xếp. Có
quá
nhiều điều phải giải thích, cả về đời sống trong gia đình và thế giới
bên
ngoài. Cùng lúc đó, có quá nhiều điều về "chúng tôi" mà chúng tôi không
biết,
thí dụ như tổ tiên của mình ra sao, lịch sử của mình là như thế nào.
Tới một ngày, tôi bỗng nảy ý nghĩ, tại sao không bắt đầu thử nghiệp
viết của mình, từ đường phố Port of Spain, nơi chúng tôi từ tỉnh lẻ
Chaguanas dắt díu nhau tới. Chẳng còn cái cổng sắt để mà tống khứ thế
giới ra bên ngoài rồi đóng sập lại. Cuộc sống đường phố mở rộng tay
chào đón, và mời tôi kể về nó. Thật tuyệt vời, khi ngồi từ hàng hiên
nhìn ra mặt lộ. Tôi bắt đầu viết, từ hàng hiên đó. Tôi viết thiệt lẹ,
tránh chuyện nhìn lại những
trang đã viết, và tôi giản đơn mọi chuyện. Tôi bỏ đi chuyện đời riêng,
của
tay kể chuyện trẻ tuổi. Tôi vờ đi những phức tạp do màu da hay hoàn
cảnh xã
hội, và chỉ trình bầy những con người như họ xuất hiện trên đường phố.
Tôi
chẳng giải thích gì hết, và cứ thế quan sát thật gần, dí sát mắt xuống
mặt
đường, thì cứ nói như vậy. Mỗi ngày tôi viết một truyện. Năm truyện đầu
thật ngắn, và tôi bắt đầu tự hỏi, hay là mình cạn láng rồi. Rồi thì
nàng
tiên, hay ông Bụt xuất hiện, và giơ lên cây đũa thần; tôi muốn nói,
điều
huyền ảo của cái gọi là "viết". Chất liệu từ đủ thứ ngõ ngách, xó xỉnh,
cứ
ào ào đổ xô tới. Những câu chuyện dài ra, và thật vô phương, mỗi ngày
viết
một truyện. Sau cùng, hứng khởi, vốn ngày nào còn mỉm cười với tôi, nay
như "về Trời" cùng với ông Bụt. Cây viết của tôi thế là teo lại, nhưng
chẳng
sao, tôi đã viết xong một cuốn sách, và với riêng tôi, tôi nghĩ, mình
đã
là một nhà văn.
Khoảng cách giữa nhà văn và cái giếng chất liệu của người đó thật
rõ rệt, ở trong hai cuốn tiếp theo; tầm nhìn của y/thị rộng hẳn ra. Rồi
thì trực giác xúi tôi chơi một cuốn có bề dầy tầm cỡ, về gia đình mình.
Tham vọng nhà văn cũng hò theo. Khi viết xong cuốn sách, tôi có cảm
tưởng
mình là một con tằm đã bị rút hết, không những tơ mà luôn cả ruột,
nghĩa
là, cuốn sách vét cạn, cái vốn liếng ở đảo của tôi. Tôi trăn trở hoài,
nhưng chẳng một câu chuyện nào bật ra nữa.
Tới đây, không phải hứng khởi, mà là sự tình cờ đã cứu tôi. Tôi trở
thành một du lịch gia. Tôi du lịch vùng đảo Caribbean, và tôi càng hiểu
thêm, cái gọi là cơ chế thuộc địa mà tôi có phần ở trong đó. Tôi tới Ấn
Độ, quê hương của tổ tiên tôi, và ở đó một năm; cuộc du lịch bẻ cuộc
đời
tôi ra làm đôi. Những cuốn sách mà tôi viết về hai cuộc du lịch kể
trên,
như đẩy tôi lên một mức, tới những miền cảm xúc mới mẻ, cho tôi một
viễn
tượng về thế giới mà tôi chưa hề có được trước đó; mở rộng tôi, về cách
viết.
Trong cuốn tiểu thuyết tiếp theo, tôi đã tự cho phép mình "trói voi bỏ
rọ",
nghĩa là khoanh tròn ở trong đó, cả xứ Ăng Lê lẫn vùng Caribbean – ôi
công
việc mới gian nan làm sao! Tôi cũng đề cập được hầu hết những nhóm sắc
tộc
ỏ trên đảo, điều mà trước đây hầu như bất khả đối với tôi.
Cuốn tiểu thuyết mới này đụng tới sự tủi nhục và hoang tưởng ở những xứ
sở thuộc địa; đúng ra, đây là một cuốn sách về điều, tại sao những kẻ
không có một chút quyền lực lại nói dối về chính họ, và với chính họ:
bởi vì đây là của cải độc nhất mà họ có được. Cuốn tiểu thuyết có cái
tên
"Những Kẻ Bắt Chước" (The Mimic Men). Và nó không phải về những sự bắt
chước, mà là về những con người ở những xứ sở thuộc địa "làm trò khỉ",
nghĩa
là bắt chước làm người, làm ra vẻ mình có thân phận con người. Và những
con người như thế đó, sau cùng đi tới chỗ chẳng còn tin tưởng về bất cứ
chuyện gì liên quan tới họ. Mới đây, tôi được người ta đọc cho nghe một
vài
đoạn ở trong đó – đã hơn ba chục năm tôi chẳng rờ tới cuốn sách – và
tôi
chợt hiểu ra rằng: đây là về chứng thần kinh phân liệt ở những xứ thuộc
địa.
Trước đây, tôi không để ý đến chuyện này, là do tôi không hề sử dụng
những
từ trừu tượng để mô tả bất cứ một toan tính văn chương nào. Nếu có,
chắc
là tôi chẳng thể nào viết nổi cuốn sách đó. Nó đã được viết bằng trực
giác,
và hoàn toàn do quan sát, theo kiểu tôi đã nói ở trên: dí sát mắt vào
sự
vật.
Tôi kể sơ qua cõi văn đầu đời của mình như trên, là để cố gắng trình
bầy cho quí vị thấy, qua từng giai đoạn, nơi chốn tôi ra đời đã biến
đổi và phát triển ở trong những gì tôi viết ra: từ cõi têu tếu, tức
cười của cuộc sống nơi đường phố tới một thứ nghiên cứu chứng thần kinh
phân liệt tổng quát. Cái giản dị bỗng biến thành phức tạp.
Hai thể loại tiểu thuyết và du ký đã đem đến cho tôi một cách nhìn, và
bạn sẽ hiểu tại sao đối với tôi, mọi hình thức văn chương đều có giá
trị như nhau. Tôi lấy thí dụ, khi tôi tính viết cuốn thứ ba về Ấn Độ –
hai mươi sáu năm sau cuốn đầu – tôi nhận ra rằng, điều quan trọng nhất
đối với một cuốn du ký như vậy, đó là những con người mà nhà văn đi du
lịch giữa họ. Phải để cho những con người như thế tự định nghĩa về họ.
Nghe
thật giản dị, nhưng nó đòi hỏi một thể loại mới cho cuốn sách, và luôn
cả cho du lịch. Đây chính là phương pháp tôi sử dụng, một lần nữa, sau
đó, khi đi vào thế giới Hồi giáo.
Tôi thấy mình chín mùi, là nhờ trực giác, chỉ nội nó. Tôi không có kế
hoạch, nói về mặt văn học cũng như chính trị. Tôi chẳng hề được dẫn dắt
bằng một tư tưởng chính trị. Điều này theo tôi, là do ảnh hưởng từ tổ
tiên,
ông bà. Nhà văn Ấn R. K. Narayan, mới mất năm nay, cũng chẳng có tư
tưởng
chính trị. Cha tôi, viết những truyện ngắn của ông trong một thời kỳ
thật
tăm tối, chẳng màng tưởng thưởng, ông cũng không có tư tưởng chính trị.
Có thể, tất cả là do chúng tôi, hàng bao thế kỷ, đã bị tách ra khỏi, và
thật xa vời, cái gọi là quyền thế. Điều này đem đến cho chúng tôi một
cách
nhìn đặc biệt. Tôi cảm thấy mình nghiêng về, và thật gần gụi, với chất
tếu
và lòng trắc ẩn, khi nhìn mình, người, và sự vật.
Cũng gần ba mươi năm, kể từ chuyến đi thăm Á Căn Đình của tôi. Khi đó
đang xẩy ra cuộc khủng hoảng du kích. Người ta mong đợi nhà cựu độc tài
Peron, lúc đó sống lưu vong, trở về đất nước. Cả nước sôi sục hận thù.
Những
người theo Peron đang chờ đợi đến lượt họ xuống tay, ân đền oán trả.
Một
người trong số họ, nói với tôi, "Có thứ tra tấn tốt, có thứ tra tấn
xấu". Tra tấn tốt, là cách bạn đối xử với kẻ thù của nhân dân. Tra tấn
xấu, là
cách kẻ thù của nhân dân dành cho bạn. Những người ở phía bên kia cũng
phát
biểu tương tự như vậy. Chẳng làm sao có được một cuộc trao đổi thực sự,
về
bất cứ điều gì, Chỉ có lửa ngun ngút, của đam mê, và mớ từ ngữ chính
trị,
vốn chỉ là một thứ biệt ngữ, vay mượn từ Âu Châu. Tôi cho rằng, "một
khi
biệt ngữ biến những vấn đề nóng hổi của đời thực, trở thành trừu tượng,
và
một khi biệt ngữ, sau chót, đụng độ với... biệt ngữ, khi đó con người
chẳng
còn có lý do, lý tưởng, sự nghiệp hay bất cứ gì gì... Họ chỉ có... kẻ
thù."
Và những đam mê của xứ Á Căn Đình vẫn đang ngun ngút, nóng bỏng, bừng
bừng ở những người con người của đất nước này. Vẫn là những ngọn lửa
đam mê đang đánh bại lẽ phải, và đang... ngốn những mạng người. Vẫn
chưa có giải pháp nào ló ra ở cuối... ngọn lửa.
Bây giờ, tôi sắp xong, việc của tôi. Tôi thật hài lòng, cái gì làm
được, thì đã được làm. Hài lòng vì đã dấn mình hết mức vào con đường
sáng tạo. Bởi vì, nhờ cái kiểu viết bằng trực giác, và cũng bởi vì nhờ
cái bản chất rối rắm của mớ chất liệu của tôi, mỗi cuốn sách hóa ra là
một sự chúc phúc. Cuốn nào cũng làm cho tôi ngỡ ngàng, ngay đúng vào
lúc viết, tôi vẫn
còn ngờ, không biết nó có ở đó hay là không. Nhưng phép lạ lớn lao nhất
đã
đến với tôi, đó là khởi sự viết. Tôi có cảm tưởng – và bây giờ, niềm
hãi
hùng vẫn còn nguyên – rằng tôi có thể thất bại một cách thật dễ dàng,
trước
khi bắt đầu.
Tôi sẽ chấm dứt như tôi bắt đầu, cũng với những tiểu luận tuyệt vời của
Proust, trong Chống Sainte-Beuve: "Những điều đẹp đẽ mà chúng ta sẽ
viết ra, nếu chúng ta có tài, thì ở trong chúng ta, mơ hồ, như nhớ một
giai điệu, đẹp lòng ta, mà không làm sao mường tượng nổi. Những người
bị
ám ảnh bởi trí nhớ mờ nhạt này, về những chân lý chưa hề biết, là thuộc
giống thiên tài... Tài năng thì cũng như hồi ức khiến họ sau cùng gợi
được
điệu nhạc mơ hồ kia, gần gũi hơn, nghe thật rõ, và ghi xuống trang giấy
trắng."
Tài năng, Proust nói; còn tôi, tôi sẽ nói, cơ may, và với rất nhiều lao
tâm khổ tứ.
(Jennifer Tran chuyển ngữ, theo nguyên bản tiếng Anh, và bản tiếng Pháp
của dịch giả Philippe Delamare).
(Gửi HT)
14.1.2002