Nguyễn Quốc Trụ
phụ trách
CHUYỂN NGỮ
|
Trong
Căn Phòng Rưỡi
Gửi
L. K.
Joseph Brodsky
10
Tôi viết thư nhà này bằng tiếng
Anh, bởi vì tôi mong cha mẹ tôi được hưởng một chút tự do, một chút tự
do này,
rộng hẹp ra sao, là còn tuỳ thuộc vào con số những người muốn, hoặc
thích đọc
thư nhà này. Tôi muốn ba má tôi, Maria Volpet và Alexander Brodsky, có
được
thực tại dưới “qui tắc ngôn ngữ ngoại về lương tâm” [a “foreign
code of
conscience”]. Tôi muốn, những động từ tiếng Anh, về sự chuyển động,
diễn tả
những chuyển động của hai cụ. Điều này không làm cho hai cụ sống lại,
nhưng văn
phạm tiếng Anh ít ra cũng chứng tỏ được một điều, đó là con đường giải
thoát
tốt đẹp hơn, từ những ống khói lò hỏa táng của nhà nước, so với văn
phạm tiếng
Nga. Viết về họ bằng tiếng Nga chỉ có nghĩa kéo dài thêm sự giam cầm
của họ,
đẩy họ vào sự vô nghĩa, vô lý, do cái việc hư vô hóa một cách máy móc
kia. Tôi
biết, không nên đánh đồng nhà nước với ngôn ngữ, nhưng chính là xuất
phát từ
thứ tiếng Nga đó, mà hai người già cả, đã mò mẫm hết cơ quan này tới cơ
quan
kia, hết ông cán này tới ông cán khác, với hy vọng có được tờ giấy phép
đi ra
nước ngoài để thăm đứa con trai độc nhất của họ, trước khi họ chết, và
liên
tiếp được trả lời, trong mười hai năm trời ròng rã, là nhà nước coi một
tờ giấy
phép như thế, là “không thích hợp, không có mục đích” [“unpurposeful”].
Chỉ nội
chuyện đó không thôi, sự lập đi lập lại một “lời phán” khốn nạn
như thế,
nó chứng tỏ một sự quen thuộc nào đó, của nhà nước, với tiếng Nga.
Ngoài ra,
ngay cả chuyện, nếu tôi viết tất cả, bằng tiếng Nga, những từ này cũng
chẳng
mong chi có một ngày đẹp trời của nó, nhìn thấy ánh sáng mặt trời, dưới
bầu
trời Nga. Ai sẽ đọc chúng? Một dúm di dân Nga mà cha mẹ của họ, đã
chết, hoặc
sẽ chết, dưới những hoàn cảnh tương tự? Họ, chính họ, hiểu rõ chuyện
này hơn ai
hết. Họ hiểu, cái cảm tưởng đó là như thế nào, khi không được phép nhìn
mẹ cha
của họ, khi ông hay bà nằm trên giường chờ chết; sự im lặng tiếp theo
yêu cầu
của họ, về một giấy nhập cảnh khẩn cấp, để dự đám tang của người thân.
Và rồi
thì, mọi chuyện đều quá trễ, và người đàn ông, hoặc đàn bà đặt chiếc
ống nghe
điện thoại xuống, bước ra khỏi một cánh cửa, bước vào một buổi chiều ở
nước
ngoài, cảm thấy một điều mà chẳng ngôn ngữ nào có từ ngữ để diễn tả, và
dù có
la, rú, hét, khóc than cỡ nào cũng vô ích… Tôi sẽ phải nói với những
người đó
điều gì? Bằng cách chi, tôi có thể an ủi họ? Chẳng có một xứ sở nào làm
bố một
xứ sở như là nước Nga, trong nghệ thuật huỷ diệt tâm hồn những con
người như
trên đây. Và chẳng có một cá nhân người viết nào, với cây viết ở trong
tay, lại
có thể làm lành lặn những tâm hồn đó; không, chỉ có Trời, Phật, Thần
Thánh mới
có thể làm được điều này. Chính là vì lý do đó, mà Đấng Thiêng Liêng
kia mới có
mặt trong suốt Thời Gian Của Người. Cầu Trời cho tiếng Anh là nhà cho
cái chết
của tôi. Trong tiếng Nga, tôi được sửa soạn để đọc, viết những dòng
thơ, hay lá
thư. Tuy nhiên, với cha mẹ tôi, Maria Volpert và Alexander Brodsky,
tiếng Anh
mới là thứ tiếng dâng hiến cho họ một dáng vẻ đẹp hơn, về một đời sau,
và có lẽ
cũng chỉ có nó, trừ của tôi ra. Và nếu nói về thứ ngôn ngữ thứ nhì tức
tiếng
Anh, viết bằng thứ tiếng này thì cũng giống như đang làm cái công việc
rửa chén
dĩa, rất tốt cho sức khỏe, như mẹ tôi đã mừng rỡ khi biết thằng con của
bà vừa
rửa một mớ chén dĩa xong, là bèn gọi điện thoại cho mẹ liền!
11
Cha tôi là ký giả - nhiếp ảnh
viên nhật báo, chính xác là vậy - mặc dù ông cũng viết báo nữa. Ông
viết chủ yếu
cho những tờ báo nhỏ, và như thế, chúng chẳng hề được đọc, và hầu hết
bắt đầu bằng
những dòng “Những đám mây bão nặng nề trên vòm trời biển Baltic…”, ông
tin rằng,
mở ra bằng một tin tức thời tiết như thế sẽ khiến cho người đọc cho
rằng đây là
một cái tin đáng đọc, đáng tin cậy. Ông có hai cái bằng, một về địa dư,
của Đại
học Leningrad, và một, báo chí, của Trường Báo Chí Đỏ [School of Red
Journalism].
Ông học môn thứ nhì, sau khi biết rằng, những cơ may đi du lịch, đặc
biệt là du
lịch nước ngoài, kể như tiêu: là một người Do Thái, con trai một người
chủ tiệm
in, lại không phải là Đảng viên, thôi đừng mơ những chuyện hão huyền đó
nữa
nhé, ông đành nói với mình như vậy.
Báo chí [tới một mức nào đó] và
chiến tranh [cơ bản] tạo được sự cân bằng, làm mất đi sự bất công kể
trên. Hai
chân ông phủ lên một phần sáu bề mặt trái đất [đây là định nghĩa tiêu
chuẩn bề
mặt lãnh thổ Liên Bang Xô Viết], và không nhỏ, những sông ngòi, biển
cả. Mặc dù
thuộc Hải Quân, chiến tranh khởi sự đối với ông, là vào năm 1940, ở
Phần Lan,
và chấm dứt vào năm 1948, tại Trung Hoa, nơi ông được phái tới, cùng
với một
nhóm cố vấn nhà binh để giúp đỡ me-xừ Mao trong những cuộc tấn công nổi
dậy của
ông ta, và chính từ đất nước này, mà chúng tôi có được hai ngư ông
người Tầu
bằng sành, và bộ đồ ăn Trung Hoa mà mẹ tôi muốn chuyển giao cho tôi,
khi tôi
lấy vợ. Giữa thời gian đó, ông còn hộ tống Allies’ PQ tại biển Barents
Sea,
chống giữ và sau đó thất thủ Sevastopol tại Biển Đen, gia nhập – sau
khi pháo
thuyền của ông bị chìm – đơn vị Thuỷ Quân, Marines, như khi đó gọi vậy.
Trong
thời gian thành phố Leningrad bị vây hãm, ông được phái tới tiền phương
mặt
trận Leningrad, chụp những tấm hình thật là đẹp, như tôi đã từng được
nhìn
thấy, khi được in ra, về thành phố bị vây hãm, và sau đó, ông tham dự
cuộc giải
vây, [phần này của cuộc chiến, theo như tôi tin tưởng, là phần ảnh
hưởng sâu
đậm nhất tới ông, vì nó quá gần với gia đình của ông, tới nhà của ông.
Nhưng,
nếu nói về những gì gần gụi ông nhất, thì ông đã mất căn phòng của ông,
người
chị/em độc nhất của ông: vì bom, và vì chết đói]. Sau đó, ông được phái
trở lại
vùng Biển Đen, đổ xuống khu vực tệ hại là Malaya Zemlya, chống giữ nó;
rồi thì,
khi mặt trận chuyển về hướng Tây, đi theo đơn vị pháo thuyền đầu tiên
tới
Rumania, đổ quân tại đây, và, trong một thời gian ngắn, là vị toàn
quyền nhà
binh của Constanza. “Chúng tôi đã giải phóng Rumania”, đôi lúc, ông hào sảng về mình như vậy, và có
khi còn hảo
sảng thêm một chút nữa, nghĩa là nói về những lần gặp gỡ giữa ông với
nhà vua
King Michael. Đó là ông vua độc nhất mà ông đã từng gặp; còn Mao, Tưởng
Giới
Thạch, không nói tới Stalin, ông chỉ coi là những tên tiếm ngôi, soán
nghịch.
12
Chuyến đi Tầu của cha tôi, cho dù
là vì một công chuyện tinh ma quỉ quái gì gì đi chăng nữa, thì chỉ có
căn nhà
kho nhỏ bé, mấy chiếc tủ, và mấy tường nhà, được hưởng lợi. Những nghệ
phẩm lần
sau chót được đem ra trình diễn, đều là từ Trung Hoa: mấy bức tranh
bần, mầu
nước, những cây kiếm của mấy ông samurai, những bức màn nhỏ bằng lụa.
Hai ông
ngư ông lúc nào cũng như có chút men ở trong người, là những nhân vật
cuối cùng
xuất hiện trong đám cư dân bằng sành, gốm, những con búp bế, và những
con chim
cánh cụt đội nón, chúng dần dần biến mất, nạn nhân của những cử chỉ cẩu
thả,
hơi mạnh tay, hoặc là phải nhường chỗ cho những món quà sinh nhật của
bà con
chú bác. Cũng biến đi chỗ khác cho được việc, là những cây kiếm, chúng
đành
phải đầu hàng mấy tay thu gom của nhà nước, lý do là, những khí giới
nguy hiểm
như thế không phải thứ thường dân có thể nghịch ngợm, táy máy! Chơi dao
có ngày
đứt tay: Đúng là một lời khuyên bảo hữu lý, nhất là lúc sau này, thằng
con trai
độc nhất của hai cụ khiến đám công an tới Căn Phòng Rưỡi của chúng tôi,
để hỏi
thăm sức khoẻ của hai cụ hơi nhiều! Còn bộ đồ ăn bằng sứ Trung Hoa, cái
này thì
thật kỳ, tôi muốn nói sự biến mất của chúng, nhưng bà mẹ của tôi không
muốn
nhìn, không muốn nghe thấy nói tới, dù chỉ một cái dĩa kiểu, ở trên bàn
ăn “của
chúng tôi”: “Những thứ của quí đó đâu để cho những con người nhếch
nhác”. Cụ sẽ
nhẫn nại vô cùng, khi giải thích cho chúng tôi. “Mà mấy người thì thật
là nhếch
nhác. Quá nhếch nhác!”. Vả chăng, những chén dĩa mà chúng tôi đang dùng
thì
cũng lịch sự chán. Quá lịch sự là đằng khác. Mà lại rất ư là cứng cáp,
khoẻ
mạnh, không mảnh khảnh, làm dáng như ba thứ đồ Tầu, đồ Sứ!
Tôi còn nhớ, một buổi tối âm u,
lạnh lẽo, vào tháng Chạp năm 1948, trong căn phòng nhỏ, mười sáu mét
vuông, nơi
mẹ tôi và tôi sống, trong và sau khi chiến tranh chấm dứt. Buổi chiều
hôm đó,
Cha tôi từ Trung Hoa về. Tôi nghe tiếng chuông cửa, mẹ tôi và tôi chạy
ra trước
cửa, chỗ đèn sáng mờ mờ bỗng như tối hẳn đi với những bộ đồng phục Hải
quân:
cha tôi, bạn của cha tôi, và đồng ngũ, Đại Uý F.M., và một nhóm quân
nhân đi vô
hành lang, khiêng ba cái thùng lớn, có móc cài của người Trung Hoa, bốn
phiá
chung quanh trang trí những chữ Trung Hoa giống như những con bạch tuộc
khổng
lồ. Và sau đó, Đại Uý F.M. và tôi ngồi ở bàn, trong lúc cha tôi mở mấy
chiếc
thùng, và mẹ tôi, trong chiếc áo dài bằng nhiễu Trung Hoa mầu vàng
hường, vừa
vỗ tay vừa la lên, “Ach, oh wunderbar!”, bằng tiếng Đức, thứ tiếng thời
thơ ấu
của bà tại Latvia, và thứ tiếng hiện bà đang sử dụng, vì bà làm thông
ngôn
trong một trại tù binh chiến tranh người Đức. Và Đại Uý F.M., một người
đàn ông
cao, thon, rắn chắc trong bộ đồ quân phục xanh đậm, không cài nút, tự
rót cho
mình một ly từ cái bình rượu, và nháy mắt với tôi, như với một người
lớn. Những
chiếc thắt lưng lỉnh kỉnh ba cái móc neo, ba cái bao súng ngắn thì được
để trên
thành cửa số. Chiến tranh hết rồi, bây giờ là hoà bình. Tôi thì còn nhỏ
quá, để
mà nháy mắt đáp lại ông Đại Uý.
13
Bây giờ, tuổi ở vào đúng tuổi của
cha tôi, buổi chiều tháng Chạp năm đó: Tôi bốn muơi lăm tuổi, và tôi
lại nhìn
thấy khung cảnh bữa đó, thật là rõ ràng đến không thể tin được, cứ như
thể nó
đang xẩy ra trước mắt tôi, mặc dù tất cả những người ở trong khung cảnh
đó thì
đều đã chết, trừ tôi ra. Tôi nhìn thấy cảnh đó quá rõ, quá thật đến nỗi
tôi có
thể, và bèn nháy mắt lại với Đại Uý F.M…. Nhưng làm như thế, là có
nghĩa gì?
Giữa hai cái nháy mắt, cách nhau gần bốn chục năm, liệu có một ý nghĩa,
và ý
nghĩa này, nó chừa tôi ra, nó tránh né tôi? Liệu, đời sống là như vậy
đó? Nếu
không phải như vậy, thì tại sao có sự rõ ràng đó? Rõ ràng như vậy, là
để làm
gì? Câu trả lời độc nhất đối với tôi,là: Rằng, cái giây phút đó, khung
cảnh đó
hiện hữu, rằng, không thể nào quên được, cho dù những diễn viên đã bỏ
đi, kể cả
chính tôi. Chỉ bằng cách như vậy bạn mới thực sự hiểu ra được điều quí
giá biết
là chừng nào này: chiến tranh hết rồi, và bây giờ hòa bình tới. Nó tới,
và nó
lừng lững đi vào trong một gia đình, là gia đình tôi. Cũng cùng một
“dấu ấn”
như vậy, bạn sẽ hiểu ra được những giây phút, những thời điểm, rằng
chúng “có
đó”. Hãy kể ra này: Sự trở về, từ chiến trường, của một ông bố, sự mở
ra, một
cái thùng, mang từ Trung Hoa về. Chính vì thế mà nó rõ ràng, nó hiển
hiện, như
vừa xẩy ra, như đang xẩy ra. Hay là, biết đâu đấy, có khi chỉ vì bạn là
con
trai của một ông bố nhiếp ảnh viên, và cái hồi ức của bạn, nó mở ra,
giản dị
như một cuộn, một thước phim. Chụp với hai con mắt, với tầm nhắm, của
chính
bạn, hầu như từ bốn chục năm về trước. Chính vì vậy, cho nên bạn mới
không thể
nháy mắt đáp lại, vào lúc đó.
còn tiếp
NQT
dịch
tanvien.net
|