gau
Nguyễn Quốc Trụ
phụ trách

CHUYỂN NGỮ






Trong Căn Phòng Rưỡi

Gửi L. K.
Joseph Brodsky
 

6

Tôi nhớ lại tất cả những gì vừa kể ra trên, không phải là do hoài hương, nhưng bởi vì đó là nơi mẹ tôi trải qua một phần tư cuộc đời của bà. Người trong gia đình ít khi kéo nhau đi ăn tiệm, thay cho một bữa nấu tại gia; ở Nga, hầu như chẳng bao giờ. Tôi không nhớ hình ảnh bà cụ, hoặc ông cụ, qua một bàn ăn tại nhà hàng, hay tại một tiệm cà phê. Bà mẹ tôi là người nấu ăn số một mà tôi đã từng được biết, trừ một ngoại lệ, có lẽ, là Chester Kallman; nhưng tay này, nói cho cùng, chỉ hơn bà cụ tôi, là có trong tay nhiều gia vị hơn! Tôi nhớ cụ nhất, thường là khi cụ ở nhà bếp, với cái tạp dề, mặt đỏ ửng, và cặp kiếng mắt mờ đi vì hơi nước, cụ xua tôi ra xa khi xán gần bếp, tính nhón món này hay món nọ còn nóng bỏng ở trong lò. Môi trên bà long lanh mồ hôi; mớ tóc ngắn, cắt gọn, khô đỏ nhưng mà là mầu xám, thì rối bù. “Đi chỗ khác!” bà la lên. “Con không đợi được hả?” Tôi sẽ chẳng bao giờ còn được nghe những lời như thế nữa.

Tôi cũng chẳng bao giờ còn nhìn thấy mẹ mình mở cửa (làm sao bà mở, hai tay bận cái xoong, hoặc hai cái chảo? Bằng cách hạ chúng xuống ngang then cửa và đè chúng lên đó?), và mang vô cho chúng tôi bữa chiều/bữa xúp/bữa trà/bữa điểm tâm. Cha tôi, lúc đó đang đọc báo, còn tôi, sẽ không rời cuốn sách nếu không được ra lệnh, và, mẹ tôi biết rất rõ, chẳng hy vọng gì ở hai người này, bởi vì bất cứ phụ giúp nào của hai cha con chúng tôi, chỉ làm chậm, hoặc có khi lóng ngóng đến làm hỏng bữa ăn! Hai bố con, tức những người đàn ông trong gia đình của bà, đã hiểu rất rõ, thế nào là lịch sự, hơn là chính họ có thể chủ động, ở trong những công việc cần tới lịch sự như thế. Ngay cả khi cả hai đều đang đói. “Ông lại đang đọc Dos Passos của ông?”, bà cụ có thể sẽ đưa ra một lời nhận xét, khi dọn bàn. “Ai sẽ đọc Turgenev? Ông hy vọng gì ở ông ta?”, và cha tôi sẽ trả lời, như một tiếng vang đáp lại, trong khi gấp tờ báo. “Một kẻ ăn không ngồi rồi”.

  7

 Làm sao tôi có thể tưởng tượng, cũng có tôi ở trong một khung cảnh như vậy? Nhưng mà rõ ràng là như vậy đấy, như tôi nhìn rõ cả hai ông bà. Lại một lần nữa, ở đây, không phải là hoài nhớ tuổi trẻ của tôi, quê hương xa xưa của tôi. Không, còn hơn cả thế, bây giờ, khi hai cụ đều đã mất, tôi nhìn thấy cuộc đời của họ, như cuộc đời của hai cụ đã từng như thế; và như thế, cuộc đời của hai cụ ôm, gồm cả tôi. Và cũng thế, họ cũng sẽ nhớ về tôi, ngoại trừ bây giờ, họ có được cái khả năng quí báu là có mặt ở tất cả mọi nơi, và vào lúc này, đang quan sát đứa con trai của họ, ngồi trong phòng bếp của một căn hộ thuê của trường học, viết những dòng này, bằng một thứ chữ mà cả hai đã không hiểu, mặc dù bây giờ cả hai đều không cần tới chúng nữa. Bây giờ cả hai đều thuộc về một thế giới khác. Đó là dịp may độc nhất mà họ có, để được nhìn thấy đứa con trai của hai cụ, ở bên Mỹ. Và đó là cách độc nhất, để tôi nhìn thấy hai cụ, và căn phòng của chúng tôi.

  8

 Căn phòng của chúng tôi, trần cao chừng mười bốn feet, có thể hơn. Cũng vẫn theo kiểu Moor cộng thêm những vết nứt rạn, những loang lổ, do ống nước từ những phòng phía trên dò rỉ xuống, nó biến thành một tấm bản đồ chi tiết thật chi li, thuộc về một siêu cường chưa từng hiện hữu hoặc một quần đảo. Có ba cửa sổ rất cao, hình vòng cung, qua chúng, chúng tôi có thể nhìn, chẳng thấy gì, ngoại trừ, ngôi trường trung học, ở bên kia con phố, nếu không nhìn từ cửa sổ chính, vốn còn được dùng như là lối ra bao lơn. Từ bao lơn, chúng tôi có thể nhìn dọc theo hết con phố, đúng kiểu phố St. Petersburg. Cuối tầm nhìn, là bóng dáng đẹp vô song, của vòm cung nhà thờ St. Panteleimon, hay, nếu nhìn về phía bên phải, là công trường lớn, và ở ngay trung tâm của nó, là Vương Cung Thánh Đường [Cathedral of the Savior of Her Imperial Majesty’s Transfiguration Battalion].

 Vào thời gian chúng tôi dọn tới kỳ quan Moor, tức Căn Phòng Rưỡi của chúng tôi đó, con phố vẫn còn mang tên Pestel, một trong những thủ lãnh của nhóm Decembrists, đã bị hành hình. Tên khởi thuỷ của nó, là theo tên nhà thờ ở mãi cuối phố: Panteleimonovskaya. Ở đó, khi con phố cùng đường, nó bèn vòng theo ngôi nhà thờ và chạy về phía sông Fontanka River, vượt qua cây cầu Police Bridge, và đem bạn tới Vườn Mùa Hạ, Summer Garden. Pushkin đã từng ở tại khu phố này, và đâu đó, trong thư viết cho vợ, ông nói, là, “sáng nào cũng như sáng nào, trong chiếc áo ngủ, chân mang đôi giầy mềm, tôi băng qua cầu, làm một cuộc đi dạo Vườn Mùa Xuân. Cả Vườn Mùa Xuân là khu vuờn của tôi, my orchard…”

 Nhà của ông, Số 11, tôi nghĩ vậy. Còn của chúng tôi, Số 27, và đó là cuối con phố, khi nó trầm mình vào quảng trường nhà thờ. Còn điều này nữa, vì building chúng tôi nằm ở nơi con phố cắt đại lộ đã đi vào huyền thoại, Liteiny Prospect, thành thử địa chỉ thư tín của chúng tôi là Liteiny Pr. #24, Apt. 28. Đó là nơi chúng tôi nhận thư từ của chúng tôi; đó là nơi tôi viết trên những chiếc phong bì của những lá thư nhà, gửi cho hai cụ. Tôi nhắc tới ở đây không phải bởi vì nó có một chút ý nghĩa gì đặc biệt, nhưng là do, ngòi bút của tôi, có thể thông cảm với chủ nhân của nó, rằng, đây là lần cuối cùng, và rồi ra, nó sẽ chẳng bao giờ phải viết địa chỉ đó nữa.

  9

 Lạ một điều, ba thứ đồ đạc trong căn phòng lại tỏ ra ăn ý với phía bên ngoài cũng như là phía bên trong building. Chúng như quấn quit, bận bịu với nhau, bằng những đường cong, bằng tính hoành tráng toát ra từ cái vẻ mốc meo của vôi, của vữa, ở mặt tiền, hay ở những tấm ván, những cột trụ, từ bên trong tường nhô ra, cuộn trên cột, là những vòng hoa vữa, những trái cây được trang trí theo kiểu hình học. Cách trang trí, cả ngoại lẫn nội thất, làm tỏa ra một cái bóng dáng mầu nâu nhạt trộn mầu sữa cô ca. Tuy nhiên, hai cái tủ lớn của chúng tôi, giống như thứ ở nhà thờ, có ô kéo, thì lại bằng gỗ sồi, đánh véc ni đen, nhưng chúng cũng thuộc về cùng một thời kỳ, tức bước ngoặt của thế kỷ, như tòa building, chính nó. Có thể chính vì thế mà lối xóm tỏ ra dễ chịu với chúng tôi, ngay từ đầu. Có thể chính vì vậy, cũng nên, mới chưa đầy một năm, mà chúng tôi đã có cảm giác, sống ở đây hình như là, tự muôn đời. Cái cảm giác đó lây lan đến cả những đồ đạc, rằng, hai cái tủ lớn của chúng tôi sau cùng đã kiếm ra nhà của chúng, rồi cái cung cách vòng vo này nọ, sao đó, khiến cho chúng tôi nhận ra rằng, chúng tôi, cũng vậy, như vậy là đã an cư, và sẽ chẳng còn dời đổi nữa.

 Hai cái tủ hai tầng, to lớn, cao mười feet của chúng tôi đó [bạn phải tháo mấy cạnh tủ ra khỏi cái đáy chân voi, mỗi lần muốn di chuyển], chúng chứa đựng gần như tất cả những gì gia đình chúng tôi nhặt nhạnh được, dòng dã suốt cuộc đời của chúng. Cái vai trò của gác xép, hay hầm nhà, ở mọi nơi khác, trong trường hợp của chúng tôi, là do hai cái tủ trình diễn. Những máy quay phim, đủ thứ hầm bà lằng của cha tôi, dụng cụ rửa phim, phim ảnh, chính chúng, những dĩa, đồ sứ, vải lanh, khăn trải bàn, hộp đựng giầy với những đôi bây giờ quá nhỏ đối với ông, nhưng vẫn còn rộng đối với tôi, những dụng cụ kìm kéo, tuộc vít, những cục pin, bộ đồ lính thuỷ cũ rích của ông, những chiếc ống nhòm, an-bum gia đình, mũ nón, khăn quàng của mẹ tôi, mấy lưỡi dao cạo râu Solingen bằng bạc, ba thứ đèn chụp hình hết xài, mớ huy chương nhà binh của cha tôi, những bộ kimonos nhiều mầu của mẹ tôi, thư từ trao đổi giữa hai người, kiếng đeo mắt, thứ dùng khi đi coi nhạc hội, hoặc coi diễn kịch, ba cái quạt máy, những món đồ kỷ niệm này nọ - tất cả được nhét vô đáy tủ, và mỗi lần mở ra, là mở ra một mùi quần áo cũ, và một mớ bụi. Phần dưới tủ, ngay phía bên trên, giống như trên mặt lò sưởi, hai cái bình thuỷ tinh, đựng rượu, ngồi chung với hai ngư ông người Tầu, bằng sành, đang kéo câu. Mẹ tôi, cứ hai lần trong một tuần, mở ra, và lau bụi cho mấy món đồ này.

 Ba thứ đồ lẩm cẩm, linh tinh đó, nói gì thì nói, khi phải nhìn ngoái lại, chúng có thể được coi như một thứ tâm tư góp nhặt theo dòng đời của gia đình chúng tôi, nối kết lại với nhau, nhưng vào lúc đương thời của chúng, tôi chẳng hề để ý tới. Ít nhất thì nó là như vầy: tất cả những đồ vật đó, chúng là một phần của ý thức của cha mẹ tôi, những dấu hiệu của hồi nhớ: về những nơi chốn, những thời kỳ trước tôi; về quá khứ chung, và riêng, trước khi gặp nhau, của ông bà, về tuổi trẻ và tuổi thơ của riêng từng người, về một thời đại khác biệt, một thế kỷ khác biệt. Vẫn theo dòng nhìn ngoái lại đó, tôi có thể nói thêm, điều này: về sự tự do của ông bà, bởi vì họ sinh ra tự do, và lớn lên tự do, trước khi có cái mà đám cặn bã ngu đần kia gọi là Cách Mạng, nhưng với họ, và nhiều thế hệ khác, nó có nghĩa là nô lệ.

 [còn tiếp]

 NQT dịch

tanvien.net