TƯỞNG NIỆM
|
Kỷ niệm với
nhà thơ
Fri, 24 Mar 2006 01:14:44 -0800 (PST)
[…] xin chia buồn với anh về sự ra đi
của ông Thanh Tâm
Tuyền, một người dường như đã mang một phần đời của anh.
Hay, anh mang một phần đời của ông ấy?
Một độc giả
*
Đây là một số kỷ niệm
của riêng Gấu, với nhà thơ vừa ra đi.
Nếu chúng có một ý nghĩa nào đó, thì là, theo như một nhà văn
(1), người này có lần dè bỉu những bài phỏng vấn của tờ Paris Review,
ba cái
chuyện nhà văn này đi ngủ mặc bộ đồ pijama mầu gì, nhà thơ kia xài viết
bi hay
viết mực… thì đâu có liên can tới văn chương, nhưng sau, chính người
này lại
hiểu ra, đây là một thứ nguyên liệu ròng, còn ở dạng thô, của nó.
Viết ra, sau này, biết đâu, nhờ chúng,
người đời giải ra
được một số kỳ tuyệt, nhưng lại rất ư là khó hiểu, ở một tác giả.
Chúng là một thứ tiền văn chương, thì cứ nói đại như vậy.
Viết ra, để sau
này, có một người nào đó,
đọc chúng, và trả
lời giùm cho Gấu câu hỏi, ở trên, của một độc giả Tin Văn.
*
Thí dụ như kỷ niệm này. Gấu đã từng
kể.
Khi nhà thơ còn là
một sinh viên, ở Hà Nội, do nhà nghèo, phải đi dậy học mãi tít trong Hà
Đông.
Sáng đi trống bụng, trưa về bụng trống, và ông con nhà thơ tương
lai phều
phào nói với mẹ, con chắc bị ốm, người cứ lả đi...
Bà cụ phán, chắc
nịch, ốm gì
mà ốm. Tại đói quá đấy!
Chi tiết đời thường đó, biết đâu, là
nguyên liệu ròng, cho
hai dòng thơ:
Muốn làm người học trò mười bẩy tuổi,
Đạp xe trên đường đồng...
Đó
là những dòng chữ dị thường cho một
thời đại cũng dị
thường.
Trần Khải
(1) Wilfrid Sheed,
trong một bài giới thiệu tuyển tập Nhà
văn khi viết, Writers at work của tạp chí The Paris Review, (Penguin
Books, 4th
series, 1979) đã coi đây như một dịp "xin lỗi người đọc", về một định
kiến của ông đối với những bài phỏng vấn nhà văn/nhà thơ tạp chí này
thường thực
hiện. Bởi vì có lần tác giả viết: những thông tin ở trong đó chẳng khác
gì
chuyện ngồi lê đôi mách, làm xàm, bá láp về giới viết lách. Chuyện
những cây
viết chì-số hai của Hemingway, hay Aldous Huxley mặc áo ngủ loại nào,
thì đâu
có ăn nhậu gì tới văn chương? Nhưng rồi tác giả nhận ra, trong những
câu chuyện
tầm phào như thế, chứa đựng "nguyên liệu số một", materia prima, của
văn chương.
Tưởng niệm
Bùi Giáng
*
Những ngày Mậu Thân, cấm trại một trăm
phần trăm. Nhà thơ
Trung Uý phải trực chiến tại Cục Tâm Lý Chiến, ngay chân cầu Thị Nghè.
Nhà Gấu
cũng kế ngay đó: 29/8D đường Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Tối, không biết làm gì, mấy ông bên trại lính cũng kế ngay
đó - khu Kho Đạn ngày còn Tây, liệt sĩ Lê Văn Tám đã có lần đốt thân
mình thành
đuốc, chạy vô đây, cho kho đạn nổ tung, sau hoá là "phịa cả" [chữ của
nhà thơ Chiến Thắng Điện Biên, Tố Hữu] - bèn rủ nhà thơ đánh chắn.
Đánh chắn thì phải có tay. Nhiều lần, thiếu tay, ông kêu
Gấu.
Ôi chao, đến bi giờ Gấu còn nhớ cái
thú, chui qua những con
tường, đi xuyên suốt khu này, để tới chiếu chắn. Vừa đi vừa tưởng
tượng, như
mình đang cùng hành quân xuyên qua tường, như đám tự vệ thành, những
ngày toàn
quốc kháng chiến tại Hà Nội, trong tiểu thuyết Sống Chết Với Thủ Đô,
của Nguyễn
Huy Tưởng, mà Nguyễn Tuân đã từng suýt soa!
Chính là trong những lần như vậy, ông
kể cho Gấu nghe, về
cái chết của một Trung Tá, sau đi vào Một
Chủ Nhật Khác.
"Ông chết cách
đây mấy tháng. Một trái lựu đạn nhỏ bằng trái chanh đã nổ
trong gian phòng ông ngủ ban đêm. Gian phòng chếch với gian phòng của
Kiệt thuộc khối nhà bên kia quảng trường. Nằm đây bên cạnh cửa sổ kính
dầy, Kiệt chỉ ngó thấy được gian phòng ấy bằng tưởng tượng. Gian phòng
không ai dám ở nữa, lỗ chỗ những mảnh lựu đạn trên cửa, trên tường,
trên sàn."
Một
Chủ Nhật Khác
From:
Date:
Sunday, March 26, 2006 02:23:26
To:
Subject:
Anh co biet ai giu vo kich “Ba chi em” cua anh Thanh Tam
Tuyen khong?
MN
Một
câu hỏi thật thú vị.
Ba chị em của TTT là kịch truyền thanh. Kịch để đọc. Nó gồm mấy màn độc
thoại. Hết bà chị ra sân khấu, lại tới cô em, cứ thế nói một mình. Rồi
màn chót, ba chị cùng ra, trong khi căn nhà cháy đùng đùng. Hình như bà
chị lớn, nói, cả ba hãy cùng chết với mẹ, một trong hai cô em, nói, tôi
không giống bà đó, tôi không muốn chết.
Chị
Em Hải của NĐT, theo tôi, là từ Ba Chị Em mà ra.
Lạ nữa là, sau này, Linda Lê cũng lấy lại đề tài này, viết Les trois
Parques. Bà này chắc chắn chưa từng đọc TTT!
Trong Trăng Huyết của Ngọc Minh, ba chị em còn... hai anh em.
Và
những ai sau này nữa. Hãy tha thứ cho tôi. Hãy tha thứ cho anh em tôi...
Trăng Huyết
Con số ba là con số khủng khiếp. Nhất sinh nhị, nhị sinh tam, tam sinh
vạn vật.
Bắc sinh Trung, Trung sinh Nam. Bắc đợp Trung Nam sinh ra Con Bọ!
Nhớ,
hồi còn nhà thơ, một lần ngồi Quán Chùa cùng lèm bèm về cuộc chiến, ông
than, có nước nào mở ra bằng huyền thoại chia ly như cái nước mình, cái
gì tao đem 50 đứa lên núi, mi đem 50 đứa xuống biển.
Xin
khúc giữa những máu cùng me,
Xin khúc đuôi tha hồ mà đuổi.
Đồng dao
Tha
hồ mà đuổi? Ý muốn nói cuộc tan hàng, rã đám, chạy ra biển, và tan tác
ra khắp thế giới của người Việt?
Nhưng
con số ba quả là ly kỳ. Hãy đọc bài Nabokov bàn về Con Bọ của Kafka:
ông cũng bị con số ba hớp hồn, và coi đây là cấu trúc của Con Bọ.
Y như cái xứ sở hình chữ S!
Bài này,
Gió O vừa post,
lần
đầu tiên đăng trên Tiền Tuyến, nhân mùa thu, bão, lụt, và nhân
người đẹp, "độc hơn thịt vịt", là Hoàng Hậu
nước Mẽo, Jackie, đang ca bài bye bye nước Mẽo, để bước đi bước nữa.
Ký là ký giả Ba Tê. Trong mục Tạp Ghi do Trưởng Lão Cái Bang, Phan
Lạc Phúc phụ trách
Độc thì Đẹp. Đó là lẽ đương nhiên.
Chẳng thế mà Đinh Hùng than, khi bị
một em chanh cốm hành hạ:
Nhan sắc ấy chớ nên tàn nhẫn vội! (1)
(1) Jackie, khi còn con nít, bị một thằng khốn nạn đi cùng thang máy
làm bậy. Bà trả thù, nhằm... chính ông chồng của mình!
Thế mới thảm. Thế mới độc. Thế mới đẹp!
*
Mai Hoa, trong bài này, và
trong
(Bình minh
bình minh anh kêu khẽ cảm
động muốn khóc
Mai Mai xa
Mai như hoa Mai về
tình thơ
hôm nay)
Em, em có
hay kẻ tội đồ biệt xứ
sớm nay về ngang cố quận
Xao xuyến ngây ngô hắn dọ hỏi bóng tối sâu thẳm
Đêm vây
hãm lụn dần
Thủ thỉ mưa ru ngày khốn đốn
Em, soi
bóng em hồn nhiên trên lối thời gian
Lặng lẽ anh gầy nhóm lửa tinh mơ đầm ấm.
Cùng lúc đọc, viết. Truyện
ngắn đầu tay của tôi, Những Ngày
Ở
Sài Gòn...
Xong,
gửi báo tuần báo Nghệ Thuật. Truyện được đăng, sau
đó được tòa soạn nhắn xuống lấy tiền nhuận bút.
Kinh
nghiệm Nguyễn Đình Thi
Người, lúc đó
ngồi ở tòa soạn, gọi điện thoại tới Sở của Gấu, kêu,
xuống lấy tiền nhuận bút, là Thanh Tâm Tuyền.
Lúc đó, Gấu
còn
trẻ, cầy hai job, một bưu điện, một UPI, độc thân, chưa
cần tiền, chỉ cần danh, mà phải là nhà dzăn mới được, bèn nói, bữa nào
em xuống cũng được.
Ông
nạt liền:
-Xuống lấy
liền! Viết văn cho các báo là phải lấy tiền! Không có tiền
nhuận bút là
không viết!
*
Lúc
đó tôi là
binh nhì ở Cục Tâm Lý Chiến, có lần quá bực
ông “sếp văn nghệ”, thổ lộ với anh Tâm rằng tôi định xin đi học lại nốt
giai
đoạn 2 ở trường sĩ quan trừ bị Thủ Đức. Anh Tâm bảo: “Cậu chớ để cái tự
ái nó
hại mình. Chịu đựng được ông sếp nhiều trái tính trái nết đó cậu mới
khá.”
Chàng nhạc sĩ
“ăn cơm Quốc Gia thờ ma Cộng Sản” đang ngồi ở
bàn uống cà phê giữa sân nhà anh Tô Thùy Yên, anh ta vụt đứng dậy, nói
với
theo, giọng trọ trẹ tiếng Huế: “Tôi tệ hại chi mô mà anh không ưng gặp
mặt?”
Nguyễn Đạt
Thực tình mà
nói, trong một bài tưởng niệm chẳng nên nhắc đến
những kỷ niệm như thế này.
Ông ‘sếp văn
nghệ’, là bạn của người vừa mới ra đi, theo như
Gấu được biết. Và qua cách viết như thế, NĐ chắc là chưa ngộ ra lời
khuyên của
‘anh Tâm’, nhất là cái khúc 'cậu mới khá'!
Còn chàng nhạc
sĩ, thì cũng là một bạn thân của bạn thân “anh
Tâm”! Có thể anh Tâm chơi được với ông kia, mà không thể chơi được với
ông nhạc
sĩ, ấy chỉ vì sự đời nó muốn ra như thế!
Tuy nhiên, kỷ
niệm về một con Lu thì thật nên nhắc! Một con
Lu cân bằng lại, thì cũng đỡ cái tội của ông em ngày nào của Gấu.
Bây giờ, ông
em viết hách xì xằng quá, Gấu này không còn dám thấy người
sang bắt quàng làm họ nữa!
Còn
nhớ, một lần ngồi Quán Chùa, chỉ có hai “anh em” là thi sĩ Thanh Tâm
Tuyền, và Gấu tôi, câu chuyện lòng dòng không biết sao dẫn tới Sartre.
Ông bảo tôi, Sartre viết cuốn đó, La Nausée, Buồn Nôn, bị nhà xb vứt
vào thùng rác, coi
đây chỉ là một cuốn tiểu thuyết bình dân, lại còn thuổng của
Dostoievsky…
Đây chỉ là viết theo trí nhớ cuộc nói chuyện không biết từ đời tám
hoánh nào, thời cực thịnh của Quán Chùa, nhưng có một chi tiết thật
tuyệt vời mà ông kể lại cho thằng em. Ông bảo, Sartre khi viết cuốn đó,
lúc nào cũng cảm thấy cua bò trên lưng!
Tôi nói:
-Em mê cuốn này lắm!
Ông trợn mắt:
-Cậu hiểu “nó” hả?
Tôi thu hết can đảm, nói “xưng xưng”:
-Em nghĩ là em hiểu!
Ông nói:
-Vậy là cậu hơn tôi rồi!
Ông
nói một cách thật lòng. Tôi tin như vậy.
Và bao nhiêu năm sau này, mãi đến bây giờ, tôi vẫn tin như vậy.
Vậy là
cậu hơn tôi rồi!
*
Thanh Tâm
Tuyền bị hiểu lầm suốt đời
và không được đối xử
xứng đáng trong khi ông còn sống. Nguyễn Ngọc Bích trong cuốn A
Thousand Years
Of Vietnamese Poetry không chọn một bài thơ nào của Thanh Tâm Tuyền để
dịch và
giới thiệu. Võ Phiến trong Văn Học Miền Nam / Thơ chỉ cho Thanh Tâm
Tuyền 1/3
trang và chọn của ông một bài thơ (trang 3077, 3078) trong khi ngay
cạnh đó, Tô
Thùy Yên được dành cho hơn ba chục trang, mặc dù trong cuốn Văn Học
Miền Nam
Tổng Quan, Võ Phiến nhắc Thanh Tâm Tuyền 21 lần.
Bùi Bảo
Trúc
Có mấy mống
không chọn
thơ... không nhắc đến... rồi suy ra rằng, nhà thơ bị hiểu lầm suốt đời,
thì quả là gan cùng mình.
Những ông trên, do không
hiểu thơ, nhất là thơ TTT, và do có tí tị hiềm - thì có nói đại,
ghen tài - thành thử vờ ông đi, chuyện cũng dễ hiểu. Có khi họ biết,
cái chuyện, không biết thì dựa cột, nên vờ đi cũng nên.
Còn cái chuyện không được đối xử xứng đáng, thì thú thực, Gấu này không
hiểu, thế nào là xứng đáng, ở đây.
Ngay tại
Miền Bắc, sau 1975, tuy nhà
nước hết sức là bực mình, nhưng đa số những nhà văn nhà thơ đều coi
trọng Thanh Tâm Tuyền, và coi ông là "tổ sư thơ" của cả hai miền Nam
Bắc.
Vậy mà không xứng đáng?
Một nữ thi sĩ nổi tiếng ở trong nước, khi có ngưòi dè bỉu thơ của bà,
đã viết một bài nhan đề "Thơ của tao không dành cho mày", và trên đầu,
vinh danh nhà thơ không được đối xử xứng đáng, bằng chính một câu của
nhà thơ.
Thơ
của tôi không
dành cho bạn
Phan
Huyền Thư
Lưu vong trên đất mẹ
Xin trao thi sĩ vòng hoa tặng,
Chúng ta đã thắng trước cuộc đời.
(Thanh Tâm Tuyền, "Tôi không còn cô độc")
***
Từ khi sang Mỹ, ông không làm thơ nữa. Ông làm đúng như một
câu ông nói năm 1975: tôi là người làm thơ Việt Nam,
tôi ở với xứ sở của tôi.
BBT
Cái câu TTT nói, năm 1975, là khi ông nhìn thấy VC vô, đại
ý, may quá, hết còn phải làm thơ viết
văn nữa rồi!
Ông nói với thằng em ông, là thằng Gấu. Lúc đó thật sự ông
quá
chán thơ, quá chán văn chương rồi, và câu đó, có nghĩa, tụi khốn nạn đó
vô,
mạng sống chưa chắc giữ nổi, làm sao mà làm thơ?
Nhưng đến khi tụi khốn nạn tống ông vô trại cải tạo, thì thơ
của ông lại sống lại. Ông cũng sống lại!
Thế mới khỉ chứ!
Thế mới có cái bài Thơ Giữa Chiến Tranh và Trại Tù.
Thế mới ra Thơ Ở Đâu Xa.
Còn ở Mẽo, ông có làm thơ, khi ông ra bãi tha ma, về viết ra
giấy, đề tặng Công Tử Chí Hòa.
Chứng cớ đây này:
N G Ồ I
Tặng Ngọc Dũng tức Công Tử Chí Hoà
(Lời dẫn:
Mấy năm đầu mới qua Mỹ anh
[Thanh Tâm Tuyền] thường ra ngồi ở nghĩa
trang vào buổi chiều.)
Chiều chiều
lững thững lên bãi tha ma.
Trời thu la đà không
mùi hương trừ mùi cỏ ngái. Trong khoé mắt hoen ửng loé góc trời mùa hạ
đang
lụi.
Ngồi ngắm.
Ngồi ngẫm.
Gió mát đầu óc
tản.
Ngồi như trời
trồng. Tự trồng cái bị thịt.
Ngủ mở mắt
không hay.
Ngày 30 tháng
6 năm 2000
Phố thị hiện
nhấp nháy cao tít. Thoáng
xa thoáng gần. Nhớ
ánh đom đóm lập loè bờ tre, lửa ma chơi chốn đồng không mông quạnh.
Lẩn thẩn trở
gót. Lối cây rậm lao xao tối mắt. Trong ánh
điện ngập ngụa mặt vợ con chuếnh choáng quẩn quanh.
Ấy cơn mê mệt
ruỗng. Ấy hoang phế lấp mình, có phải?
Ngày 7 tháng 7
năm 2000
Tạp Chí Thơ
Người phát giác ra tài văn
thơ của Thanh Tâm Tuyền, theo như Cụ Chất,
là Hồ Hữu Tường.
Cụ kể cho Gấu nghe, "nó"
viết truyện ngắn, gửi dự thi báo của Hồ Hữu
Tường, ở Sài Gòn, và được trao giải nhì! Cụ còn nhớ tên cái truyện ngắn
là Phát Súng.
Nhưng họ cho biết, không thể nào in truyện ngắn lên mặt
báo được!
Cụ kể cho Gấu nghe là lần
đó, nó vui lắm!
Cụ cũng cho Gấu biết, bút
hiệu Thanh Tâm Tuyền, là hai cái tên ghép
lại. Thanh Tuyền và Tâm. Cái cô Thanh Tuyền đó đi lấy chồng, cu cậu
đau quá, đêm ngủ không được, cứ lăn lộn hoài, gãi xồn xột. Tao bực mình
quá, vả cũng thương nó, bèn nói, thôi ngủ đi con, lo học, lớn lên, còn
khối cô Thanh Tuyền!
Chính vì vậy mà có lần nhà thơ cằn nhằn với bà cụ, tại sao mẹ kể cả
những chuyện như thế cho thằng Trụ nó nghe!
*
Kỷ niệm về
cái truyện ngắn về nhì mà không thể đăng, Gấu nhớ lại, khi
viết bài cho một tờ báo của VC ở hải ngoại, nhưng đặt văn phòng chính ở
phiá Nam là Sài Gòn. Chuyện này Gấu đã kể trong
Những
Đứa Con Của Trí Tưởng.
Đ.
nhận bài, hí hửng mang về. Hai ba
ngày sau, anh quay lại,
trả bài viết, nói, không được! Nhưng thôi, tiền tạm ứng biếu anh! Hỏi,
anh cho
biết: ông chủ nhiệm của tờ báo hải ngoại, sau khi đọc bài viết, đi gặp
thủ
trưởng, yêu cầu: nếu cho đăng những bài như thế này, cho dù là ở hải
ngoại,
phải cấp cho ông một tờ giấy chứng nhận, "nhà nước" đã cho phép ông
làm, qua cương vị chủ bút. Nếu không sau này, cả ông lẫn người viết đều
đi tù!
Lệnh "miệng'
thì được, bố ai dám thò tay ký một văn bản
"chết người" như vậy!
*
Không
biết Thanh Tâm Tuyền đã làm một
chuyến ngao du "Về Miền Tây" nào chưa, nhưng thay vì một tí Paris, là
những dòng Thơ ở
giữa chiến tranh và
trại tù. Còn nhớ, những ngày đài phát thanh Sài Gòn, bằng một cái
giọng thật ư là đều đều, đọc danh sách những người phải trình diện, tôi
bảo ông, bữa trước có nghe tên một người bạn của anh..., ông vỗ đùi
đánh đét, thế là sắp tới tao rồi! Thanh Tâm Tuyền trước đó đã mất hai
năm lính, vừa được giải ngũ ít lâu thì xẩy ra vụ Mậu Thân, và sau đó là
lệnh Tổng Động Viên. Hồi còn la cà ở Quán Cái Chùa, đường Tự Do Sài
Gòn, tôi và Huỳnh Phan Anh hay được dịp ngồi chung bàn với ông. Huỳnh
Phan Anh cho biết, sau khi ông đi cải tạo về, có gặp, và một lần có kéo
ông tới một "căng-tin", làm vài hơi bia. Trong số những cô gái phục vụ,
có một cô rất mê thơ Thanh Tâm Tuyền. Bài hát tủ của cô: Lệ Đá Xanh. Cô bé thật tình
muốn trổ tài trước nhà thơ, nhưng ông lắc đầu. Tôi nghĩ thầm: sau một
trận tù dài như thế, vừa mới về nhà gặp vợ gặp con chưa hoàn hồn làm
sao mà Giang Châu Tư Mã đầm đìa áo xanh cho được!
Chưa
hoàn hồn... tôi lại
nhớ tới một "tục lệ" của người dân ngoài Bắc, mà tôi đã được trải qua.
Lần đó, mê chơi bi, hòn bi lăn mãi tít vô gầm chiếc rương lớn chứa
thóc. Lui cui bò vô, hai chiếc mễ gỗ quá mục, sụp xuống, chiếc rương
thóc đè lên thằng nhỏ. Người lớn lôi ra, thằng bé ngơ ngác, mắt lé
[lác] xệch. Mấy người lớn tuổi nói: nắm cho nó mấy nắm cơm, để chuộc
lại ba hồn bẩy vía.
Gặp gỡ cuối năm
*
Không hiểu Phạm Đình Chương có nghe giai thoại về nguyên uỷ bút hiệu
Thanh 'Tâm' Tuyền, khi phổ nhạc thơ của ông, và đặt tên bản nhạc là Dạ
'Tâm' Khúc?
Bút
hiệu của Gấu, Sơ Dạ Hương, là cũng
từ Lan Hương, tức Bông Hồng Đen. Nhưng Gấu khi đó không dám mơ cái
chuyện để tên của mình ở, kế bên, hoặc chen vô giữa bông hồng!
...Không,
trăm lần không, ngàn lần
không, đừng bao giờ nói như vậy, đừng
bao giờ
nói anh không xứng đáng...
Lan Hương
Gia đình Cụ Chất và gia đình BHĐ quen biết nhau từ ngoài Bắc. Bà
cụ rất rành ba cái chuyện yêu đương lẩm cẩm của đám bạn của con.
Nhà văn Ðỗ Quý Toàn,
một trong những người viết thường
xuyên
cho tạp chí Sáng Tạo cùng Thanh Tâm Tuyền thời ấy tiết lộ...
Nguồn
Đỗ Quí Toàn
còn "trên cả" nhà văn. Ông là nhà thơ. Hơn cả nhà thơ: Lý
thuyết gia về thơ. Nhà phê bình thơ.
Có
lần Gấu này được coi một cái bản lược kê, giống như danh thiếp, của
ông.
Nhà thơ, giáo sư, bằng cấp đại học ở hải ngoại này nhiều lắm. Nhưng nhớ
là không có "cụm từ" nhà văn. Gấu này nhớ, chưa từng được đọc "văn" của
ĐQT.
Ông này, học
cùng thời với Gấu ở Hà Nội, viết văn sau Gấu một tí ti,
chừng vài tháng, chắc thế. Như vậy, khó có thể là một trong những người
viết
thường xuyên cho tạp chí Sáng Tạo cùng Thanh Tâm Tuyền thời ấy được.
Gấu này nghĩ
rằng, nhà thơ họ Đỗ, giả như "thường xuyên viết...",
nhưng, do tính tình khiêm tốn, không bao giờ viết thẳng thừng ra như
trên đâu.
Đây có thể là
do sơ ý của người tường thuật.
Nhưng nếu như
thế, thì cũng nhảm.
Nhảm thật! NQT
Bao
nhiêu
đường tình tự Ga Hàng Cỏ
If
I had to choose
between betraying my country and betraying my friend, I hope I should
have the guts to betray my country. - E.M.
Forster.
Nếu phải chọn giữa phản bội xứ sở và phản bội bạn bè, tôi
mong có đủ can đảm để phản bội xứ sở của tôi.
...nhưng
cả cái nước Việt Nam thì im lặng kinh khủng, kỳ cục, quái đản, tống
đạp, nín khe, từ chối, phủ nhận sự có mặt của Thanh Tâm Tuyền trên cuộc
đời này. Tất cả mọi tờ báo, mọi web site của cả nước Việt Nam
có thể đăng đi đăng lại cả trăm nghìn lần những tấm hình những câu
tuyên bố của những cái tên như Sharon Stone, Dan
Brown, Haruki
Murakami, Michael
Jackson, nếu như hiện nay họ đang cởi truồng hay hắt xì ở một nơi nào
đó trên trái đất này
Gió
O
Nhân ngày
Cá
Tháng Tư, tôi
cứ tưởng tượng ra rằng thì là nhà thơ, trước khi mất, đã gửi một cái
thư ngỏ, đề nghị nhà nước đừng làm phiền ông, và nhất là đừng làm cái
trò như một nhà nước khốn nạn đã từng làm (1).
Tuy
nhiên, có
sự kiện này. Khi nhà thơ mất, một diễn đàn nổi tiếng
ở hải ngoại,
[talawas], đã loan tin theo kiểu gián tiếp, bằng cách làm một cái link,
tới một bài trên BBC, do mấy ông yankees viết, về cái sự ra đi của một
nhà thơ đã từng có những dòng tuyệt vời về Hà Nội, thí dụ như những
dòng này:
đâu phải
một
thứ mưa ô buy vào thành phố
năm cửa ô
hồi
sinh trên xác năm cửa tù
mưa nắng
cùng
rủ nhau xuống Sinh Từ ngõ Hội Vũ
bao nhiêu
đường tình tự ga Hàng Cỏ
nụ hôn đầu ôm
mái tóc lang thang.
Và có lẽ
chẳng đặng đừng,
talawas bèn làm
thêm một cái link nữa, tới một bài viết
của một chuyên gia về biếm văn,
cây
bỉnh bút khét tiếng hải ngoại. Bài này
thì thật là... nhảm,
và Hai Lúa
đã từng đi vài hàng về cái sự nhảm của bài này rồi. (2)
Mùa Thu,
những
di dân
(2) Thanh Tâm Tuyền bị hiểu lầm suốt đời
và không được đối xử
xứng đáng trong khi ông còn sống.
Liệu, nhờ câu phán hiển hách trên, nên bài của ông được "link"?
*
Ðâu
phải mưa ô buy vào thành phố
1954,
vào Nam, thi sĩ Thanh Tâm Tuyền có lẽ là một trong những người đầu tiên
có những dòng thơ văn về Hà Nội, bên cạnh những dòng nhạc của một "Mưa
Sài Gòn, Mưa Hà Nội", hay "Hướng Về Hà Nội". Câu thơ trên, tôi chỉ nhớ
loáng thoáng, trong tập " Tôi không còn cô độc", đã một thời làm
ngơ ngẩn cả
đám bạn bè hồi cùng học trung học. Ngớ ngẩn, đúng hơn.
Số là Phạm
Năng Cẩn rất mê câu thơ đó. Anh cứ ngâm đi ngâm lại khiến Nguyễn Quốc
Sủng đâm ra thắc mắc, hỏi, mưa ô buy là mưa gì? Tôi nhớ là, bạn
Cẩn
ngớ ra, và... cương đại: mưa ô buy là một thứ mưa bụi ( buy
biến thành bụi), hạt lấm tấm như nhũ kim
cương trên những chiếc áo Mùa Thu, Hà Nội!
Sủng coi bộ
không hài lòng với một lời giải thích rất thơ như vậy. Một bữa, trong
lúc cả đám vây quanh nhà thơ, anh hỏi. Thi sĩ trả lời: ô buy là
một từ tiếng Pháp, obus. Mưa ô buy là mưa đại bác, mưa
trái phá!
Sau này tôi
được biết, người miền nam gọi trái phá là trái ô buy. Họ gọi phạm
nhe là người y tá, và hồi mới vào
Sài Gòn, tôi đã từng khổ sở vì không hiểu nghĩa của nó, sau cùng truy
ra, là do từ tiếng Pháp, infirmier.
Nước Pháp,
“hóa thân” vào miền nam, qua từ obus; rồi miền nam “hóa thân”
vào
từ ô buy, và được một nhà thơ miền bắc
âu yếm sử dụng cho... Hà Nội, ôi chao số phận của “ trái đại bác”
Tây, nhờ một miền đất, rồi
nhờ một nhà thơ, biến thành cơn mưa bụi ở một miền đất khác, trong cùng
một quê nhà, sao mà may mắn hơn cái từ chiên hẩm hiu thế!
Bởi vì không
phải ngẫu nhiên mà nhà thơ sử dụng từ “ mưa ô-buy”: ông vẫn bị
những cơn mưa từ
cái thành phố mà ông từ bỏ ám ảnh, cũng như không phải ngẫu nhiên mà
ông bạn ngày xưa của tôi tán ẩu, ông cũng bị ám ảnh....
Trích talawas
Đúng là bé
cái lầm! Gấu cứ
nghĩ, 'thông điệp' từ những bài viết như
thế này, đã có người nhận!
Ôi chao, lại nhớ đến lời than của 'bạn ta' [NMG]:
Ở hải ngoại này, viết, cứ như là viết vào hư vô!
'Ôi choa', lại
nhớ đến "Văn chương và kinh nghiệm hư vô", của "bạn ta"
[Huỳnh Phan Anh].
Và cái câu nói của một ông thầy triết, của bạn ta, về cái tít của cuốn
sách:
-Thầy chưa
biết hư vô là gì, mà sao trò lại kinh nghiệm được, về nó?
“Why is there something instead of nothing,"
["Tại sao,
thay vì hư vô, bé cái lầm?"]
Martin
Heidegger
*
Liếc nhìn dòng chữ đầu tiên của bài gửi, tôi giật mình kinh
ngạc:
Phượng
nhìn xuống vực thẳm: Hànội ở dưới ấy.
Năm di cư thứ
hai mươi [1974],
khi viết bài Tử Địa, nghĩ đến
những đứa
con tư sinh của đất Bắc ở cả hai miền lúc ấy, tôi đã mở bài bằng câu
trích đề của Anh, tuyên xưng nó là câu văn bất hủ. [Người ta có thể
nghĩ tôi quá lời, sử dụng "ngoa ngôn". Nabokov còn "ngoa" hơn nhiều khi
ông bảo: "Cả sự nghiệp của triều đại Sa Hoàng Đại Đế sánh không bằng
nửa
vần thơ của Pushkin."]
Khi từ Phú Thọ
ra, ghé lại Hànội chờ tầu về Nam, lúc chiều tối đứng
trên ga Hàng Cỏ, trông xuống phố Hàng Lọng, phố Trần Hưng Đạo sâu hoắm
bóng đêm rét lạnh của một ngày cuối năm, tôi thầm nhắc thành tiếng bên
tai "... Nhìn
xuống vực thẳm... dưới
ấy..", câu của anh
vẳng ngân như
là một câu thơ. [Câu văn là một câu gắn liền trong mạch văn,
tách ra khỏi mạch không ít thì nhiều cũng bất toàn. Câu thơ tách ra
khỏi mạch vẫn tự đầy đủ, tự lập trên cái nền thiếu vắng nó gợi nhắc.
Trong
đất trời
Sự ra đi của
một thi sĩ thường xuyên là nỗi đau buồn chung, của tất cả
những 'đồng bào' của thi sĩ : Những người cùng nói cái thứ tiếng
thi sĩ nói, viết, và làm thơ.
Khi Nguyễn Đình Thi mất, 'người ta' vội vàng quên đi, ông là một 'chiến
sĩ' - thôi thì cứ nói đại ra ở đây, một VC - và cả nước, trong đó
có hải ngoại, tất nhiên, cùng đau buồn sự ra đi của một nhà thơ. Trang
chủ trang Tin Văn bèn vội vàng khai báo, ông NĐT này, một cách nào đó,
chính là sư phụ của Gấu, qua ông anh, tức nhà thơ vừa mới ra đi.
Ông anh biểu thằng em, khi Gấu này, do dân trường Mít, cứ băn
khoăn ngần ngại với dúm tiếng Tây ăn đong của mình: Mày phải vừa đọc,
vừa dịch, vừa giới thiệu, vừa viết... như là Nguyễn Đình Thi đã từng
làm, với cuốn đầu tay, Triết Học Nhập Môn. Đừng sợ sai, sai thì sửa...
Và Gấu này tự hỏi, khi ông anh ra đi, phải chăng là Thanh Tâm Tuyền,
khi chạy vào Nam, là đã mơ hồ nhận ra, mảnh đất mầu mỡ chưa có người
khai phá đó, sẽ mọc lên một thứ cây tuyệt vời là thơ tự do, trong khi ở
Miền Bắc, người đầu tiên thử nghiệm thứ thơ này, bị đánh tơi tả?
Và tôi tự hỏi, nếu không bị ánh sáng của
Đảng làm chóa mắt, biết đâu, chính Nguyễn Đình Thi mới là người ‘sáng
tạo’ ra cái gọi là thơ tự do, ở Việt Nam?
Kinh nghiệm Nguyễn Đình Thi
Cái sự im hơi
bặt tiếng, từ
phiá bên kia, và cái sự bực bội của Gió O,
thí dụ vậy, làm cho Gấu nhớ đến câu nói của Kiệt, khi cô học trò hăm hở
với mối tình đầu, nhất quyết buông hết, Em chỉ cầnThầy!
Ông thầy phán:
Chẳng đáng,
chẳng đáng!
Chẳng đáng,
cái sự bực bội?
Đếch
cần,
cái sự tưởng nhớ nhà thơ, từ những kẻ đã từng tống ông vô
trại cải tạo?
Nhưng nghĩ
đi, phải nghĩ lại. Gấu bỗng nhớ đến trường hợp triết gia Martin
Heidegger và bạn của ông, là Karl Jaspers. Heidegger đã từng xin lỗi
bạn, không thể đến thăm, vì ngượng, mỗi lần nhìn thấy bà xã, gốc Do
Thái, của bạn mình.
Biết đâu, cái
sự đi một dòng phân ưu, nó cũng 'căng' như thế đấy!
Hay, nói như
Trí, trong Cát Lầy: Tại sao ta không thể yêu, cái chúng
yêu... nếu chúng chiếm được cuộc đời, ta bèn trở thành hư vô...
Hay, mô phỏng
một câu nói của chính ông, ta đã chẳng thèm đem cái vui
cho 'tụi nó', cớ
sao lại bắt 'tụi nó' buồn tí ti về cái sự ra đi của ta?
“Trước đây
mình chẳng làm gì
vui cho bạn bè nay sao
lại đem
cái buồn đến cho họ." Nguồn
Có lần ông anh
nói với thằng em, đại ý, ở đời, mày tròn
như hòn bi, lăn đâu cũng được, chỉ bị người yêu mà chẳng được mống nào
ghét,
là cũng.... vứt đi!
Về một số
trường hợp ông "được" ghét, có những cú do thằng em và đám
bạn văn của
nó gây nên.
Thí dụ như vụ
một nhà thơ, ra đi trước ông, từng đụng
độ với Gấu. Ông ta ghét lây tới ông anh của Gấu, ấy là do cả đám lúc đó
cùng mê, cùng chỉ biết có Thanh Tâm Tuyền, ngoài ra là.. chấm
hết. Ông ta bèn đi cả một loạt bài, sau in thành sách, chủ yếu phạng
Gấu, vì cái tội dám chê ông ta viết văn dở, và tiện thể, phạng luôn
TTT. Ông ta phong cho TTT là "giáo chủ", một tà phái, và gọi Gấu là tên
sa đích văn nghệ!
[Nghe nói sau
này, ông ta viết hồi ký, và có sửa sai cái vụ này].
Một lần, ngồi
Quán Chùa, không hiểu vòng vo ra sao mà tên nhà thơ
trên được nhắc tới. Thanh Tâm Tuyền, vẻ mơ màng, hồi tưởng, nói, hồi
hắn
ta mới ở Tây về, ghé thăm tao, tao vẫn còn nhớ rõ dáng vẻ nhanh nhẹn,
nhất là cái mũ, lúc đó hắn ta được lắm....
Về cái vụ chê
văn của ông ta, ông anh nói, mày viết đúng, nhưng đúng ra
mày phải viết về cái đám bạn của mày y như vậy, thì mới thành nhà
phê bình được!
Ông dậy thằng
em như trên, là do mấy bài viết về các "bạn ta", thí dụ
như bài viết về cuốn Sinh Nhật của NXH, chẳng hạn.
Trong bài này,
cho đến nay, như Gấu còn nhớ được, nhà phê bình Gấu
phán: Thời của những truyện ngắn, truyện dài, với nhân vật có rất ư là
cá tính, hết rồi. Nhân vật bi giờ phải như là người của đường phố, và
có thể là bất cứ một ai, như cái anh chàng ở trong Sinh Nhật. (1)
Nói gì thì
nói, nhận xét trên quả đúng với, không chỉ nhân vật, mà luôn
cả tác giả của nó. Kẻ của đường phố sau trở thành người đi trên mây!
Nhưng ghê gớm
nhất, là chê. Khen đã tới như vậy, thì chê phải
hơn thế!
Gấu phán: Lẽ
dĩ nhiên Sinh Nhật có những nét vụng, những "faux pas" của
nó. Nhưng faux pas hay không faux pas, ở nơi nhà văn thiên tài như bạn
ta, thì người thường không thể có được!
Đâu có phải ai
cũng bắt chước được Tây Thi đau bụng, hay nhăn mày!
TTT đọc, bật
cười, mày viết như thế làm sao chúng không chửi!
[Mày, tao là
ngôn ngữ của Gấu. Thường, ông gọi 'cậu', và xưng 'tôi'.
Chưa bao giờ ông 'mày tao']
(1) Mới đây,
trên Guardian, nữ văn sĩ Sarraute của nhóm tân tiểu thuyết
Tây, cũng nói về trường hợp của bà, vừa cho ra lò cuốn đầu tay, và được
Sartre khen um lên, đây rồi, đây rồi, chân dung của một tên vô danh,
một gã tiểu tốt [hay nói như Gấu, của kẻ đường phố] đây rồi!
Thế là
Sarraute trở thành nổi tiếng.
Bà than, tuy
cũng phải cám ơn "ông vĩ đại", nhưng thằng chả chẳng hiểu
một tí gì về cuốn sách!
Nguồn:
She told how her reputation
had been made among Paris's
intellectual
gratin thanks to a preface by Jean-Paul Sartre to her novel Portrait of
a Man
Unknown. She was grateful to the great man, but of course, she said, he
had
entirely misunderstood the book.
.... trong khi
bà cụ tên thật là Thạch Thị Kim thọ rất lâu, ở Long
Khánh.
Đặng Tiến
Bà cụ đúng tên
là TTK, có thời gian lên LK làm rẫy, nhưng vẫn luôn luôn
ở Xóm Gà. Mới đây, cụ bị bịnh tim, cả hai ông con trai, là nhà thơ và
bạn Chất của Gấu lần lượt về, cụ qua khỏi, nhưng phải nằm một chỗ.
Thanh Tâm Tuyền chưa bao giờ
ra khỏi Việt Nam cho đến ngày sang Hoa Kỳ định cư vĩnh viễn. Nhưng thơ
ông đầy những thành phố: Warszawa, Berlin, Bình Nhưỡng, Bắc Kinh,
Moskva, Praha, Paris, Madrid, Brussel, Genève. Nhưng không có lũy tre,
con đò, bờ dâu, nương sắn. Thơ Thanh Tâm Tuyền là thơ thành phố: thơ
Pháp, đến Prevert là hoàn toàn đô thị hoá; thơ Việt Nam, đến Thanh Tâm
Tuyền cũng quành vào đô thị.
ĐT
Thơ TTT là thơ thành phố.
ĐT
Những thành phố này, chúng tạo nên một trận
đồ, một mê cung tâm thần. Hàn thử biểu chỉ ra sự
đáp ứng của con người, về đổi thay: Đây chính là khởi điểm của Alter,
trong cuốn sách viết về cảnh tượng phố phái văn chương hiện đại, the
modern literary urban landscape.
Hà Nội, 1954, đi và ở đều là những
chọn lựa miễn cưỡng, chia lìa hoặc cái chết.
Hà Nội, 2006: Con sói cô đơn giữa bầy chó thủ đô.
*
Gộp hai câu trích dẫn từ bài viết của ĐT [«Anh yêu quê hương vô cùng và
anh yêu em vô cùng », và câu trên, "TTT chưa bao giờ..."], chúng làm
bật
ra đoạn văn sau đây của Linda Lê, trong bài viết mới nhất của bà, trong
mục Trở về với cổ điển, do bà
phụ trách
trên tờ Le Magazine Littéraire,
số tháng Ba, 2006.
Nhan đề bài viết cũng thật hợp với Thanh Tâm Tuyền:
Un destin mystique [Một số mệnh huyền bí]. Tiếng hát hoàng hôn của
Herman Broch.
[ĐT đã chẳng định nghĩa TTT: Về nội dung chính
yếu, chất liệu trong thơ văn Thanh Tâm Tuyền là ý thức thất bại. Thất
bại của con người trước định mệnh nói chung, cụ thể là sự bất lực của
giai cấp trí thức tiểu tư sản Việt Nam trước thời cuộc. Viết văn, làm
thơ, làm nghệ thuật nói chung, là cố gắng vượt qua sự thất bại đó, biến
nó thành nghệ thuật.]
"Trong La conscience des mots
[Ý thức, lương tâm của chữ], Elias Canetti nhắc nhở rằng, nhà thơ thật
sự phải ôm chặt lấy thời đại của mình [ôm em trong tay] trong khi đam
mê cái thế giới đại đồng, cái đầy những thành phố [mà đã nhớ em ngày
sắp tới]."
[Nguyên văn: Dans La Conscience des
mots, Elias Canetti rappelle que le
vrai poète doit être voué à son temps, être son 'serf corps et âme',
tout en ayant une passion d'universalité.]
Thậm chí người đọc có thể hỏi: Bếp lửa, bếp lửa nghĩa là gì?
Với tôi, có lẽ thêm vài kẻ bạn, Bếp lửa là một bài hát.
ĐT
Theo tôi, Bếp Lửa là... Hà Nội.
Còn bài hát của Bếp Lửa là bài Trở về
mái nhà. Xưa. NQT
Tranh Ngọc Dũng
Thơ Ở Đâu Xa
ra đời cũng là
một cái may, cho độc giả yêu thơ TTT.
Lần đầu nói
chuyện với nhà thơ, qua điện thoại, ông cho biết, khi đó
mới qua, chỗ đó ồn quá, tính dời đi chỗ khác, thế là đành phải lấy hai
ngàn của một tay 'Mạnh Thường Quân". Đâu có biết thơ chẳng ai thèm mua.
Nếu biết trước, đã chẳng in ra làm gì.
Nhân đó, ông
kể chuyện, hàng xóm của ông, toàn dân da đen, dễ chịu lắm,
dễ chịu lắm...
Tranh Ngọc Dũng
Chất: Cậu có nhớ, lần cậu
ngủ nhà tớ, vừa ngủ dậy,
cậu phán, hôm nay phải về nhà, coi nhà còn hay dọn đi đâu mất rồi, lại
mất
công hỏi thăm hàng xóm?
Gấu: Nhớ chứ! Sao không nhớ?
Chắc chắn, bạn ta quên,
những lần Gấu đói quá, mò sang nhà thật sớm, để được bạn đưa đi ăn phở
Đại Đồng. Ăn thành quen, thành thèm, bạn ta phải cưa đôi tô phở. Thay
vì tô lớn, hai tô nhỏ. Sau cụ biết, bèn ra lệnh, cho mỗi thằng một tô
lớn!
Thanh Tâm Tuyền qua Đinh
Cường
[Thế Kỷ 21, số tưởng niệm
TTT]
Trong một bài tưởng niệm họa
sĩ Ngọc Dũng, đăng trên Khởi Hành, Đinh Cường có nhắc tới một họa phẩm
của Ngọc Dũng, có 'biệt danh' là Mọi Khoả Thân. Đinh Cường 'nghe nói',
bức này
bán được giá lắm.
Số phận bức tranh rất ư là
ly kỳ.
Số là, vào thời điểm đó, thiên hạ bỗng mê, và thi nhau lùng, tranh Ngọc
Dũng. Trần Lê Nguyễn bỗng nhớ ra rằng thì là ở nhà cụ Chất có bức
Mọi, do Ngọc Dũng tặng cụ.
Đến năn nỉ, cụ lắc đầu, sau Trần Lê Nguyễn đành thú thực, con đói quá,
cụ bèn lấy giá tượng trưng, là bẩy trăm đô.
Bức đó, sau bán ra mười ngàn đô.
Nắm níu sợi mỏng, lửng lơ ngã.
TTT
Câu thơ này làm nghĩ tới giai thoại Dos từng kể, chắc là từ kho tàng
chuyện kể Phật giáo, về một anh chàng nằm duới giếng
sâu địa ngục ngó lên miệng giếng, đúng lúc Phật ngó xuống, và Ngài bèn
thương tình thả một sợi tơ nhện, anh chàng bèn leo lên, nhưng đám băng
đảng xúm lại, cũng cố leo lên, anh chàng bèn đạp lấy đạp để, vì sợ sợi
tơ nhện quá mỏng manh không kham nổi, Phật buồn bã lắc đầu bỏ đi...
Mỗi lần đọc lại chuyện này, Gấu này lại nhớ đến cảnh leo trực thăng di
tản trên nóc dinh Toàn Quyền Mẽo ngày 30 Tháng Tư năm nào.
|