TƯỞNG NIỆM
|
Bếp
lửa reo đời quá vãng
Mãi
nhớ em dẫu ngày chưa kịp tới
NLV
Vụ đưa cây thơ
TTT vô Văn Miếu có một tầng ngầm rất ư là thú vị: Hai
tác phẩm hách xì xằng nhất của TTT, đều viết từ cái nền Bắc Kỳ: Bếp Lửa
và Thơ Ở Đâu Xa.
*
Nó như một
tiếng vọng, từ lời ai điếu dành cho Mai Thảo.
Năm di cư thứ
hai mươi [1974], khi viết bài Tử Địa, nghĩ đến những đứa
con tư sinh của đất Bắc ở cả hai miền lúc ấy, tôi đã mở bài bằng câu
trích đề của Anh, tuyên xưng nó là câu văn bất hủ. [Người ta có thể
nghĩ tôi quá lời, sử dụng "ngoa ngôn". Nabokov còn "ngoa" hơn nhiều khi
ông bảo: "Cả sự nghiệp của triều đại Sa Hoàng Đại Đế sánh không bằng
nửa
vần thơ của Pushkin."]
Khi từ Phú Thọ
ra, ghé lại Hànội chờ tầu về Nam, lúc chiều tối đứng
trên ga Hàng Cỏ, trông xuống phố Hàng Lọng, phố Trần Hưng Đạo sâu hoắm
bóng đêm rét lạnh của một ngày cuối năm, tôi thầm nhắc thành tiếng bên
tai "... Nhìn
xuống vực thẳm... dưới
ấy..", câu của anh
vẳng ngân như
là một câu thơ. [Câu văn là một câu gắn liền trong mạch văn,
tách ra khỏi mạch không ít thì nhiều cũng bất toàn. Câu thơ tách ra
khỏi mạch vẫn tự đầy đủ, tự lập trên cái nền thiếu vắng nó gợi nhắc].
Trong
đất trời
*
Nó gợi nhớ
huyền thoại đứa con hoang đàng trở về.
*
Kỳ vọng nhất,
liệu nó làm được điều mà Brodsky đã làm: Đặt một dấu
chấm hết to tổ bố cho dòng thơ Đường
ra trận mùa này đẹp lắm, và đem đến cho thơ trong nước,
cái ý
niệm bi thương của cuộc đời. (1)
Nếu
đã đi từ Hà Nội xuống Hải Phòng
hay sang Bắc Ninh
Nếu đã đi từ Sài Gòn xuống Vĩnh Long hay lên Thủ Dầu Một
Chuyến xe vẫn chỉ thuộc một mình.
Như kẻ say rót rượu lấy mà uống
Cho vui thêm cuộc hành trình
(Đúng rồi những người thù ghét thơ của tôi ơi)
Cuộc hành trình hoàn toàn cô độc.
[Brodsky's
greatest achievement, says the poet Olga Sedakova, was to
have 'placed a full stop at the end of [the Soviet] literary epoch". He
did so by bringing back to Russian letters a quality crushed, in the
name of optimism, by the Soviet culture industry: a tragic conception
of life.
Coetzee: Joseph
Brodsky
*
Liệu PHT mường
tượng ra được những hình ảnh như trên, khi đưa cây thơ
TTT vào trồng ở Văn Miếu, Hà Nội?
(1) Ý niệm
"làm thơ", thay vì "làm những câu thơ", "thơ ở đâu xa"...
của TTT làm nhớ tới những vinh danh mà những nhà thơ
Nga dành cho Brodsky:
Brodsky's
fellow Russians are particularly illuminating on technical
features of his verse. Brodsky, claims Yevgeny Rein, found metrical
means to embody "the way time flows past and away from you". [Coetzee: Joseph
Brodsky].
Và
làm thơ trong trại cải tạo, đó cũng là trở về với thơ ca bình dân.
Chế độ lao động trong trại, đó là một ngày căng thẳng tám tiếng, không
có cuối tuần; mỗi tù nhân có riêng một vũ trụ của anh ta: một cái
chiếu, chừng năm, sáu chục tù nhân trên dưới hai lớp, trong tấm "toan"
trên trăm tù. Viết
là một xa xỉ: chỗ ngồi, thời gian viết. Với nhịp tù hối hả như thế, cái
lạnh, cái đói... ai dám nghĩ đến sáng tạo? Ngay cả thiên tài, ngay một
sức
mạnh siêu nhiên cũng chẳng thể vượt qua, những "trói buộc" này.
Tuy
nhiên,
người Việt nói "làm thơ", không ai nói "viết thơ". Như vậy, người ta có
thể làm thơ bất cứ ở đâu, trong bất cứ vị trí nào: đi, đứng, nằm, ngồi,
thức... Thơ gặp anh không cần hò hẹn, không định rõ ngày giờ. Người ta
không
thể kiếm nó, vì biết đâu mà kiếm. Bạn chỉ có một việc: tiếp nhận nó,
bàn
bạc cùng nó. Nó chỉ yêu cầu bạn: hãy giữ tiếng nói chơn chất của bạn.
Tiếng
nói này, sau đó, sẽ quyết định cuộc đời của riêng nó.
Thơ giữa
Chiến Tranh và Trại Tù
Có lẽ bởi
vì văn chương hạng nhì là thứ thường rất dễ bị xào, luộc, đánh cắp
nhãn, và bởi vì có rất nhiều tác phẩm chỉ vươn tới đỉnh cao của chúng,
là hạng nhì, thành thử người đời thường dùng nó - ý tưởng về ảnh hưởng
- để buộc tội, hoặc chê bai tác phẩm của nhà văn. Vả chăng, biên giới
giữa ảnh hưởng và bắt chước [imitation], và ngay cả giữa ảnh hưởng và
đạo văn, càng về những ngày sau này càng trở nên mờ nhạt. Cách đây hai
năm, nhà văn nổi tiếng người Anh, Graham Swift đã bị một nhà khoa bảng
hắc ám [obcure], người Úc, ban cho cái tội rất
gần
với tội đạo văn. Trong cuốn được giải Booker của ông, “The Last
Orders”, cấu trúc đa
giọng trong đó, “chủ yếu mà nói, là đã vay mượn”, từ cuốn “Trong khi
tôi
hấp hối”, “As I Lay Dying”, của William Faulkner. Báo chí Anh bèn mượn
gió bẻ măng, biến câu chuyện thành một xì-căng-đan văn học, biến Swift
thành một tay đạo văn chính cống Bà Lang Trọc, chửi những người bảo vệ
ông, là quá “nhân nhượng”,
mặc dù, và có lẽ là do, chính Swift đã chẳng thèm úp mở, và nói thẳng
thừng, [ông này đếch thèm xin lỗi rối rít], ông ảnh hưởng [ăn cắp, đạo
văn...] Faulkner, kể cả điều hết thuốc chữa: giọng kể ở trong hai cuốn,
tuy không hoàn toàn giống nhau y chang, nhưng đọc cuốn này, là gợi nhớ
tới cuốn kia. Sau cùng, những sự thực đơn giản như thế khiến vụ
xì-căng-đan xì hơi, nhưng cũng chỉ sau khi Swift đã phải trân mình chịu
đựng đòn hội chợ của đám báo chí.
Ảnh
Hưởng
TTT cũng đã
từng bị "những người thù ghét thơ của tôi
ơi", tố, đạo văn. Một ông 'thú nhận' đã từng, dịch TTT sang tiếng nước
người,
thấy y
chang văn Tây! Của đám hiện sinh, và, tất nhiên, của Malraux!
Faulkner,
[hình như vậy], phán, trong khi đánh vật với 'sáng tạo', tôi
vớ bất
cứ thứ nào tiện tay, được việc cho tôi. Picasso, ẩu hơn, xúi cứ việc ăn
cắp, và
còn hỏi lại, nhưng bạn có gì để cho tôi ăn cắp?
Nhìn như thế,
PHT quả có đạo văn. Ba cây thơ mà PHT đưa vô trồng ở Văn
Miếu, là
giấc mơ thơ lớn của PHT, biến thành hiện thực.
Trong khi
tìm cách đưa họ vô Văn Miếu, PHT tự cho mình cái quyền, và rất ư là hợp
pháp,
được sử dụng tất cả những thông tin hiện có trong tay.
Ôi chao, lấy
nguồn
tin từ một
tờ báo hàng ngày mà bị tố là đạo văn, thì đúng là 'hết thuốc chữa'!
*
Giấc mơ đạo
văn nhớn của PHT gồm ba giấc mơ đạo văn nhỏ:
Với Nguyễn
Bính, là chất thơ thơ ngây của PHT ngày nào chưa làm thơ,
chưa
ra tỉnh.
Với Ngô Kha,
giấc mơ "thắp lửa" Miền Nam,
[hỏa tiễn, ánh mắt hỏa châu, "ngoài kia súng nổ đốt lửa đêm đen, tầm
đạn thay tiếng em"... chưa đủ sáng!], không chỉ thi sĩ, mà bất cứ một
ông xẻ dọc Trường Sơn nào, cũng ấp ủ, khi còn ở trong
hang "Pác
Bó", hay, hang Plato "muôn đời Miền Bắc Việt Nam".
Với TTT, là
chất tiết tháo tuyệt vời, "không khoan nhượng ngay cả với
chính mình", Miền Bắc chưa hề, và chắc chẳng bao giờ, có.
Như một trò
đùa của số mệnh, những bài viết 'cũng thường thôi', như của
ĐT, hay chỉ là một thứ thông tin, về tiểu sử nhà văn nhà thơ, như về
Ngô Kha, Nguyễn Bính, chúng đã trở thành "bất tử", cùng với sự hiện
diện
của cây thơ TTT ở Văn Miếu.
Và như thế,
những người được đạo văn, đúng ra, phải cám ơn PHT!
Ý tưởng trên,
Gấu 'đạo' Borges, khi ông cho rằng, cuốn sách
thay đổi tùy theo sự đóng góp của độc giả. Mặc khải, người
đọc mới thực sự đem đời sống và cái tít đến cho văn chương, khiến ý
niệm
tác giả trở thành bất khả, nhưng theo ông, 'cái chết của tác giả' không
phải là một sự kiện bi thảm!
*
Giấc mơ, có
thể, của PHT, thật kỳ cục, làm Gấu nhớ đến một truyện ngắn
của Garcia
Marquez, về
một đấng con trai nhà giầu, mê một em, bèn nhờ một anh chàng nhà văn
viết thư tán
giùm.
Cô gái mê
liền. Ván đã đóng thuyền mới biết, đồ "đạo văn".
Chỉ đến khi,
một mẹ một con, nhìn tự dạng mấy chữ, phê trong bài viết
của con, bà mẹ nhận ra, đây mới là tác giả những dòng thư tình này
nào.
Và bèn mang
con tới gặp ông thầy, bắt đền.
Vụ đạo thơ của
anh chàng mê Gấu Cái, khi học trường trung học Mỹ Tho,
cũng
thật thú
vị.
Anh chàng chép
toàn thơ của những đại thi sĩ Miền Nam, trừ thơ TTT,
nào
Nguyên Sa, nào Du Tử Lê, nào Trần Dạ Từ, quyết tán cho được em.
Cuối cùng Gấu
thắng, nhờ những dòng văn mộc mạc của mình!
*
Happy Birthday
To U, một nửa linh hồn của Gấu!
16.8.1937/8.4.1946
*
Nhân đọc
gió-o, một độc giả muốn đi thăm mộ TTT, nhân có dịp
viếng thăm thành phố, và hy vọng, biết đâu, nhờ vậy, hoàn thành một
luận án về nhà thơ, Gấu bỗng nhớ đến bài thơ Budapest, và tự hỏi, tại
làm sao, TTT, gần như ngay lập tức, khi Cách Mạng Hung bùng ra, đã ca
ngợi nó, một
cuộc cách mạng mà cho đến nay, người ta vẫn chưa hiểu được, tại làm sao
nó xẩy
ra, và giả như không có nó, liệu bộ mặt Âu châu, và có thể, cả thế
giới, sẽ như thế nào.
Và liệu, từ
những năm đó, TTT đã nhìn ra số phận của ông, và
Miền Nam, như trong dòng thơ, “Chúng nó làm Cộng Sản, Chúng ta làm tù
nhân”, đã
tiên đoán những ngày tù cải tạo của ông, và bạn bè, một điều mà đến bây
giờ, trên
NYRB, số 1 Tháng Ba, 2007, khi đọc một số
sách xb nhân dịp kỷ niệm cuộc Cách Mạng Hung
1956-2007, István Deák mới nhìn ra, và tự hỏi: Liệu đó là số phần của
nó:Cuộc Cách Mạng Phải Thất bại?
[Did the Revolution Have to Fail?]
*
Như Miền Nam
phải thất bại.
*
Có thể, bài
thơ Budapest của TTT, lần đầu tiên ra mắt người
đọc hải ngoại, và, cùng lúc, độc giả ra đi từ Miền Bắc, thời gian Gấu,
cùng với
cả thế giới, kỷ niệm 40 năm cách mạng Hung [1956-1996], qua bài
viết Tạp
Ghi, Hãy
cho anh khóc bằng mắt em, trên báo Văn Học, số tháng Ba,
1997, của
Nguyễn Mộng Giác
Một thi sĩ ra
đi từ Miền Bắc, cho biết, ông cứ nghĩ, của một
ông Tây!
Hào khí ngất
trời!
Về bài viết,
Gấu chỉ còn nhớ một chi tiết thật thú vị. Điện
Cẩm Linh, có lúc đã tính “đầu hàng” Cách Mạng, và thí cho tay đứng đầu
cuộc nổi
dậy, Imre Nagy, chức Phó Thủ Tướng trong tân chính phủ hòa hợp hòa giải
dân tộc. (1)
(1) Nagy, như
bây giờ biết được, là cớm chìm ăn lương KGB, đệ tử
ruột Beria.
*
Bất giác lại
nhớ đến ngày 30 tháng Tư, chúng mày còn gì
đâu mà đòi chuyện bàn giao, hoà giải, thành lập tân chính phủ
*
10 năm, rồi
lại 10 năm nữa.
[Khoa Hữu].
1956-1997-2007
Mưa gió,
bão bùng. Mùa
này, Mùa nữa. [Thơ giữa chiến tranh và trại tù].
Và cái “nhịp
ba”, phiên khúc tuổi hai mươi, của bài thơ, mới
hào hùng làm sao:
Nhịp thứ nhất, “Anh một
trái tim em
một trái tim”
Nhịp thứ nhì: “Chúng kéo
đầy đường
xe tăng đại bác”.
Cứ như nhìn
thấy trước mắt, một anh chàng, từ dưng không
trồi lên, lừng lững khốc liệt, bước ra trước đoàn xe tăng, ê, ngưng
lại,
cấm nhúc nhích, ở quảng
trường Thiên An Môn, sau này.
Nhịp ba, chót,
mới bi thương làm sao:
“Trong giây xích chiến xa tội
nghiệp”.
*
Chúng nó
say giết người
như gạch ngói.
Như lòng
chúng ta thèm
khát tương lai.
*
Tôi thường bồi
hồi, cảm động, không phải bởi những minh
triết lớn lao, mà là thứ nho nhỏ, mất đi, cùng cái chết của mỗi con
người.
I am moved by
small wisdoms that are lost at every death.Borges.
Alberto Manguel trích dẫn, trong
With Borges.
Với TTT, minh
triết nho nhỏ mất đi cùng với ông: Những tiết tháo,
tài hoa, cương trực, không khoan nhượng với chính mình, [thầy tu] khổ
hạnh?...
Có lẽ không
phải, mà là, chút e lệ, thẹn thùng,
khi lại làm được thơ, ở trong tù.
Chúng giống
như những bài tình đầu, khi còn Hà Nội, và có thể vì vậy,
nên không dám đưa cho bạn bè coi?
Con đường
tình tự Ga Hàng
Cỏ....
Nụ hôn đầu
ôm mái tóc
lang thang.
Thơ như
thế, về Hà Nội, mà không được đem vô Văn
Miếu để treo, kế bên bức Người Đẹp Trong Tranh, thì thật quá uổng!
Cũng vẫn
Borges, Manguel trích dẫn,
trong cùng cuốn sách.
Borges nhận
xét, mỗi nhà văn để lại hai tác phẩm,
những gì được
viết ra, và hình ảnh của chính nhà văn, và, cả hai săn đuổi, chơi hú
tìm với
nhau, cho đến chung cuộc.
READING
MILOSZ
I read your poetry once
more,
poems written by a rich
man, understanding all,
and by a pauper,
homeless, an emigrant, alone.
You always want to say
more
than we can, to transcend
poetry, take flight,
but also to
descend, to penetrate the place
where our timid, modest
realm begins.
Your voice at times
persuades us,
if only for a moment,
that every day is holy
and that poetry, how to
put it, rounds our life,
completes
it, makes it proud
and unafraid of perfect
form.
I lay the book aside
at night and only then
the city's normal tumult starts again,
somebody coughs or
cries, somebody curses.
-Adam Zagajewski (Translated
from the Polish by Clare
Cavanagh)
The New York
Review, 1 March, 2007.
Đọc
Milosz
Tôi đọc thơ
ông, thêm một
lần nữa,
những bài
thơ viết bởi
một người giầu có, thông tuệ,
và bởi một
người nghèo
mạt hạng, không nhà cửa, di dân, cô
độc.
Ông luôn
muốn nói nhiều
hơn
chúng tôi
có thể nói,
để chuyển
hóa thơ, để cất
cánh,
nhưng cũng
để hạ cánh,
dấn sâu vào khoảng đất
nơi cõi đời
của chúng ta,
dụt dè, chơn chất, bắt đầu.
Tiếng nói
của ông, nhiều
lần, chỉ trong một khoảnh khắc,
khiến chúng
tôi ngộ ra
một điều là,
mỗi ngày,
một ngày, mọi
ngày, thì thiêng liêng.
và rằng,
thơ, thể hiện
điều đó, bằng cách,
quanh
quẩn bên đời
ta,
hoàn tất
nó, làm cho nó
tự hào, hãnh diện,
và, đâu cần
một dạng hoàn
hảo nào, cho thơ.
Tôi để cuốn
sách qua một
bên.
Đêm, và chỉ
tới lúc đó, cái
xô bồ, thường lệ, của thành
phố lại khởi động,
một người
nào đó ho, hay
la, một người nào đó, nguyền rủa.
nqt chuyển
dịch
Nguyên tác
tiếng Ba Lan Clare
Cavanagh dịch qua tiếng Anh.
Coetzee nói về
Brodsky: Ông chẳng hề loay hoay hì hục làm cho
mình được yêu, thí dụ, như Pasternak, rất được yêu. Venclova cho rằng,
người Nga tìm chẳng thấy, ở trong thơ của ông sự "ấm áp", "tha thứ tất
cả", "sướt mướt", "nức nở con tim", hay sự "vui tươi, nhí nhảnh". Nhà
thơ Viktor Krivulin nghi ngờ tính hài hước, rất ư là không giống Nga,
very un-Russian, vốn trở thành thói quen trong thơ Brodsky. Ông trau
giồi hài hước, Krivulin nói, để bảo vệ mình, từ những ý nghĩ, tư tưởng,
hay hoàn cảnh mà ông cảm thấy không thoải mái. "Một sự sợ hãi phải phơi
lòng mình ra, hay có thể, chỉ là một ước muốn đừng phơi mở...".
*
Thực sự, trước
1975, TTT không phải là một nhà thơ được nhiều người yêu
mến.
Chính vì vậy,
sự bàng hoàng, cơn chấn động ở hải ngoại, khi nghe tin
ông mất, chỉ có thể giải thích: Chính sự tiết tháo, cương trực, không
khoan nhượng với cả chính mình không kiếm cách làm cho mình được yêu
mến... hay ngắn gọn, chính cái sự quá sạch của ông, lại trở thành niềm
tin cho tất cả mọi người!
Và như thế,
ông lại giống... Solzhenitsyn, ông này suốt một
đời khổ hạnh, làm việc như trâu, không cho mình bất cứ một cơ hội nào
bị sa ngã, bị dụ dỗ... bởi cái ác.
Solz cho rằng,
chỉ có cách đó,
để không bao giờ phản bội những người bạn tù của ông.
*
Về câu hỏi,
tại sao đầy tù cải tạo lên phía Bắc, đã có một lần Gấu đưa
ra một câu trả lời, khi đọc một số Granta.
Nay có câu trả
lời đơn giản hơn của Shalamov:
Nature
simplifies itself
as it heads toward the poles (and
we head north now because so many scores of thousands were doing so, as
Stalin's rule developed, and as the camps crazily multiplied). Nature
simplifies
itself, and so does human discourse.
Thiên nhiên
tự giản tiện
chính nó khi hướng về phía cực, (và chúng tôi, bây giờ hướng bắc, ấy là
vì hàng hàng lớp lớp đã đang làm như thế, khi chế độ Stalin phát triển,
khi nhà tù cứ khùng điên nở rộ, tăng trưởng lên mãi). Thiên nhiên tự
giản tiện, và cũng vậy, cách ăn nói của con người cứ thế co lại.
Kolyma
Tales
[Chuyện trại tù Kolyma]
|