Nguyễn Quốc Trụ
phụ trách
TƯỞNG NIỆM
|
Em thương
anh như thương một ông trời bơ vơ...
Bùi Giáng
Auden: Gì nữa
đây?
Ký giả: Tôi
tự hỏi, nhà thơ số một hiện đang còn sống được coi là người bảo vệ sự
vẹn toàn
tiếng Anh của chúng ta, là ai theo ông?
Auden: Tại
sao (không phải là) tôi, lẽ dĩ nhiên!
(Chuyện trò,
Mùa Thu 1972).
Wilfrid
Sheed, trong một bài giới thiệu tuyển tập Nhà văn khi viết, Writers at
work của
tạp chí The Paris Review, (Penguin Books, 4th series, 1979) đã coi đây
như một
dịp "xin lỗi người đọc", về một định kiến của ông đối với những bài
phỏng vấn nhà văn/nhà thơ tạp chí này thường thực hiện. Bởi vì có lần
tác giả
viết: những thông tin ở trong đó chẳng khác gì chuyện ngồi lê đôi mách,
làm
xàm, bá láp về giới viết lách. Chuyện những cây viết chì-số hai của
Hemingway,
hay Aldous Huxley mặc áo ngủ loại nào, thì đâu có ăn nhậu gì tới văn
chương?
Nhưng rồi tác giả nhận ra, trong những câu chuyện tầm phào như thế,
chứa đựng
"nguyên liệu số một", materia prima, của văn chương.
Liệu chăng,
chúng ta có thể vượt lên khỏi cõi đời thường, để hiểu được "một ông
trời
bơ vơ" ?
Bởi vì Bùi
Giáng, là cả một kho tàng những giai thoại, thường rất đỗi đáng yêu,
nhiều khi
rất ngậm ngùi...
Trong một
bài viết ở trong nước, "một thú vui tao nhã: thú đọc sách ở thành phố
Sài-gòn" (cho phép tôi được sửa, một tên gọi ở đây), tác giả Hồng
Minh-Hoàng Kim kể, khi tập thơ Lá (1988) của Văn Cao được xuất bản,
người yêu
thơ náo nức chờ đợi, nhưng dù được nhà xuất bàn Tác Phẩm Mới của Hội
Nhà Văn in
với số lượng lớn, vậy mà người viết không làm sao không tìm thấy ở đâu
cả.
Ông/bà không giải thích lý do, nhưng than, (ôi) nỗi thất vọng tràn trề.
Thế rồi một
chiều Tr. phóng đến tìm tôi, tay vung vẩy tập thơ. Đúng là tập Lá, bìa
của họa
sĩ Trần Ngọc Quỳ đàng hoàng. Ở đâu? Văn Cao tặng tao, Tr. đáp, mặt vênh
lên như
tay chơi chính hiệu. Không tin hả. Thì đây, ở đầu tập thơ vẫn còn nét
chữ Văn
nguệch ngoạc, thứ chữ của một ông già bị nung đủ lửa. Mà lời đề tặng
rất tao
nhã, rất thơ: Gửi anh, một chiếc lá đầu - Văn. Cuối cùng Tr. mới thú
nhận rằng
nó nhặt ở... quầy sách cũ trên đường Điện Biên Phủ, góc đầu Hai Bà
Trưng!
Và đây là đoạn
về ông trời bơ vơ giữa chợ sách:
Người có nỗi
chuân chuyên của người, sách có sự thăng trầm của sách. Tại khu sách cũ
Nơ
Trang Long một chiều mưa, tôi gặp thi sĩ Bùi Giáng đang chăm chú với
một cuốn
sách cũ. Cứ ngỡ bậc tiền bối như Bùi tiên sinh thì không còn gì đáng
cho ông đọc
nữa, nhưng khi ông bỏ cuốn sách xuống đi ra thì tôi lại thấy đó chính
là cuốn
Tư tưởng hiện đại của... ông. Giở lam nham thấy nhiều trang còn nguyên
vết mực
tươi, chữ viết ngoằn ngoèo. Thì ra ông tìm đến quầy sách cũ để tiếp tục
sửa lại
những điều chưa vừa ý trong cuốn sách của mình!
Cá nhân người
viết không tin, chuyện "tìm, để" nhưng
cảnh tượng ông trời bơ vơ thưởng thức một buổi
chiều mưa như thế,
bằng những nét chữ còn tươi nét mực như vậy, chắc chắn là có thực. Tôi
bỗng
liên tưởng tới đoạn Zhivago về già, đi làm công cho một gia đình, gặp
ông chủ
nhỏ đang cắm cúi ghi chú lia lịa trên những trang sách, giơ tay vẫy vẫy
ra ý
xua đuổi, đừng làm rộn... nhân lúc vắng người, Zhivago tò mò lén coi:
hóa ra là
tác phẩm của mình! Hai hình ảnh, về cùng nhà thơ, một mơ tưởng một cuốn
sách đẹp
thật đẹp, cùng với nó là trách nhiệm của một người viết, và một (hình
như) hài
lòng vì thấy tác phẩm sống dai hơn mình...
Trong bài viết
Bùi Giáng và nỗi lòng Tô Vũ (Thế Kỷ 21, Tháng 11, 1998), Phạm Xuân Đài
nhớ lại,
kỷ niệm lần đầu ông đọc Bùi Giáng, "vào thập niên 50 trên tờ Phổ Thông
do
ông Vũ Quốc Thúc chủ trương chủ trương, xuất bản tại Hà-nội trước cuộc
di cư
năm 1954. [Đây cũng là một chi tiết thật hiếm quí; đa số độc giả, theo
tôi, chỉ
biết ông lần đầu, qua tập Mưa Nguồn ]. Tuổi học sinh đọc là tôi mê bài
ấy ngay,
nỗi mê gần giống như khi đọc Những Vì Sao, Les étoiles, của Alphonse
Daudet, có
lẽ với nhiều cảm động hơn. Một bên là chàng chăn dê giữa rừng núi với
tình yêu
bầy dê của mình, một bên là chàng chăn cừu với mối tình chớm nở với cô
con gái
ông chủ. Tuổi thanh niên dễ "bắt" những rung động ấy lắm!...
Theo Phạm
Xuân Đài, bài thơ Nỗi Lòng Tô Vũ, kỷ niệm một đoạn đời 15 năm chăn dê ở
núi đồi
Trung Việt - Nam Ngãi Bình Phú gây thắc mắc cho nhiều người. Ông đã
từng gặp
thi sĩ, nhưng quên nhờ giải thích: về thời gian, không làm gì có chuyện
Bùi
Giáng đi chăn dê trong 15 năm, về không gian thì cả vùng đồi núi Nam
Ngãi Bình
Phú là quá lớn đối với địa bàn chăn dê thật của thi sĩ. Và ông đành tự
giải
thích, xin tóm tắt đại khái: Thời gian và không gian, tuy có thật,
nhưng được nới
rộng ra. Mười lăm năm, có lẽ là mượn từ Kiều. Không gian, gợi nên không
gian
Liên Khu Năm thời kháng chiến chống Pháp. Thời gian ấy, không gian ấy
sẽ hỗ trợ
cho không khí và nỗi lòng của chàng Tô Vũ mới, và làm cho mối tình của
chàng với
bầy dê đượm một mầu sắc riêng... Mượn mười lăm năm luân lạc của Kiều để
chỉ một
thời gian ngắn hơn nhiều của đời mình, Bùi Giáng "có lẽ đã tiên cảm nỗi
bất
trắc lớn lao của dân tộc trong vòng vây không thoát được của chủ nghĩa
CS... Nỗi
lòng của Tô Vũ là nỗi lòng của một kẻ đi đầy". Và Phạm Xuân Đài kết
luận
rõ ràng đoạn đời 15 năm và đồi núi Trung Việt Nam Ngãi Bình Phú là một
lối nói
thậm xưng để thành một loại mật ngôn, nhằm chuyển tải một tâm sự. Ngay
cả việc
chăn dê cũng chỉ là một cái cớ. Nội dung bài thơ chỉ thuần túy nói về
việc chăn
dê và tình của tác giả với bầy dê, với hình ảnh ý tứ và ngôn từ đẹp,
nên thơ, độc
đáo. Duy tựa đề và nhất là câu đề từ hơi lạ... nhưng đó chính là một
mấu chốt
không thể giải của bài thơ Nỗi Lòng Tô Vũ.
Theo tôi những
nhận định của Phạm Xuân Đài về bài thơ Nỗi Lòng Tô Vũ: nội dung bài thơ
chỉ thuần
túy... cho thấy rất nhiều, nếu không là tất cả về nhà thơ, và điều này
được khẳng
định qua tập Mưa Nguồn, qua những tác phẩm dịch thuật, qua cách ăn ngủ
dầm dề với
lục bát, cho dòng thơ này làm bạn với chuồn chuồn châu chấu, mẫu thân,
người đẹp...
Mượn hình ảnh rất đáng yêu, rất ngạo mạn, rất ngổ ngáo, rất "ngồ ngộ"
của thi sĩ Anh, Auden, tôi nghĩ, Bùi Giáng cũng muốn trả lời như vậy,
khi được
hỏi ông muốn gì khi ăn ngủ đi đứng với thơ: ông muốn bảo vệ sự vẹn toàn
của tiếng
Việt, thoát ra khỏi mọi quyền lực nhằm lạm dụng nó, trước khi nó bị
thương tổn
nặng nề.
Hãy lấy một
thí dụ, bây giờ những người tuổi trẻ ở trong nước, hỏi nhau trước khi
đi thăm
"em út": Mày có "đạn" không?
Ngay cả những
tiếng nói thật bình thường, những danh từ xưng hô như Bác, Cháu, Anh
Hai, Anh
Ba.... nhiều khi người được gọi nghe thấy gai trên mấy đầu ngón tay...
Thời gian,
không gian, và một chàng Tô Vũ chăn dê ở đây, là một vùng đất đã mất
(lost
domain), nơi tiếng Việt, chàng Tô ẩn náu cùng với bầy dê, trước Kinh
Hoàng Lớn
sẽ tới.
Lost domain,
Vùng đất đã mất, là một trong những ẩn dụ lớn của văn chương. Một huyền
thoại của
đời sống: Vườn Địa Đàng, Tuổi Thơ, Nàng Công Chúa Xa Vời, hay dùng ngôn
ngữ
phân tâm học: người mẹ được thánh hóa, lý tưởng hoá của tuổi thơ (chúng
ta gặp
mẫu thân Kim Cương ở đây).
Thi sĩ như một
ông vua, ông trời, như một kẻ sẽ chẳng bao giờ kinh qua địa ngục, sẽ
chẳng bao
giờ là nạn nhân...
Anh ta chẳng
khác gì nhân vật thần thoại Gryphon [Nhân vật mình, chân sư tử. đầu
cánh, tai
chim ưng, tượng trưng cho sức mạnh, nhanh nhện, và cái nhìn sắc
bén.được miêu tả
trong Lò Luyện Ngục, Canto XXXI]. Không ngừng là chính mình, anh ta
biến thành
cái bóng của chính anh ta; Paz viết về thi sĩ. Về kinh nghiệm thi ca:
chỉ là mặc
khải phận người. [Thi ca và Lịch sử , trong The Bow and the Lyre].
Với Bùi
Giáng, một phận người thật yêu thương, đôi khi thật ngậm ngùi. Và hình
ảnh nhà
thơ nhập vào, là ca dao, Truyện Kiều, lục bát, trên tất cả, là tiếng
Việt với tất
cả những thăng trầm của nó.
Nói về khùng
điên, phải có tài của một thi sĩ.
[Bản dịch tiếng
Anh: To speak of madness one must have the talent of a poet].
Michel
Foucault
Xin vĩnh biệt
nhà thơ.
NQT
Witness of
Poetry
Bùi Giáng, Một Bài Thơ
Lạc Vận
NDT
NXH Blog VOA
*
Em thương
anh như thương một ông trời bơ vơ...
Bùi Giáng
Auden: Gì nữa
đây?
Ký giả: Tôi
tự hỏi, nhà thơ số một hiện đang còn sống được coi là người bảo vệ sự
vẹn toàn
tiếng Anh của chúng ta, là ai theo ông?
Auden: Tại
sao (không phải là) tôi, lẽ dĩ nhiên!
(Chuyện trò,
Mùa Thu 1972).
Nói về khùng điên, phải có tài
của một thi sĩ.
[Bản dịch tiếng Anh: To speak of madness one must have the talent of a
poet].
Michel Foucault
Nhân bài viết
về Bùi Giáng của NDT trên VOA
Nhân câu
chuyện NBC được ‘Nobel toán’ [Gấu sợ rằng cái vụ ‘cả nước’ gọi giải thưởng
Fields là 'Nobel toán', là do thuổng… TV, qua bài viết ‘Hôm nay
nhân loại nói
chung một tiếng nói’: René Thom cho rằng
toán học gia
là những người rất buồn vì họ không thể chia sẻ niềm vui với những
người không
phải là toán học gia, và ông tự hỏi, toán học có phổ thông không. Người
da đỏ,
người Trung Hoa có lý giải, raisonner, như những người Âu châu?
Ông là người Pháp, giải thưởng Fields, 1958, tương đương với Nobel. Sở
dĩ không
có giải thưởng Nobel về toán, chỉ vì mối giao tình giữa bà vợ của Nobel
với một
toán học gia Thuỵ Điển khi đó, và giải thưởng này nếu có, sẽ về tay ông
ta, một
điều không một ông chồng nào muốn.].
Nhân
ý của Steiner về từ ‘đẹp’.
Nhân
câu ‘những khám phá lớn lao dành cho thiên tài’
Chúng
ta đặt vấn đề:
Liệu,
trong âm nhạc, nghệ thuật.. có 'những khám phá lớn lao dành cho
thiên tài'?
Gấu
thực sự tin rằng, có, xẩy ra hoài hoài, có khi chẳng cần phải đợi!
Và
có khi phải đợi, sợ còn lâu hơn, so với bên khoa học!
Theo
nghĩa đó, Gấu sẽ chứng minh, Bùi Giáng là một nhà thơ đích thực.
Còn
cái chuyện
điên của Bùi Giáng, cũng đích thực như ông là nhà thơ đích thực.
Trước tiên,
để chứng minh, thì cũng phải đưa ra những giả thiết, như bên toán.
Giả thiết đầu
tiên, là bài viết của Yann Martel về Thư
gửi thi sĩ trẻ của Rilke.
Artaud,
'Giàng Búi' Tây
Nếu chúng ta
để ý, thì có thể nhận ra một điều là, những người chê BG, đều chưa từng
làm thơ.
Nếu có người viết văn, thì văn của họ không có tí thơ nào ở trong đó
cả, và khi
viết, họ ít sử dụng tới trí tưởng tượng, và thường viết thứ văn hiện
thực, những
loại ký, tự sự, truyện kể…
Đừng coi nhận
xét trên là một lời chê bai.
Người ta định
nghĩa, thi sĩ là kẻ nhìn thấy khía cạnh giống nhau của những sự vật bề
ngoài
không có vẻ gì giống nhau hết; và thơ là sự so sánh quá đáng
[comparaison
forcée] giữa những sự vật tưởng như không thân thuộc đó. Thi sĩ, kẻ ở
giữa người
thường và kẻ điên, bởi vì người điên nhìn mọi vật đều giống nhau hết.
Michel
Foucault định nghĩa, người điên là kẻ bị vong thân trong trò chơi tương
tự, người
của những giống nhau quá đáng đến trở thành man rợ.
Bùi Giáng điên,
khi đang là thi sĩ, đi quá mép bờ, vượt qua cõi của những giống nhau
đến trở thành
man rợ: TTT gọi, đây là trường hợp tự huỷ của thiên tài, với BG, là
thiên tài
ngôn ngữ: tiếng Việt. Còn Foucault, như trên, gọi là, bị vong thân,
aliéné,
trong trò chơi tương tự.
*
Thụy Khuê viết:
“Trong gần nửa
thế kỷ làm thơ, Bùi Giáng đã để lại hàng ngàn bài, có những câu thơ
tuyệt hay,
nhưng chính sự lập lại những khám phá ngôn ngữ buổi đầu khiến thơ ông
trở thành
khuôn sáo về mặt từ ngữ cũng như tư tưởng. Những dạ thưa, tồn sinh,
trùng lai,
phố thị của Bùi Giáng,
tà huy của
Nguyễn Gia Thiều, mù sa, trăm năm của Nguyễn Du ban đầu làm xao xuyến
người đọc...
Nhưng vì lập lại nhiều lần, chúng bị phá giá.”
Còn Trần Hữu
Thục trong một bài nhận định của mình đã viết rằng:
“Nói cho rõ
ràng ra, thơ của Bùi Giáng dở. Trừ một số câu thơ hay, chưa hẳn là rất
hay, còn
lại hầu hết thơ ông đều dở. Tôi có cảm tưởng rất nhiều câu thơ của ông
làm chẳng
khác gì những câu thơ ngây ngô của mình khi mới bắt đầu tập tễnh làm
thơ hồi
còn học trò.”
Nếu
chúng ta để ý, thì có thể nhận ra một điều là, những người chê BG, đều
chưa từng
làm thơ. Nếu có người viết văn, thì văn của họ không có tí thơ nào ở
trong đó cả,
và khi viết, họ ít sử dụng tới trí tưởng tượng, và thường viết thứ văn
hiện thực,
những loại ký, tự sự, truyện kể…
Đừng coi
nhận xét trên là một lời chê bai.
*
'Lòng
người như đại dương, sâu thì thăm thẳm, rộng thì mênh mông. Nói lời đau
lòng
như ném chiếc kim vào chốn không cùng ấy, sau có muốn lấy lại thì cũng
chẳng biết
đâu mà tìm!' (1)
Bùi Giáng
Ui
chao, nghe như Gấu Cái chửi Gấu, những lần Gấu quá nặng lời.
Khen
đấy, mà chửi đấy,
‘uyên bác’ như mi, chửi câu nào nặng như chì, đâu phải cây kim?
Note:
Câu thơ ‘Em thương anh như thương một ông trời bơ vơ’, cũng là
của
Gấu Cái lọc ra, giữa những 'vần thơ ngây ngô hồi
còn đi học'!
Chả
là, thơ của TKH lẫn thơ BG!
(1) Lạ, là câu nói
của BG, trên, cũng là của một nhân vật của Thảo Trần:
Uyên đã thực
sự rời bỏ dòng sông để ra biển cả, không hề hiểu được một điều: biển
cả, bởi vì
mênh mông, cho nên thật khó mà nhận ra con đường ngày ra đi, hay tìm
thấy được,
con đường trở về...
Nơi giòng sông chảy về phía nam
Ui chao, tuyệt
cú mèo!
Take care
Chúc Mừng
Noel
Richie &
Jennifer
Happy Christmas
Noel 2011
You who were
born this night
To tear us
from the Devil’s might
-
TRADITIONAL POLISH CAROL
Đấng sinh ra
đêm nay
Để kéo chúng
ta ra khỏi quyền năng của Quỉ
Đồng dao Ba
Lan
[Czeslaw
Milosz trích dẫn]
Whoever
considers as normal the order of things in which the strong triumph,
and the
weak fail, and life ends with death, accepts the devil's rule.
Kẻ nào coi
trật tự sự vật, như là bình thường, theo đó, kẻ mạnh thì
thắng, kẻ yếu
thì thua, và đời thì chấm dứt bằng cái chết, kẻ đó chấp nhận luật của
Quỉ.
Czeslaw
Milosz
Thiên hà ngôn
tai?
Khổng Tử
“That every
question possessed a power that did not lie in the answer. Man raises
himself
toward God by the questions he asks Him. He was fond of repeating”
Elie Wiesel: Night
Mọi câu hỏi
có trong nó quyền năng không nằm trong câu trả lời. Con người nâng nó
lên về Chúa
bằng những câu hỏi mà nó hỏi Người. Và con người hài lòng lập đi lập
lại
[Trích từ bài
viết “Steiner’s Fiction and the Hermeneutics of Transcendence”, trong
“Reading
George Steiner”, The Johns Hopkins University Press.]
chúng ta cần.
(và) giáng sinh
những bóng. đèn con treo.
đầy
khu shopping
bóng. lộn
đồ. chất đầy.
ụn
ai. cũng tất
bật. vội vã
cười. nói.
big sale
đứa bé gái.
đứng giữa. khu shopping
trông lạ.
cái chuông nhỏ. reo. vang
em cứ thầm
thì. với mùa. lễ hội
tôi xa. vắng
những chiếc.
xe hơi. nghẽn
trong khu
shopping. chật ních
họ. merry
chrismas. và xin. tiền
em cười. bầy
con nít. ngất ngây
tiếng ca
chim sẻ. ríu rít. mùa đông
họ. đang nói
về mùa. bầu cử
trong năm tới.
chiếc áo khoát
thất nghiệp.
không đủ. ấm
có lẽ vậy.
khói thuốc bay. nồng
mùi. giáng
sinh
cả một năm.
đi. làm
không gặp lại.
người thân
đã một năm
tóc. đã bạc
thêm. em. có thấy
đừơng nét nổi.
trên những bàn tay. khuôn mặt
cái lạnh. ẩn
núp. dưới xương. tủy
những đứa.
loai choai. cặp kè
trông. chẳng
muộn phiền. gì
cũng như.
chúng mình. lúc trước
chúng đợi.
giáng sinh. về
chúng đợi.
những ngày. nghỉ
chúng đợi.
những hôp. quà
chúng có. đầy
ắp tình. iêu
gió lạnh.
em. cắn môi đến. bật máu
ngày xưa.
con dốc trượt. dài với tuyết
anh tìm. bàn
tay. trong bóng tối
đốt sáng. bằng
nụ. hôn
rối xa. đến
vô cùng
ngây dại. buồn
thê
mùa đông. tiếp.
mùa đông
và em. phục
sinh
và giáng
sinh. về. đôi môi. đỏ
màu xám chì.
trên bầu trời
ngày. dù ảm
đạm
chiếc xe. vụt
trên xa. lộ
tìm đường. về
trái tim. bỏ.
ngỏ
tuyết trắng
rơi. thay. cho lông ngỗng
mỵ châu. nhỏ
nhoi. giữa bầu trời
xa. lạ. và
tuyết. tan
thành. những
giọt nước. mắt
tiếng
chuông. chênh vênh
gọi. mùa
giáng sinh
anh. gọi. em
cái chớp. mắt
thời gian xa. vợi
Đài Sử
Trang thơ Noel 2011
Apollinaire: Zone
Bản dịch tiếng Anh của Beckett
Sáng nay tôi
nhìn thấy 1 con phố thật đẹp mà tôi quên mất tên
Đây là con phố trẻ mà tôi là 1 thằng bé
Chúa chết Thứ Sáu và sống lại bữa Chúa Nhật
Rough Outline
The famous torturer takes a walk
Whom does he see standing there in the snow
A pretty girl in a wedding dress
What are you doing out there all alone in the cold
You're the famous torturer much
feared
I beg you to spare my love
Who is in your darkest prison cell
I wish to marry him etc.
I will not give back your
bridegroom
He must be tortured tonight
By me personally
You can come along and help him lament his fate
She remained where she was
The night was cold and very long
Down by the slaughterhouse a, dog-like creature howled
Then the snow started to fall again
Charles Simic
Nan
Đề
Tên tra tấn nổi tiếng làm 1
cú tản bộ
Ai đứng ngoài
tuyết kia?
Một cô gái đẹp trong chiếc áo cưới
Làm sao mà đứng giữa trời tuyết một mình cô em?
Ông là tên tra tấn nổi tiếng và
ai cũng rất sợ
Tôi năn nỉ ông tha cho người yêu của tôi
Đang nằm trong phòng giam âm u
Tôi mong được kết hôn với anh ta, vân vân và vân vân
Ta sẽ không trả lại chú rể cho
cô bé đâu
Tối nay nó sẽ bị tra tấn
Cô có thể tới coi
Và giúp anh ta than thở số phận của mình
Cô gái đứng đó, nơi cô đứng đó
Đêm thì lạnh và thật là dài
Ở bên dưới phố, Phượng Trong Thành Nội,
kế bên căn nhà đồ tể
một con vật
giống như 1
con chó sói
tru lên.
Và tuyết lại bắt đầu đổ
xuống
LINDENS
So much sweetness-
the city's been anesthetized;
a skinny boy, who barely
takes up space on earth,
and a dog,
and I, a soldier in an unseen war,
and a river I love.
The lindens bloom.
Đoan
Ngọt quá –
Thành phố lịm đi
Một đứa trẻ gầy gò, vừa mới ló ra với đời
Và một con chó
Và tôi, một tên lính trong 1 cuộc chiến không nhìn thấy
Và 1 con sông mà tôi yêu
Đoan nở rộ
SEPARATION
I read almost with envy my contemporaries' verse:
divorces, partings, wrenching separations; anguish, new beginnings,
minor deaths;
letters read and burned, burning, reading, fire, culture,
anger and despair-the very stuff of potent poems;
stern verdicts, mocking laughter of the lofty moralists,
then finally the triumph of the all-enduring self.
And for us? No elegies, no sonnets about parting,
a poem's screen won't rise between us,
apt metaphors can't sever us,
the only separation that we don't escape is sleep,
sleep's deep cave, where we descend alone
-and I must keep in mind that the hand
I'm clasping then is made of dreams.
Xa cách
Tôi đọc mà phát thèm thơ những
người cùng thời:
Ly dị, bỏ đi, đau đớn mỗi người một ngả
Nhức nhối, khởi đầu mới, chết lãng xẹt;
Thư đọc, và đốt, cháy, đang đọc, lửa, văn hóa
giận dữ và chán chường - bảnh nhất thì cũng chỉ tới cỡ đó, thứ thơ ca
mãnh liệt;
những lời tuyên án nghiêm khắc, cái cười chế nhạo của mấy đấng đạo đức
kiêu căng
Và sau cùng là sự chiến thắng của cái tôi to tổ bố, vừa dai vừa dài vừa
dở như hạch.
Và cho chúng ta ư? Không bi
khúc, ai điếu, không trường đình, đoản đình tiễn biệt
Màn hình bài thơ không hiện ra giữa chúng ta
ẩn dụ oách hay không oách chẳng thể phục vụ chúng ta.
Cú chia cách độc nhất mà chúng ta không thể trốn thoát là… ngủ.
Cái hang sâu hoắm của giấc ngủ, nơi chúng ta xuống, một mình -
Và luôn tỉnh táo, ghi vô trong đầu, cái bàn tay
[Ở trong rạp xi nê, bữa trước khi đi trình diện
Trung Tâm Ba Tuyển Mộ Nhập Ngũ, Quang Trung]
Cái bàn tay mà Gấu cầm bữa đó,
thì làm bằng những giấc mộng.
Chúc vui, khỏe,
và thanh thản trong mùa lễ cuối năm .
Và gởi bài
thơ cho GNV :
Đọc giữa hai
hàng chữ
Hình như lúc
em được tượng hình
Thượng Đế
đang ngồi nhìn mông mênh
Lỡ tay đánh
vỡ đôi mắt ngọc
Đành nhặt
sương đôi hạt rơi quanh
Mắt em từ đó
chẳng bao giờ
Nhìn cho thật
rõ với người ta
Trần gian bỗng
trở thành thi vị
Những hình,
những bóng nhẹ nhàng qua
Thuở bé mẹ dắt
tay cổ tích
Trong vườn
đâu thấy những gai đâm
Đâu thấy sâu
nằm trong tơ kén
Chỉ thấy hoa
và bướm bâng khuâng
Anh cứ viết
mực màu đen mướt
Chữ kẽm gai
trên giấy đỏ tươi
Cứ việc nhắc
những ngày lạnh buốt
Qua mắt em
chỉ thấy mặt trời.
K
Tks. NQT
Date: Sun,
12 Sep 2010 16:48:26 -0700
Dear GNV,
How have you
been? I hope you enjoy your vacation and take care.
Bac Gau oi,
dung lien luy nhieu voi cay viet khac.
Enjoy your
works, your life and family.
Your readers
and your family need you and are more important.
Soon,
H/A
Take Care.
Merry Christmas
to U and Family
Dec, 25,
2011
NQT
Bên sông chiều mưa tới
Bên ta cụm khói rời
Sau lưng ngày con gái
Môi son đừng biếng lười
Merry Christmas and Happy New Year to CM
NTK's
Thơ
Mỗi Ngày
Tưởng
Niệm Bùi
Giáng
Trả lời tờ
The Paris Review, tại sao ông bực mình cái chuyện “chúng” cho in
những bản nháp
của Hoang Địa của Eliot, thi
sĩ Auden trả lời:
-Bởi vì không
có dòng nào mà ông viết ra khiến một người nào đó mong ước, là ông muốn
giữ lại
dòng thơ đó. Because there’s not a line he left out which makes one
wish he’d
kept it.
Áp dụng vào
trường hợp “chúng” in “Đười Ươi” mà coi là “Chân Kinh”, của BG, thì
cũng rứa.
Auden chửi “chúng”
tiếp:
Tôi nghĩ thật
nhục nhã xấu hổ mọi người bỏ ra nhiều cho 1 bản nháp hơn là cho một bài
thơ hoàn
tất: “ I think it shameful that people will spend more for a draft than
for a
completed poem."
Holzwege:
.... Dans la
forêt, il y a des chemins qui, le plus souvent encombrés de
broussailles,
s'arrêtent soudain dans le non-frayé.
On les
appelle Holzwege.
Chacun suit
son propre chemin, mais dans la même forêt.
Souvent, il
semble que l'un ressemble à l'autre. Mais ce n'est qu'une apparence.
Bûcherons et
forestiers s'y connaissent en chemins. Ils savent ce que veut dire:
être sur un
Holzweg, sur un chemin qui ne mène nulle part Trong rừng, có những con
đường cồng
kềnh, chằng chịt với những bụi cây, khi không khựng lại không sao nhúc
nhích.
Người ta gọi
là Holzwege.
Mỗi người
con đường của riêng mình, nhưng cùng 1 khu rừng.
Thường là
con đường này giống con đường kia. Nhưng đó chỉ là bề ngoài.
Mấy đấng tiều
phu, mấy ông kiểm lâm rất rành chuyện này. Họ biết “ở trên một
Holzweg”: ở trên 1
con đường chẳng dẫn tới đâu
January-22-10
4:55:05 AM
Kính gởi Gấu
Nhà Văn,
Tôi được đọc
bài thơ "Biển" cuả ông trong Tin Văn, nó làm cho tôi thấy buồn quá.
Xin gởi tặng
ông hình cuả "tôi" bên bờ biển, như một lời chào.
Trang Tin
Văn cuả ông thật bổ ích và thú vị. Chỉ có điều tôi không biết cái
index, map cuả
website Tin Văn như thế nào, vì trong "Nhật Ký" chỉ lưu từ 2003 đến
2007, mong ông chỉ cho. Tôi
nhiều khi bị lạc vì các ngã ba ngã tư trong
bài,
nhưng lại bắt gặp thêm nhiều kỳ thú.
Chân
thành cảm
ơn ông.
Xuân
Tặng BG
Vẫn thấy
trong mơ đời trở giấc
Cỏ cây rù
quyến gió hoang đàng
Trời xanh
cao vút giếng nước ngọc
Đất hiền thở
hương nắng thênh thang
1976
TTT: Thơ Ở Đâu
Xa
Note: 1976,
sau 1975 một năm.
V/v. Những
con đường rừng
Đọc "Note préliminaire",
bản dịch tiếng Pháp:
Cái tít tiếng
Đức của tác phẩm này là Holzwege. Cái tít thì quá mờ hoặc. Cái nghĩa
đầu
tiên của Holzweg đúng là “con đường” (Weg) ăn vào “rừng” (Holz) để mang
củi (gỗ
được chặt, cắt, bois coupé (Holz) – như vậy nghĩa đầu tiên là “con
đường rừng”,
nghĩa này vẫn còn được sử dụng vào những ngày của chúng ta...
Date: Sun,
11 Jul 2010 12:38:54 -0700
Không
những
viết rất hay về Nguyễn Tuân, GNV còn viết rất hay, tuy không dài, về
Bùi Giáng.
Một phận người
yêu thương và ngậm ngùi...
Tks
NQT
Sau khi
tìm
ra bài thơ này in trong tập “Mưa nguồn” của thi sĩ “khét
tiếng” họ Bùi, tôi gặp nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường và đọc lại cho
ông
nghe. Tuy Hoàng Phủ Ngọc Tường nói chưa được rõ lắm, nhưng tôi nghe lời
nhận
xét của ông về bài thơ này, đại ý: “Đây là một bài thơ tóm gọn hiện
tượng
luận của Heidegger trong quyển Những con đường rừng: khách
thể (ở
đây là chân lý) có đặc điểm cởi mở (sẵn sàng để được nhận thức) và chủ
thể thì
hiểu bằng sự thông cảm. Hình như Bùi Giáng thích hiện tượng luận của
Heidegger hơn là thuyết hiện sinh của J-P Sartre. Chả thế mà
trong một
cuốn sách viết về Heidegger (in năm 1963), Bùi Giáng đòi dùng roi quất
J-P Sartre “để cho nó biết thế nào là triết học”, và khi có
người chê
quyển sách ấy thì Bùi Giáng đến sớm gõ cửa đòi đánh nhau”!
Ngậm ngùi.
GCC nhìn thấy
BG, lần đầu tiên, khi ông đứng bên kia đường, tính qua đường, ghé quán
cà phê,
và bà vợ của vị chủ quán chạy xe qua mặt ông, cũng ghé quán. Ông đưa
tay vỗ vào
sau lưng bà chủ quán, và cũng là vợ 1 người bạn, cũng thi sĩ.
Đó là lần đầu tiên GCC hân hạnh được uống cà phê với ông. Gấu nhớ tới
lần viết bài cho Thời Tập của Viên Linh, hình như là về Quang Dũng,
cũng dân Sơn
Tây như Gấu, và Gấu có đưa ra 1 nhận xét, người ta chỉ làm thơ khi còn
nhỏ, vừa
mới lớn, và khi về già, làm gì có thứ trung niên thi sĩ.
Gấu lúc đó không biết
BG có cái nick là “trung niên thi sĩ”. Gấu nghe kể lại là, sau đó BG đi
kiếm
VL, tính hỏi tội, và, tất nhiên, qua VL, hỏi tội thằng viết bài.
BG làm thơ
nhiều quá, dễ quá, cho nên có nhiều đấng coi thường thơ của ông. Nhưng
đó là
chuyện sau này. Khi ông làm “Mưa Nguồn”, thì quá bảnh, quả đúng là thi
sĩ.
Nhân đây, nhớ
ra, không phải tự nhiên mà GCC mò số báo cũ, có bài thơ về lần vượt
biển tại Vàm
Láng, ra tới cửa biển Vũng Tầu bị gặp bão, máy chết, nhờ vậy mà thoát
chết, bởi
vì nếu ra xa quá, là hết dạt vô bờ, được công an biên phòng tóm, cho đi
tập
trung cải tạo hai niên ở Trại Bà Bèo.
GCC kiếm số
báo trên, để đọc bài viết của Charles Smic về Elizabeth Bishop. Theo
Simic, Bishop
làm thơ đã ít, mà in thơ lại càng ít, bà là 1 người cầu toàn, a
perfectionist,
chữ của Simic.
Ông viết: Bà chưa từng cho in 1 bài thơ tồi. She never published
a bad poem.
Như bà trả lời 1 cuộc phỏng vấn, bà sửa soạn để đợi 40 năm, cho 1 bài
thơ, để hoàn tất nó [trong túi luôn có 1 bài thơ đang làm dở, như Cô Tú
phán],
bởi vì một nhà thơ tốt chẳng bao giờ phải vội vã [since no good poet
can afford
to be in a rush].
Khi BG làm Mưa
Nguồn, ông chưa điên. Sau đó, ông điên, và đa số thơ ông làm vào thời
kỳ này, dở. Người
ta cứ thổi cái sự điên của ông, nhưng điên làm hỏng ông.
Ngậm ngùi còn là như vậy
nữa.
Cái gì gì "Đười
ươi chân kinh"?
Nhảm vừa vừa
thôi.
NQT
The art of Elizabeth Bishop
Poetry in paint
Elizabeth
Bishop’s Other Art
Cũng vô lý
như làn kia dưới lá
Con chim bay
bỏ lại nhánh khô cành
Lá cũng mất
như một lần đã lỡ
Trời đã xanh
như tuổi ngọc đã xanh
Trời còn đó
giữa tháng ngày lỡ dở
Hồn nguyên
tiêu ai kiếm lại cho mình
Bờ trùng ngộ
một phen này phen nữa
Tờ cảo thơm
như lệ ứa pha hồng
Hồn hoa cỏ
Phượng Thành Hy Lạp úa
Nghe một lần
vĩnh viễn gặp hư vô.
Đọc một lần,
đọc hai lần những câu thơ ấy của Bùi Giáng, ai có thể cả quyết ông nói
tới điều
gì?
NDT
Bài thơ trên,
nếu đừng cố tìm nghĩa của nó, thì lại nhận ra nghĩa của nó!
Nó "tự nhiên"
vô cùng.
Và
đây cũng chính là thơ của
E. Bishop, như chính thi sĩ khẳng định, qua Simic:
What she most admired in poetry was the naturalness of tone. "It takes
great skill to make it seem natural," she said. She was never afraid of
sounding flat, trusting ordinary words to make sublime poetry. Điều mà
bà mê nhất
trong thơ là sự tự nhiên của giọng. Phải cực có tài mới làm được điều
này, làm
cho nó tự nhiên. Bà chẳng hề sợ thơ của bà có vẻ sến, và tin cậy ở
những từ
bình thường để làm thơ siêu thoát, cao cả.
Mong ước của
Bishop cũng có thể là mong ước của BG [ông đâu muốn trở thành trò hề
"Đười Ươi Chân
Kinh"]:
When you
write my epitaph, you must say I was the loneliest person who ever
lived,"
she told Robert Lowell in 1948.
Khi anh viết
câu đề trên mộ của tôi, anh phải nói, tôi là 1 người cùng cực cô đơn đã
từng sống ở
trên đời này.
Nếu để ý đến
cái trò hề người đời xưng tụng ông, thì BG quả là 1 người cùng cực cô
đơn.
NQT
The Power of
Reticence
Quyền uy của
sự Kiệm lời
Charles
Simic
Edgar Allan
Poe & The Juke-Box:
Uncollected
Poems, Drafts, and Fragments
by Elizabeth
Bishop,
edited and
annotated by Alice Quinn. Farrar, Straus and Giroux,
367 pp.,
$30.00
....
When you
write my epitaph, you must say I was the loneliest person who ever
lived," she told Robert Lowell in 1948. Elizabeth Bishop's life started
with a double tragedy. Born in Worcester, Massachusetts, on February 8,
1911,
she lost her father when she was eight months old. He had been an
executive in
a construction company founded by his own father. Her mother, who came
from
Canada, never recovered from the shock and was committed to a
sanitarium when
Elizabeth was four. She never saw her again. From the ages three to
six, she
lived in Great Village, Nova Scotia, with her maternal grandparents,
and then
from 1918 to 1927 in various suburbs of Boston with her mother's older
sister,
who was married but childless. Kept from school often by asthma,
eczema, St.
Vitus's dance, and various nervous ailments, she was primarily educated
at home
until at the age of sixteen she was enrolled at the prestigious Walnut
Hill
School for Girls in Natick where she published her first poems in a
student
magazine.
…
It is marvelous
to wake up
together
At the same minute; marvelous to
hear
The rain begin suddenly
all over
the roof,
To feel the air suddenly clear
As if electricity had passed
through it
From a black
mesh of wires in the
sky.
All over the
roof the rain hisses,
And below, the light falling of
kisses.
An
electrical storm is coming or
moving away;
It is the
prickling air that wakes
us up.
If lightning
struck the house now,
it would run
From the
four blue china balls on
top
Down the
roof and down the rods
all around us,
And we
imagine dreamily
How the
whole house caught in a
bird-cage of lightning
Would be
quite delightful rather than
frightening;
And from the
same simplified
point of view
Of night and
lying flat on one's
back
All things
might change equally
easily,
Since always
to warn us there
must be these black
Electrical wires dangling.
Without
surprise
The world
might change to
something quite different,
As the air changes or the
lightning
comes without our
blinking,
Change as
the kisses are changing
without our thinking.
What she
most admired in poetry was the naturalness of tone. "It takes great
skill
to make it seem natural," she said. She was never afraid of sounding
flat,
trusting ordinary words to make sublime poetry. There are a few awkward
lines
in this untitled poem that she may have wanted to fix, but most likely
she kept
it out of her first book because of its subject matter. It may not have
mattered or been clear to the reader that this was a lesbian love poem,
but it
apparently did so to
Bishop, who censored herself, being still uncertain about her sexual
inclinations
at the time. It was written, according to Alice Quinn's detailed and
invaluable
notes, either in the late 1930s for Louise Crane, a college friend, or
for
Marjorie Stevens, a woman she was living with in Key West between 1941
and
1946. A notebook from this period and a typed copy of the poem were
given to a
Brazilian friend who read no English and it was not discovered until
the
American poet and scholar Lorrie Goldensohn visited Brazil in 1986 and
met the
woman while doing research for her book on Bishop.
Thật là tuyệt
cú mèo khi thức dậy, cùng nhau,
Cùng 1 phút;
tuyệt cú mèo khi nghe
Mưa bất thình
lình rơi trên mái tôn
Ngửi thấy mùi
không khí bất thình lình sạch ơi là sạch
Như thể điện
chạy qua nó
Từ mạng dây đen
trong bầu trời
Suốt mái tôn
mưa rả rích
Và để rớt xuống
bên dưới một đợt hôn nhè nhẹ
NYRB April
27, 2006
Tình cờ đọc
bài thơ trên, trong 1 số báo cũ.
Làm nhớ phép
lạ đêm 23 Tết, ở ngọn hải đăng Vũng Tàu (1)
(1) Viết là Khiếp
Đêm 23 tháng
Chạp, năm 1985, cùng lúc với ông Táo chầu trời, trên một chiếc tầu vượt
biển sắp
sửa chìm gần ngọn hải đăng ở cửa biển Vũng Tầu, có một ông già bị cậu
thanh niên
đứng kế bên lầm là người yêu của anh.
Quá khiếp đảm trước cái chết có thể xẩy tới
bất cứ lúc nào, cậu thanh niên điên cuồng vò đầu, vò tai người yêu, tức
ông
già, lảm nhảm những lời hoảng loạn. Tuy đang bận tâm vì một chuyện
khác, ông
già vẫn nhận ra, nước biển mặn, lạnh buốt, còn nước mắt của cậu thanh
niên, mặn,
nóng hổi, rát hằn một bên má. Những cột nước như từ trên trời đổ mãi.
Con thuyền
chúi sâu xuống khoảng không đen, sâu thẳm, rồi bị đẩy bắn lên cao, chót
ngọn
sóng.
Ông già đang nhớ lại những lần chết trước đó.
Kiểu Cổ
Tôi nhớ một
bức họa cổ, được vẽ rất ư là chi li, tỉ mỉ.
Bị một con cá
voi nuốt, một người đàn ông nhỏ con, mặc áo cà sa, ngồi trong bụng cá,
ở 1 cái
bàn nhỏ, có một ngọn đèn dầu.
Nhưng thỉnh
thoảng, con cá mập bị đói. Và đây là bức họa thứ nhì.
Một lượng nước
lớn lao từ cổ họng con cá voi ào vô bụng, trong có 1 lượng cá nhỏ.
Cái bàn với
cây đèn dầu bị lật đổ, người đàn ông nhỏ con hụp lặn, vùng vẫy chống
lại bức tường
trơn trượt là 1 khối lượng khổng lồ ở trong bụng con cá voi.
Khi sóng rút
đi, ông ta đặt cái bàn cho ngay ngắn trở lại, treo cây đèn lên, và bắt
đầu
làm việc.
Có lẽ ông ta
đang nghiên cứu Cựu Ước? Có lẽ ông ta nghiên cứu những bản đồ?
Một người vượt
biển, vào mùa biển động, may mắn thoát chết một cách kỳ diệu như ông
ta, thì sẽ
quan tâm đến cái sự gì ở trên đời, nhỉ?
GCC
thường nghĩ
đến mấy bức họa cổ đó, khi, hằng đêm, xếp mấy cuốn sách đang đọc dở lên
bàn, để
viết Tạp Ghi cho trang Tin Văn, sau khi đã cài cửa ngõ rất ư là cẩn
thận!
Thì thầm muộn
trong đêm từ Ba Lan
Note: Charles
Simic điểm mấy cuốn mới ra lò của ba nhà thơ Ba Lan, trên NYRB, Dec 22, 2011.
Đọc câu sau đây,
mà chẳng sướng & tủi sao?
It is truly
remarkable how many fine poets Poland has given to the world in the
last
century. This is an extraordinary accomplishment for a country used as
a short
cut in two world wars by both German and Russian invading and
retreating
armies, who, in addition to redrawing its borders repeatedly and
occupying it
for years, slaughtered millions of its citizens and deported others.
Perhaps,
as Czeslaw Milosz speculated back in 1965, in the preface to his
much-admired
anthology Post-war Polish Poetry, a poet crawling out from under the
historical
steamroller is better prepared to assume the tasks assigned to him than
his
colleagues in happier countries. For us, he said, "history is extremely
real. It may not be to American poets, but for us it is very, very much
a part
of reality."
This sounds
plausible, although as Milosz himself noted elsewhere, only a small
percentage
of human suffering ever gets into literature, while most of it
disappears
without a trace. Many nations that had undergone similar horrors have
remained
comparably mute afterward, so the vitality of Polish poetry must be due
to many
other factors besides its history. Nevertheless, even a cursory look at
the
lives of the three poets under review here leads one to the inescapable
conclusion that the despair and moral outrage provoked by what happened
to
their nation were decisive for each of them.
Thực sự đáng
kể, là con số khá nhiều nhà thơ tuyệt vời Ba Lan đã đến với thế giới
trong thế
kỷ vừa qua. Quả là 1 thành tựu lạ kỳ của một xứ sở được coi như là một
“short
cut” [đường cắt ngắn, lối đi tắt…] giữa hai cuộc thế chiến, bởi cả hai
quân đội
Đức và Nga, xâm lăng, rồi rút lui, và, không chỉ vẽ lại bản đồ biên
giới, và
chiếm giữ đất nước trong nhiều năm, mà còn làm thịt hàng triệu người Ba
Lan, tống
xuất, lưu đầy hàng triệu người Ba Lan khác. Có lẽ, như Czeslaw Milosz
phán, vào
năm 1965, trong lời tựa cho 1 tuyển tập thơ của ông, rất được ái mộ, Thơ Ca Hậu Chiến Ba Lan, một nhà thơ bò
lồm ngồm ra khỏi đáy của con tầu lịch sử, thì đúng là đã được sửa soạn
đầy đủ,
thông tri đầy đủ… để đóng cái vai nhà thơ, và thi hành OK những trách
nhiệm được
trao cho anh ta, hơn là ba thứ cà chớn khác, tức những đồng nghiệp văn
hữu, thi
hữu của anh ta, ở trong những xứ sở hạnh phúc hơn. Đối với chúng ta,
ông
[Milosz] nói, “lịch sử thì thực cực kỳ thực. Điều này chưa chắc đã
đúng, đối với
những nhà thơ Mẽo, thí dụ, nhưng đối với chúng ta [những nhà thơ Ba
Lan], nó quá
đúng, quá đúng, là 1 phần của thực tại”.
Nghe thì có
vẻ thật là bùi tai, nhưng cũng lại chính Milosz, ở 1 chỗ khác, phán,
chỉ
một phần trăm rất nhỏ của nhân loại đau khổ cực kỳ may mắn được bò vô
văn chương,
thơ ca, trong khi đa số, hoặc hầu hết nhân loại, biến mất, chẳng để lại
1 tí dấu
vết. Rất nhiều quốc gia trải qua rất nhiều đau thương tang tóc, kinh
hoàng, man rợ…
tương tự như Ba Lan, nhưng mà sau đó trở thành câm, hoặc cả nước bị Sáu
Dân, Tấn
Dũng… bịt miệng, thành thử cái chuyện thơ
ca bảnh tỏng như Ba Lan hậu chiến có thể còn phụ thuộc nhiều yếu tố
khác,
ngoài
yếu tố lịch sử của nó.
Mặc dù vậy, chỉ một cái nhìn thoáng qua cuộc đời ba nhà thơ Ba Lan được
đề cập tới ở đây,
là ngộ ra liền tù tì, là có ngay 1 kết luận không thể chệch đi đâu
được: Sự
chán chường, và sự vi phạm đạo đức, về những gì xẩy ra cho đất nước của
họ, là yếu tố quyết định đối với mỗi một người trong cả ba.
What can poetry
say?
Thơ
để làm cái chó gì?
Thơ
nói được cái
chó gì?
THEODOR ADORNO hiển hách phán,
vào năm 1951, rằng, làm thơ sau
Auschwitz thì “dã man”. Tuy biết thừa đi rằng thì là chữ thì ra cái chó
gì, đâu
có làm chết nổi ai, nhiều thế hệ những nhà thơ sau đó vưỡn làm thơ,
vưỡn sử
dụng chữ để diễn tả "điều không thể".
“Thơ ca và Nhà nước”, một sự kiện xẩy ra vào ngày 20 Tháng Chín cũng bị
ám ảnh
bởi vấn đề này:
Làm thế nào đưa vào chữ những sự kiện làm bạn... á khẩu?
Nẩy ra từ sáng kiến "Thi sĩ trong thành phố", được tổ chức bởi tạp
chí “Thơ hiện đại trong dịch thuật”, và Ân xá Quốc tế, đêm thơ trên
nhắm chứng
tỏ chỗ đứng của thơ trong việc “đưa ra một lời phán trước công chúng,
có tầm vóc
phổ cập”. Năm nhà thơ xuất hiện trong buổi lễ thì
đều mắc míu với nhau, cách này cách khác, qua
những động cơ nhân đạo: Timothy Allen, một cựu nhân viên của 1 cơ quan
cứu trợ,
Zuzanna Olszewska, chủ trì những nghiên cứu nhân chủng học với những
phụ nữ tị
nạn Afghan; Carlos Reyez Manzo, thi sĩ thường trú đầu tiên của Amnesty,
đã từng
sống sót tra tấn dưới thời Pinochet ở Chile.
Toàn những lý do nhân đạo, thành ra thật khó mà chỉ trích! Chưa kể
những khoảnh khắc tưng bừng, "nổi lửa đi em", khi nghe đọc thơ, thí dụ,
những dòng thơ tù, bằng
tiếng Mít của Bác H. được Mr. Allen dịch qua tiếng Anh: Nay thì trong
thơ phải
có thép/ mỗi dòng thơ là 1 hành động kháng chiến, chống lại –
tuy nhiên trên mức độ trọn gói, buổi đọc thơ kể như hỏng.
Ngày hội thơ
cho thấy, có vẻ như những nhà thơ được chọn lựa, thì là do những vấn đề
mà họ
viết, hơn là họ làm thơ bảnh như thế nào!
Thất bại của ngày hội thơ, là do thiện ý của nó, muốn trình ra 1 cái
nhìn tự mãn, hài lòng về thơ, một
liên hệ
giữa thơ và chủ nghĩa nhân đạo, rằng, thơ thì tốt, OK, ngon cơm, và là
1 sức mạnh,
trước những đề tài đa dạng, nào là Thơ Tù của Bác H, nào là Pinochet…
Thơ như là 1 cõi tâm, một môi trường dễ
chịu, đưa
con người lại mí nhau,… as an inherently ethical or
comforting medium
that brings people together.
Nhưng nếu thơ tốt, chỉ đến mức như thế, thì làm sao dung nổi những
người làm thơ, chẳng vì lý do gì?
Thơ chẳng hiểu tại sao?
Thơ, những con đường rừng, chẳng dẫn tới đâu: Chemins qui ne mènent nulle part [Heidegger]?
(1)
But in doing so, the evening undermined the power of any one poet
to say much of anything:
Nhưng làm như thế, là tụi mi coi thường quyền uy của bất
cứ một nhà thơ, nói rất nhiều, về bất cứ 1 chuyện gì, dù cà chớn tới
mức nào!
(1)
Tôi thấy người mừng rỡ xiết bao
Trời xanh hơn lá ở trên cao
Con chim nhảy nhót trên cành nhánh
Người nắm tay tôi rủ bước vào
Ngôi nhà người dựng giữa rừng xanh
Cửa gió bằng cây có nhánh cành
Để kiếp sơ sơ và cũng để
Mở mời anh chị bước vào nhanh
Hôm nay tôi kiếm củi trong rừng
Lạc mất đường về chợt bỗng dưng
Sực nhớ rằng đây, rừng rú thẳm
Là quê thân thiết biết bao chừng.
Sau khi tìm
ra bài thơ này in trong tập “Mưa nguồn” của thi sĩ “khét
tiếng” họ Bùi, tôi gặp nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường và đọc lại cho
ông
nghe. Tuy Hoàng Phủ Ngọc Tường nói chưa được rõ lắm, nhưng tôi nghe lời
nhận
xét của ông về bài thơ này, đại ý: “Đây là một bài thơ tóm gọn hiện
tượng
luận của Heidegger trong quyển Những con đường rừng: khách
thể (ở
đây là chân lý) có đặc điểm cởi mở (sẵn sàng để được nhận thức) và chủ
thể thì
hiểu bằng sự thông cảm. Hình như Bùi Giáng thích hiện tượng luận của
Heidegger hơn là thuyết hiện sinh của J-P Sartre. Chả thế mà
trong một
cuốn sách viết về Heidegger (in năm 1963), Bùi Giáng đòi dùng roi quất
J-P Sartre “để cho nó biết thế nào là triết học”, và khi có
người chê
quyển sách ấy thì Bùi Giáng đến sớm gõ cửa đòi đánh nhau”!
Thì
ra nhiều bài thơ “lơ ngơ” của Bùi Giáng lại thấm đẫm tinh thần triết
học.
Các
nhà phê bình thường kêu thơ ta ít tính triết học, và thiếu vắng những
tư tưởng
lớn. Tôi nghĩ, đọc lại thơ Bùi Giáng, phần nào chúng ta sẽ trả lời được
câu hỏi
đó.
Blog NTT
Hình như HPNT có tí lầm ở
đây.
Heidegger và Sartre là cùng 1 nguồn, hiện sinh. (1)
Có thể nói,
do đọc Heidegger [Hữu Thể và Thời Gian]
mà Sartre viết Hữu Thể và Hư Vô,
L'Être
et le Néant].
Hiện tượng luận là của
Husserl.
Bởi thế, khi vinh danh bạn mình là Merleau-Ponty, Sartre đã than thở,
trong khi tôi loay hoay mò mẫm với hiện sinh
thì bạn tôi đã bước qua hiện tượng luận rồi.
Hơn nữa, đọc
bài thơ của BG, thì không thể nói là, nó ấm ớ liên quan tới Những
con đuờng rừng được!
Nguyên tác, Holzwege:
....
Dans la forêt, il y a des chemins qui, le
plus souvent encombrés de broussailles, s'arrêtent soudain dans le
non-frayé.
On les
appelle Holzwege.
Chacun suit
son propre chemin, mais dans la même forêt.
Souvent, il
semble que l'un ressemble à l'autre. Mais ce n'est qu'une apparence.
Bûcherons et
forestiers s'y connaissent en chemins. Ils savent ce
que veut dire: être sur un Holzweg, sur un chemin qui ne mène nulle
part.
Dịch "Những con đường
rừng" [Miền
Nam đã từng dịch như vậy]
thực sự không đúng. "Những con đường chẳng dẫn tới đâu"
Bài thơ của BG đâu có
nghĩa... “chẳng dẫn tới đâu”?
Sực nhớ rằng đây, rừng rú thẳm
Là quê thân thiết biết
bao chừng.
(1)
Heidegger cũng
“từ chối” sự mắc míu giữa chủ nghĩa hiện sinh của Sartre, và
Être et Temps của ông. Như trong Thư về
chủ nghĩa nhân bản, Lettre sur l’humanisme,
ông viết, qua trích dẫn của Bernard-Henry Lévy, Thế kỷ của Sartre, Le siècle de Sartre:
La réaction de Heidegger à
ces malentendus, et aux
autres qui en procèdent, ne se fera guère attendre. Déjà, dans la
lettre de
1931 à la Société française de philosophie, il avait coupé court à
l'interprétation existentiaaliste de sa pensée par Jean Wahl. Mais, là, face à
l'opération
sartrienne et à l'écho considérable qu'elle rencontre, il va plus loin
encore
et sa mise au point est des plus fermes. Il y a les concessions
mondaines d'un
côté : telle lettre de janvier 1944 où on feint d'être reconnaissant à
« un
penseur autonome qui connaît à fond le domaine à partir duquel je pense
». Mais
il y a l'œuvre, de l'autre, où, tout à coup, on ne plaisante plus. «
Tout ceci
», disait-il dans le Nietzsche (2), tout cet effort théorique qui
portait le
titre de Sein und Zeit, était situé, et doit encore être pensé comme
situé, «
en dehors de la philosophie de l'existence et de l'existentialisme ». Et,
dans la Lettre sur l'humanisme : «
rien », pas « le moindre point commun» entre ce que j'entendais, dans Sein und Zeit, par « Existenz » et ce
qu'entend ce Sartre par « existence ». J'ai dit, dans le paragraphe 9
de mon
livre, que « l'essence du Dasein réside dans son existence» ? Oui. Mais
«
Eksistenz » ne voulait pas dire « vécu », ou « existence» au sens
français,
mais évoquait « l'homme dans l'Ouvert », la « clairière de l'être dans
laquelle
il se tient au milieu de l'étant ». Et quant au mot « essence », il
était en italique
et cet italique changeait tout - il aurait dû interdire à ce jeune
littérateur,
adepte et ultime héritier de la métaphysique de la subjectivité, de
traduire
aussi sottement par “l’existence précède l’essence”.
B-H Lévy: Le
Siècle de Sartre p.185-186
Bài thơ của
BG, quá dễ hiểu, có mắc mớ gì tới triết học ghê gớm chi đâu, và, làm
sao mà tóm gọn được hiện tượng luận của Heidegger?
Như trích
dẫn cho thấy, giữa mấy đại gia Heidegger, Sartre, Husserl… cũng trùng
trùng những
ngộ nhận, làm sao mà 1 bài thơ của BG... tóm gọn nổi?
Vừa vừa thôi.
I CAN U. [Tôi xin can mấy ngài. NQT]
What are
poets for?
Thi sĩ để
làm cái quái gì cơ chứ?
Pourquoi des poètes en temps de détresse?
Tại sao thi
sĩ trong thời điêu đứng?
Heidegger
"...
and what are poets for in a destitude time?", Holderlin hỏi, trong bài
điếu
"Bánh mì và Rượu vang".
Thời của đêm
thế gian là thời điêu đứng: The time of the world's night is the
destitude
time.
*
Is Rainer
Maria Rilke a poet in a destitude time? How is his poetry related to
the
destitution of the time? How deeply does it reach into the abyss? Where
does
the poet go, assuming he goes where he can go?
Liệu có phải
Rilke là nhà thơ của thời điêu đứng?
Như thế nào,
làm thế nào, thơ của ông móc nối với sự điêu đứng của thời gian? Sâu
thẳm cỡ
nào, thơ của ông với xuống vực thẳm? Nhà thơ đi đâu, giả dụ như có một
nơi chốn
nhà thơ có thể đi?
*
Từ 'thời
gian', ở đây có nghĩa, thời gian mà chúng ta còn thuộc về nó. Với kinh
nghiệm lịch
sử của Holderlin, sự xuất hiện và hy sinh của Đấng Ky Tô Christ đánh
dấu bắt đầu
và chấm dứt ngày của những vị thần, the day of the gods. Đêm xuống, và
kể từ
đó, ba ngôi nhập một, the 'united three' - Herakles, Dionysos, và
Christ - rời
bỏ thế gian, buổi chiều của thế gian chìm dần vào đêm tối của nó. Đêm
thế gian
trải dài bóng tối của nó. Đây là thời thần linh trễ hẹn [The era is
defined by
the god's failure to arrive], thời khiếm khuyết thần linh, default of
god. Thời
khiếm khuyến thần linh mà Holderlin kinh nghiệm không có nghĩa chối bỏ
liên hệ
giữa thần và người và nhà thờ. Khiếm khuyết thần linh có nghĩa, chẳng
còn thần
linh tóm thâu người và vật thành một mối, và bằng một mối thâu gom như
thế, lịch
sử thế gian được đặt để, và con người dong duổi cùng với nó.
*
Ngay từ những ngày 1973, khi chưa chấm dứt cuộc chiến,
Gấu này đã nhìn ra, thơ TTT, đúng là thứ thơ của thời điêu đứng, đúng
như
Heidegger coi Rilke là thi sĩ của thời điêu đứng:
Là thi sĩ của thời điêu đứng , có nghĩa là: hát, chú
tâm đến dấu chân để lại của những vị thần trong khi bỏ chạy. Chính vì
thế, vào
thời gian của đêm tối, thi sĩ nói điều thiêng. Chính vì thế, trong ngôn
ngữ của
Holderlin, đêm thế giới là "đêm thiêng" (1)
Être poète en temps de détresse, c'est alors :
chantant, être attentif à la trace des dieux enfuis. Voilà pourquoi, au
temps
de la nuit du monde, le poète dit le sacré. Voilà pourquoi, dans la
langue de
Holderlin, la nuit du monde est la « nuit sacrée ».
Pourquoi des poètes en temps de détresse? Heidegger
*
(1) Trong Mảng Lưu Vong, La Part
d'Exil, Le Huu Khoa
coi Trịnh Công Sơn là chim thiêng hót lời mệnh bạc
[Trinh Cong
Son: L'oiseau sacré chante le destin tragique]
*
Holderlin
phán:
Ở nơi nào có
nguy nàn,
Ở đó có cứu
rỗi
Mais où est
le péril, là
Croit aussi
ce qui sauve
Holderlin,
IV, 190
*
Coetzee viết
về Brodsky:
Những nhà
thơ gân guốc, dũng mãnh, luôn tạo ra dòng của riêng họ, và trong khi
làm như thế,
viết lại lịch sử thơ ca.
Strong poets
have always created their own lineage and, in the process, rewritten
the
history of poetry.
Làm sao TTT
không tiên cảm, thứ thơ tự do của ông, mãnh liệt như thế, hũ nút như
thế, không
giống ai như thế, sẽ gặp phản ứng dữ dội từ phía độc giả, chắc chắn
khác hẳn,
"làm mặt lạ", như thế?
Hãy nhớ lại
phản ứng dữ dội của tầng lớp thưởng ngoạn, khi thơ tự do vừa xuất hiện.
Những dòng cảnh
báo, ở đây, tôi là vị hoàng đế, của vương quốc thơ của tôi, là theo ý
đó. Vô là
phải thần phục vị hoàng đế với đầy đủ quyền uy.
Trường hợp
ngược lại, bạn có thể vứt tập thơ vô thùng rác.
Cao ngạo đấy,
nhưng cũng rất là khiêm tốn đấy.
Nhà thơ nào,
khi muốn tạo riêng dòng, cũng nói như vậy, nếu tự tin vào thơ của mình,
đâu
riêng gì TTT?
Nguồn
TTT gọi thơ
của ông, và của những nhà thơ cùng thời với ông, - thay vì thơ của thời
“détresse”, như
Holderlin gọi - thì là [thơ] “giữa chiến tranh và trại tù”.
Nhưng
nếu Heidegger coi Rilke là nhà thơ của đêm đen/đêm thiêng, thì, với Mít
chúng ta,
ai là... Rilke?
TTT?
BG?
VC chọn BG, và ban cho ông
cái nick mới, nhà thơ “Đười Ươi”!
Bruce Weigl
The Metaphysician in the
Dark: An Interview
Nhà Siêu hình
trong Bóng tối: Một cuộc phỏng vấn
BW: Liệu là do cuộc hành trình
từ Yugoslavia, một cuộc hành trình
sau cùng đưa ông tới New York, làm ông thành nhà thơ? Liệu kinh nghiệm
di dân,
1 cách nào đó, thúc ép ông đề ra những câu hỏi mà chỉ thơ ca mới có thể
trả
lời?
Charles Simic: Có thể. Nhưng bố
ai mà biết được, who can tell? Tôi
biết những gã cùng một cái nền y chang, trở thành kỹ sư, thợ sửa máy
bưu điện.
Về một mặt khác, kinh nghiệm di dân quả là có thúc ép tôi hỏi, và tiếp
tục hỏi,
một vài câu hỏi về lịch sử thế kỷ 20.
BW: Làm sao mà ông hòa giải,
reconcile, những hình thức lớn rộng
hơn của lịch sử, và lời cầu nguyện về những điều ghê rợn, the litany of
terrors
(kể cả những điều mà ông chứng kiến khi còn là 1 đứa con nít trong
chiến tranh
ở Yugoslavia) với những hình thức dành riêng, độc nhất, là những hình
thức nghệ
thuật?
CS: Nhà thơ Holderlin đã hỏi
như vậy rồi: Tại sao thi sĩ trong
thời kỳ đốn mạt? Và Heidegger trả lời: Vào thời đại đêm đen của thế
giới, hố
thẳm phải được kinh nghiệm, và chịu đựng. Và để làm được điều này, thì
phải có
người xuống hố thẳm, reach into the abyss. Tôi tiếp tục tin là, thơ nói
nhiều
hơn về cuộc sống tâm linh của 1 thời đại hơn là bất cứ 1 nghệ thuật
khác. Thơ
là cái chỗ, ở đó những câu hỏi cơ bản khác được đưa ra, về phận người.
Hố thẳm phải
được kinh nghiệm và chịu đựng. Thơ giữa "chiến tranh và trại tù". Chim
thiêng hót
phận bạc.
Ở nơi nào có nguy nàn, Ở đó có
cứu rỗi [Mais où est le péril, là Croit aussi ce qui sauve]
TTT, khi
phán về thơ MT, là cũng mô phỏng ý của Holderlin:
Trong nhiều
năm anh viết văn, bằng lòng làm nhà văn, không làm thơ.
Như mọi thi
sĩ của một thời điêu đứng, anh chạy trốn thơ cho đến lúc không thể trốn
được nữa…
Thơ đến từ đâu?
Từ hố thẳm
phải bò xuống, phải kinh nghiệm, phải chịu đựng.
Đâu có phải đến
từ xứ Bắc Hà, từ thi sĩ HC, vừa mới được lịch sử lọc ra là đã lắc đầu
quầy quậy
ngoan ngoãn ngồi viết Tự Kiểm, để về nhà tìm lá diêu bông?
Từ cái khoảng
giữa ‘chiến tranh và trại tù’.
MT sở dĩ phải
đến cuối đời thì mới làm thơ được, ở nơi xứ người, là cũng theo nghĩa
hố thẳm
phải kinh nghiệm và chịu đựng, chứ không phải theo nghĩa mà TTT phán:
Cõi không
là thơ, Không còn gì hết là Thơ. Nơi không còn gì nữa hết là Thơ. Một
xóa bỏ tận
cùng. Từ sự xoá bỏ chính nó. Tôi xoá bỏ xong tôi. Không còn gì nữa hết.
Tôi
thơ.
Et le poète reconquiert
son invisibilité.
Jean Cocteau
Soure
TTT nói lên cái hậu quả,
không phải cái duyên do, của Ta thấy hình ta những miếu
đền.
*
V/v
Heidegger.
Nhận xét của Paul Ricoeur
về Heidegger và Hữu
thể và Thời gian:
Heidegger đã
đánh dấu tác phẩm của ông, khỏi phải lèm bèm thêm. Nhưng ra thế nào,
nàm sao mà
1 triết gia bảnh tỏng như ông ta mà lầm lạc như thế, và đem thân phò
Hitler?
Đúng là 1 lời thú nhận sự bất lực về mặt triết học!
Văn hoá như
tôi biết được, chưa hề ngăn ngừa, phòng chống sự man rợ. Một xứ sở với
1 nền
văn minh đỉnh cao chói lọi như Đức, vậy mà ngập chìm trong tủi nhục, và
đó là 1
thí dụ nhức nhối, đau thương. Nhưng tôi chưa bao giờ buộc tội
Heidegger, như là
1 triết gia. Chỉ điều này, triết học của ông không sản sinh ra cả đạo
đức lẫn
chính trị, và gây ra ở trong ông ta, vào một thời kỳ, sự hồ nghi trí
thức, và
điều này được biểu lộ ra bằng sự bất lực của ông khi không thể tiếp tục
Hữu thể
và Thời gian, một thứ khoảng trống tư biện, mà ông ta nghĩ rằng, có thể
làm đầy
bằng hình tượng một con người coi mình như là vĩ nhân của lịch sử, cha
già của
dân tộc. Chính vào lúc đó, ông bị trúng bả Quốc Xã. Nhưng hãy minh bạch
1 điều,
Hữu thể và Thời gian không phải là 1 cuốn sách Nazi, nó là, và đây là
sự khác
biệt rất ư khác biệt, một tác phẩm không phòng vệ chống chủ nghĩa Nazi.
Trong
khi đó, Karl Jaspers, ông ta không ngã gục như Heidegger, là bởi vì
triết học của
ông sản sinh ra một nền đạo hạnh và chính trị học.
Être et temps
n'est en rien un
livre nazi, il s'agit, et toute la différence est là, d'un ouvrage qui
ne protège
pas contre le nazisme.
Một cuốn
sách không phòng chống Nazi.
Tuyệt.
Thơ Miền Nam
trước 1975 không phòng chống VC.
Theo nghĩa
đó, đỉnh cao chói lọi của cõi thơ MN, thì lại đúng là cái khoảng đêm
đen, hố thẳm
phải bò xuống, kinh nghiệm và chịu đựng, và đó là Thơ Ở Đâu Xa, Ta Về, Tôi Cùng
Gió Mùa, (1) và... Ta Thấy
Hình Ta
Những Miếu Đền.
Paul Ricoeur
& Heidegger
(1)
Mới đọc
ai
tín trên Blog HH.
Xin thành thực
chia buồn.
NQT
THE WORLD'S
PROSE
Die Prosa
der Welt
-Hegel, of
course
Imagine a
day begun in Le Bon Cafe;
colored
newspapers on tables and Aznavour's songs come
drifting from the speakers. A
brief moment of attention:
the coquettish French "r" whirls like a
child's plaything
within the mighty city, the empire's hub,
and seems
about to thaw the winter's queen.
Nervous bureaucrats in narrow suits
gulp
scalding coffee, the liquid of oblivion.
Four solitary airplanes circle
overhead.
I stand
before the picture Rilke talks of:
a family of
acrobats has turned up in a desert.
No one's watching, and their many tricks
and songs,
concealed in tambourines and supple muscles,
their leaps and jokes all go for
nothing here.
They gaze
uncertainly, they look around;
the young
woman on the far right would like
to leave the painting (she stands apart).
They look around,
but what is there to see?
Snow lies
around us, covering the architecture of power.
Snow wraps the monumental shapes
with slipcases
and even the
narrow heads of obelisks have turned white.
Provincial trees breathe quietly
beneath the snow,
and fresh
leaf buds sleep tight, waiting for a sign.
You pay with
life for every moment of snow, for
what is
white and what is black, for happiness, for seeing.
The prose of life spreads
out around us,
while poetry
crouches in the heart's chambers.
Dòng đời
Hãy tưởng tượng
một ngày bắt đầu ở Le Bon Café
Những tờ nhật
báo màu sắc ở trên bàn,
và tiếng hát lang thang trôi dạt của Aznavour
từ những loa.
Nè, hãy để ý, cái âm “r” của Tẩy mới nhõng nhẽo làm sao,
như một thứ đồ chơi của
con nít trong thành phố lớn lao, trung tâm của đế quốc,
như làm tan lớp giá
băng của nữ hoàng mùa đông.
Những viên
chức bồn chồn trong những bộ đồ chật cứng,
Nhấp cà phê
nóng bỏng, thứ nước của quên lãng.
Bốn chiếc máy
bay cô đơn vần vũ ở trên đầu
Tôi đứng trước
bức tranh Rilke nói về:
một gia đình
nghệ sĩ nhào lộn ở sa mạc
Chẳng ai thèm
nhìn họ,
và rất nhiều những mánh khoé trình diễn, những bài ca,
được giấu ở
trong những cái trống, những bắp thịt mềm mại, dẻo dai.
Những cú nhẩy,
những câu chuyện tiếu lâm, khôi hài
Tất cả đều vô
dụng ở đây
Họ nhìn
quanh, lơ đãng;
Một người đàn
bà trẻ ở tít xa phiá bên phải,
có vẻ như muốn rời bức tranh (nàng đứng riêng
ra).
Họ nhìn
quanh, nhưng có gì ở đó đâu?
Tuyết chung
quanh chúng ta, che phủ kiến trúc của quyền lực
Tuyết bao đền đài tưởng niệm
bằng những cái
hộp,
và ngay cả những cái đầu của những đài tưởng niệm
thì cũng biến thành màu
trắng
Cây cối thở
im lặng dưới tuyết
Và những chồi
lá non ngủ, chật, cứng, đợi dấu hiệu
Bạn trả bằng
đời của mình, cho mọi khoảnh khắc tuyết
Cho cái thì
trắng, cái thì đen, cái thì hạnh phúc,
cái thì để nhìn ngắm,
chiêm ngưỡng và kính
trọng (1)
Dòng đời trải
ra chung quanh chúng ta
Trong khi thơ
"ngoạ hổ tàng long"
ở trong những căn phòng của trái tim.
(1) Thứ tình
yêu Platonique, chiêm ngưỡng và kính trọng...
Tứ tấu khúc
Ui chao, đọc
bài thơ thì lại nhớ đến lần đầu, 1994, đến thành phố lạnh, xứ lạnh,
tuyết
lạnh, bão
tuyết lạnh, và cái bàn tay của cô bạn, lấy ra khỏi cái bao tay, ấm thật
ấm,
bắt tay
anh cu Gấu đang run rẩy...
Hà, hà!
Cái cô bạn, cùng ngồi
xuồng ngày nào, năm lụt, trong xuồng có đủ khổ đau dành
cho 3 người...
Dòng đời trôi
quanh ta.
Thật.
Thơ ở trong
đầu.
Thật.
Cô bạn thân ơi
Nẻo về tuyệt lối
Hồn tôi điên cuồng réo gọi
Đi trong gió
Nỗi nhớ Sài
Gòn buốt trên đầu ngón tay
Biển
A KING
In memory of
Jozef Czapski
He was very
old. But his spirit held.
Of one
acquaintance (old as he) he said:
"That
famed Petersburg beauty; observe
her
face." He still painted. Lived. Wrote. Thought.
He knew
Akhmatova. Spoke with de Gaulle,
Andre Malraux also took note.
Gide (too
Parisian) disappointed him.
A penniless count, he helped the poor.
So tall (and
good), as if proud
nature wished to put him on display.
Mary
McCarthy once glimpsed him in a crowd
at a museum and jotted down: a righteous
man
Beauty
thrilled him. He spoke
more often
though of ugliness and pain -
things it seems he scarcely knew
(but how can
we be sure?)
What's the
moment when divinity appears?
How can we tell, since we always keep it
in the
past tense or the future (hopefully!)
We describe it from a distant country,
where we've
been carried by a wild express train
with no stops at that small still station
we call
Beauty, a resting place
too modest
for its taste.
But we can
talk of ugliness
at length,
and pain will still fill
many tomes;
our quick sightseeing trip
becomes a humble tortoise city tram.
His death
was long and patient; perhaps those
who rule the earth and play at chess
demurred:
should such a splendid upright shape, a king,
be made a horizontal
form, a line of print?
Adam
Zagajewski
Một Vì Vua
Tưởng nhớ
Jozef Czapski
Ông rất già.
Nhưng tinh thần bảnh lắm, cứng lắm, vững như trụ.
Về một mối
thân quen [cũng già như ông], ông nói:
“Cái đẹp
Petersburg nổi tiếng, hãy quan sát mặt của bà".
Ông vẫn vẽ.
Sống. Viết. Nghĩ.
Ông biết
Akhmatova. Nói chuyện với de Gaulle.
André
Malraux ngồi loay hoay ghi "notes".
Gide (quá Paris), ông không ưa.
Một vị bá tước không 1 đồng xu, ông giúp kẻ nghèo
Dáng thật cao (và tốt),
như thể thiên nhiên cao ngạo
muốn
đưa ông ra trình diễn.
Mary
McCarthy có lần thoáng nhìn thấy ông trong đám đông
ở một viện bảo
tàng và phán thật là ngắn gọn:
một người đàn ông chính trực
Cái đẹp làm
ông hồi hộp. Tuy nhiên ông nói nhiều về cái xấu và cái đau –
điều mà ông hầu
như không rành
(nhưng làm
sao chúng ta chắc chắn về chuyện này?)
Khoảnh khắc,
khi tính thần thánh xuất hiện, là gì?
Làm sao
chúng ta biết, kể từ khi mà chúng giữ nó
trong thì
quá khứ, hay thì tương lai (may mắn thay!)
Chúng ta
miêu tả nó, từ một xứ sở xa
Trong khi
chúng ta bị mang đi bằng 1 chuyến xe lửa tốc hành man dại
Đếch thèm
ngưng ở một cái nhà ga nhỏ xíu có tên là Cái Đẹp,
Một trạm nghỉ
quá tầm thường, khiêm tốn nên đếch hợp với cái gu của nó.
Nhưng chúng
ta vưỡn có thể nói về sự xấu xí dài dài,
và cái đau
thì cũng được đưa vô trong nhiều chương, hồi, tập;
cuộc cưỡi ngựa coi hoa của chúng
ta trở thành 1 chuyến cưỡi rùa dạo chơi thành phố
rất ư là khiêm tốn.
Cái
chết của
ông thì dài, và kiên nhẫn;
có lẽ những kẻ trị vì trái
đất và chơi cờ, lưỡng lự:
Liệu dáng đứng cao sang, tuyệt vời như thế, một vì vua
Có thể trở thành một dáng nằm ngang,
như một dòng mực?
Ui chao bài
thơ mới tuyệt vời làm sao. Làm Gấu nhớ tới giai thoại một họa sĩ Tầu
không hợp
lòng vua, bị Cớm đến nhà tính đưa đi cải tạo, bèn đi vô luôn bức
tranh của
mình! (1)
Ông bạn của
thi sĩ như vậy là cũng từ biệt cuộc đời, và biến thành một dòng thơ! (2)
(1)
Hiếm nhà văn
được như Borges: ông đi vào truyền thuyết, ngay từ khi còn sống, không
như một
nhà văn nổi tiếng, mà là một huyền tượng. Trong chuyện Tàu có trường
hợp tương
tự: Để trốn tránh cơn giận dữ của nhà vua, và cái chết tiếp theo đó,
Wang Fo rời
cuộc đời, bước vào bức tranh ông vẽ.
Source
(2)
GCC cũng đã
từng viết về Nguyễn Tuân, như trên!
Cảnh Huấn
Cao viết bức tranh chữ cuối cùng của đời mình rồi quay sang nói với
viên cai ngục,
hãy kiếm một nghề khác mà nuôi thân, (con người như ông, những chữ như
thế
này phải tìm đất khác để mà tụ lại); chẳng
đợi người cai tù nói hết câu: xin bái lĩnh, ông đã nhập vào những chữ
chưa khô
mực.
Chữ người tử
tù
Wislawa Szymborska's "Vermeer"
A poem against the
apocalypse
Một bài thơ chống lại Tận Thế
Aug 27th 2010, 16:53 by More
Intelligent Life, A.R. | NEW YORK
I HAPPENED upon this poem on
the New York Review of Books's
website, and was startled by how beautifully Wislawa Szymborska
captures the
dance between motion and stillness in Vermeer's "The Milkmaid"—a
moment frozen yet continually happening.
Vermeer
So long as that woman from the
Rijksmuseum
in painted quiet and concentration
keeps pouring milk day after day
from the pitcher to the bowl
the World hasn’t earned
the world’s end.
I love the shape of the poem—it
thins like a stream of milk,
pouring itself out. I also love the tension she sets up between the
"W" and the "w", which appears hierarchical but is also
slippery.
"Vermeer", Wislawa Szymborska,
translated from the
Polish by Clare Cavanagh and Stanislaw Baranczak
Note: Bài thơ này, TV đã post,
nay chỉ post thêm lời bình của tay
Prospero.
Bản tiếng Việt, của TV, cũng phân biệt ra hai từ "W", và
"w".
GNV cũng đọc nó trên tờ NYRB, như Prospero.
Thế mới thú chứ!
Một khi mà người đàn bà ở trong
bức tranh ở viện bảo tàng
Rijksmuseum
vẫn trầm lắng và chú tâm
rót sữa mỗi ngày từ cái bình ra cái bát,
thì Thế Giới vưỡn chưa có được cái sự tận cùng của thế giới.
Source
I love the shape of the poem—it
thins like a stream of milk,
pouring itself out. I also love the tension she sets up between the
"W" and the "w", which appears hierarchical but is also
slippery.
Tôi mê cái dáng của bài thơ - mỏng như sợi sữa, tự nó đổ nó ra, chẳng
cần tới
ai. Tôi cũng mê sức căng mà thi sĩ tạo ra, giữa W và w, nó làm lộ ra
đẳng cấp
nhưng cũng còn làm lộ ra sự trơn trượt.
Ui chao, phán như thế mới là
phán chứ, nhỉ?
Nhưng bạn đã nhận ra sức căng
của thời tiết, vào lúc trời đất rơi
vào thu phân?
… tóc em rối giữa hai đầu ngọn gió
hình như rừng rơi vào thu phân.
TMT
Tiện thể đi thêm 1 đường
Prospero, về Thơ Ca và Chủ Nghĩa Vác Ngà
Voi: Thơ có thể nói cái gì?
Books, arts and culture
Prospero
Poetry and humanitarianism
What can poetry
say?
Sep 23rd 2011, 10:06 by E.H. |
LONDON
THEODOR ADORNO famously
declared in 1951 that to write poetry
after Auschwitz was “barbaric”. Mindful of the limits of words,
generations of
poets still strive to use them to describe the impossible.
“Poetry and the State”, an
event that took place on September
20th, was haunted by this problem: how to put into words events that
leave you
speechless. Organized by the poetry initiative “Poet in the City”, the
magazine
Modern Poetry in Translation and Amnesty International, the evening
aimed to
show the relevance of poetry in making “a public statement with a
universal
reach”. The five poets who gave readings were connected, in some way or
another, to humanitarian causes. They included Timothy Allen, a former
aid
worker, Zuzanna Olszewska, a fellow from Oxford who conducts
anthropological
studies with female Afghan refugees, and Carlos Reyez Manzo, Amnesty’s
first
poet in residence, who survived torture under Pinochet’s regime in
Chile.
This makes it a difficult
event to criticize. But although
there were moments of joy in the readings—for instance, the concluding
lines in
Mr. Allen’s translation of Ho Chi Minh’s “Prison Diary” from the
Vietnamese,
“my poems are made of steel / and each is an act of resistance”—on the
whole,
the evening did not hold together. It felt as if the poets had been
chosen more
for the problems they wrote about rather than how well they wrote. The
question
of translation only seemed pertinent when Amarjit Chandan read from his
poems
both in Punjabi and English, creating a delightful interplay between
the two
languages.
Swamped by the various causes
they were connected to, and only
speaking for an average of 12 minutes each, the poets were unable to
stand out
as individuals. They were gathered together under an umbrella of
worthiness,
but there was no examination of the relationship between poetry and
humanitarianism. We were meant to take it for granted that poetry is a
force
for good against subjects as diverse as Pinochet, Britain’s cuts in
arts
funding (which David Constantine of Modern Poetry in Translation
decried for
making the country the “philistine place we’re in”), and the state of
the environment.
“Poetry and the State” seemed
to hold a complacent view of poetry
as an inherently ethical or comforting medium that brings people
together. But
in doing so, the evening undermined the power of any one poet to say
much of
anything.
THEODOR
ADORNO hiển hách phán, vào năm 1951, rằng, làm thơ sau Auschwitz thì
“dã man”.
Tuy biết thừa đi rằng thì là chữ thì ra cái chó gì, đâu có làm chết nổi
ai, nhiều
thế hệ những nhà thơ sau đó vưỡn làm thơ, vưỡn sử dụng chữ để diễn tả
"điều không
thể".
“Thơ ca và
Nhà nước”, một sự kiện xẩy ra vào ngày 20 Tháng Chín cũng bị ám ảnh bởi
vấn đề
này:
Làm thế nào đưa
vào chữ nhưng sự kiện làm bạn cấm khẩu, ú a ú ớ, không làm sao nói lên
lời?
THE WORLD'S
PROSE
Die Prosa
der Welt
-Hegel, of
course
Imagine a
day begun in Le Bon Cafe;
colored
newspapers on tables and Aznavour's songs come
drifting from the speakers. A
brief moment of attention:
the coquettish French "r" whirls like a
child's plaything
within the mighty city, the empire's hub,
and seems
about to thaw the winter's queen.
Nervous bureaucrats in narrow suits
gulp
scalding coffee, the liquid of oblivion.
Four solitary airplanes circle
overhead.
I stand
before the picture Rilke talks of:
a family of
acrobats has turned up in a desert.
No one's watching, and their many tricks
and songs,
concealed in tambourines and supple muscles,
their leaps and jokes all go for
nothing here.
They gaze
uncertainly, they look around;
the young
woman on the far right would like
to leave the painting (she stands apart).
They look around,
but what is there to see?
Snow lies
around us, covering the architecture of power.
Snow wraps the monumental shapes
with slipcases
and even the
narrow heads of obelisks have turned white.
Provincial trees breathe quietly
beneath the snow,
and fresh
leaf buds sleep tight, waiting for a sign.
You pay with
life for every moment of snow, for
what is
white and what is black, for happiness, for seeing.
The prose of life spreads
out around us,
while poetry
crouches in the heart's chambers.
Dòng đời
Hãy tưởng tượng
một ngày bắt đầu ở Le Bon Café
Những tờ nhật
báo màu sắc ở trên bàn,
và tiếng hát lang thang trôi dạt của Aznavour
từ những loa.
Nè, hãy để ý, cái âm “r” của Tẩy mới nhõng nhẽo làm sao,
như một thứ đồ chơi của
con nít trong thành phố lớn lao, trung tâm của đế quốc,
như làm tan lớp giá
băng của nữ hoàng mùa đông.
Những viên
chức bồn chồn trong những bộ đồ chật cứng,
Nhấp cà phê
nóng bỏng, thứ nước của quên lãng.
Bốn chiếc máy
bay cô đơn vần vũ ở trên đầu
Tôi đứng trước
bức tranh Rilke nói về:
một gia đình
nghệ sĩ nhào lộn ở sa mạc
Chẳng ai thèm
nhìn họ,
và rất nhiều những mánh khoé trình diễn, những bài ca,
được giấu ở
trong những cái trống, những bắp thịt mềm mại, dẻo dai.
Những cú nhẩy,
những câu chuyện tiếu lâm, khôi hài
Tất cả đều vô
dụng ở đây
Họ nhìn
quanh, lơ đãng;
Một người đàn
bà trẻ ở tít xa phiá bên phải,
có vẻ như muốn rời bức tranh (nàng đứng riêng
ra).
Họ nhìn
quanh, nhưng có gì ở đó đâu?
Tuyết chung
quanh chúng ta, che phủ kiến trúc của quyền lực
Tuyết bao đền đài tưởng niệm
bằng những cái
hộp,
và ngay cả những cái đầu của những đài tưởng niệm
thì cũng biến thành màu
trắng
Cây cối thở
im lặng dưới tuyết
Và những chồi
lá non ngủ, chật, cứng, đợi dấu hiệu
Bạn trả bằng
đời của mình, cho mọi khoảnh khắc tuyết
Cho cái thì
trắng, cái thì đen, cái thì hạnh phúc,
cái thì để nhìn ngắm,
chiêm ngưỡng và kính
trọng (1)
Dòng đời trải
ra chung quanh chúng ta
Trong khi thơ
"ngoạ hổ tàng long"
ở trong những căn phòng của trái tim.
(1) Thứ tình
yêu Platonique, chiêm ngưỡng và kính trọng...
Tứ tấu khúc
Ui chao, đọc
bài thơ thì lại nhớ đến lần đầu, 1994, đến thành phố lạnh, xứ lạnh,
tuyết
lạnh, bão
tuyết lạnh, và cái bàn tay của cô bạn, lấy ra khỏi cái bao tay, ấm thật
ấm,
bắt tay
anh cu Gấu đang run rẩy...
Hà, hà!
Cái cô bạn, cùng ngồi
xuồng ngày nào, năm lụt, trong xuồng có đủ khổ đau dành
cho 3 người...
Dòng đời trôi
quanh ta.
Thật.
Thơ ở trong
đầu.
Thật.
Cô bạn thân ơi
Nẻo về tuyệt lối
Hồn tôi điên cuồng réo gọi
Đi trong gió
Nỗi nhớ Sài
Gòn buốt trên đầu ngón tay
Biển
A KING
In memory of
Jozef Czapski
He was very
old. But his spirit held.
Of one
acquaintance (old as he) he said:
"That
famed Petersburg beauty; observe
her
face." He still painted. Lived. Wrote. Thought.
He knew
Akhmatova. Spoke with de Gaulle,
Andre Malraux also took note.
Gide (too
Parisian) disappointed him.
A penniless count, he helped the poor.
So tall (and
good), as if proud
nature wished to put him on display.
Mary
McCarthy once glimpsed him in a crowd
at a museum and jotted down: a righteous
man
Beauty
thrilled him. He spoke
more often
though of ugliness and pain -
things it seems he scarcely knew
(but how can
we be sure?)
What's the
moment when divinity appears?
How can we tell, since we always keep it
in the
past tense or the future (hopefully!)
We describe it from a distant country,
where we've
been carried by a wild express train
with no stops at that small still station
we call
Beauty, a resting place
too modest
for its taste.
But we can
talk of ugliness
at length,
and pain will still fill
many tomes;
our quick sightseeing trip
becomes a humble tortoise city tram.
His death
was long and patient; perhaps those
who rule the earth and play at chess
demurred:
should such a splendid upright shape, a king,
be made a horizontal
form, a line of print?
Adam
Zagajewski
Một Vì Vua
Tưởng nhớ
Jozef Czapski
Ông rất già.
Nhưng tinh thần bảnh lắm, cứng lắm, vững như trụ.
Về một mối
thân quen [cũng già như ông], ông nói:
“Cái đẹp
Petersburg nổi tiếng, hãy quan sát mặt của bà".
Ông vẫn vẽ.
Sống. Viết. Nghĩ.
Ông biết
Akhmatova. Nói chuyện với de Gaulle.
André
Malraux ngồi loay hoay ghi "notes".
Gide (quá Paris), ông không ưa.
Một vị bá tước không 1 đồng xu, ông giúp kẻ nghèo
Dáng thật cao (và tốt),
như thể thiên nhiên cao ngạo
muốn
đưa ông ra trình diễn.
Mary
McCarthy có lần thoáng nhìn thấy ông trong đám đông
ở một viện bảo
tàng và phán thật là ngắn gọn:
một người đàn ông chính trực
Cái đẹp làm
ông hồi hộp. Tuy nhiên ông nói nhiều về cái xấu và cái đau –
điều mà ông hầu
như không rành
(nhưng làm
sao chúng ta chắc chắn về chuyện này?)
Khoảnh khắc,
khi tính thần thánh xuất hiện, là gì?
Làm sao
chúng ta biết, kể từ khi mà chúng giữ nó
trong thì
quá khứ, hay thì tương lai (may mắn thay!)
Chúng ta
miêu tả nó, từ một xứ sở xa
Trong khi
chúng ta bị mang đi bằng 1 chuyến xe lửa tốc hành man dại
Đếch thèm
ngưng ở một cái nhà ga nhỏ xíu có tên là Cái Đẹp,
Một trạm nghỉ
quá tầm thường, khiêm tốn nên đếch hợp với cái gu của nó.
Nhưng chúng
ta vưỡn có thể nói vế sự xấu xí dài dài,
và cái đau
thì cũng được đưa vô trong nhiều chương, hồi, tập;
cuộc cưỡi ngựa coi hoa của chúng
ta trở thành 1 chuyến cưỡi rùa dạo chơi thành phố
rất ư là khiêm tốn.
Cái
chết của
ông thì dài, và kiên nhẫn;
có lẽ những kẻ trị vì trái
đất và chơi cờ, lưỡng lự:
Liệu dáng đứng cao sang, tuyệt vời như thế, một vì vua
Có thể trở thành một dáng nằm ngang,
như một dòng mực?
Ui chao bài
thơ mới tuyệt vời làm sao. Làm Gấu nhớ tới giai thoại một họa sĩ Tầu
không hợp
lòng vua, bị Cớm đến nhà tính đưa đi cải tạo, bèn đi vô luôn bức
tranh của
mình! (1)
Ông bạn của
thi sĩ như vậy là cũng từ biệt cuộc đời, và biến thành một dòng thơ! (2)
(1)
Hiếm nhà văn
được như Borges: ông đi vào truyền thuyết, ngay từ khi còn sống, không
như một
nhà văn nổi tiếng, mà là một huyền tượng. Trong chuyện Tàu có trường
hợp tương
tự: Để trốn tránh cơn giận dữ của nhà vua, và cái chết tiếp theo đó,
Wang Fo rời
cuộc đời, bước vào bức tranh ông vẽ.
Source
(2)
GCC cũng đã
từng viết về Nguyễn Tuân, như trên!
Cảnh Huấn
Cao viết bức tranh chữ cuối cùng của đời mình rồi quay sang nói với
viên cai ngục,
hãy kiếm một nghề khác mà nuôi thân, (con người như ông, những chữ như
thế
này phải tìm đất khác để mà tụ lại); chẳng
đợi người cai tù nói hết câu: xin bái lĩnh, ông đã nhập vào những chữ
chưa khô
mực.
Chữ người tử
tù
Master of Disguises
Surely, he walks among us unrecognized:
Some barber, store clerk, delivery man,
Pharmacist, hairdresser, bodybuilder,
Exotic dancer, gem cutter, dog walker,
The blind beggar singing, O Lord, remember me,
Some window decorator starting a fake fire
In a fake fireplace while mother and father watch
From the couch with their frozen smiles
As the street empties and the time comes
For the undertaker and the last waiter to head home.
O homeless old man, standing in a doorway
With your face half hidden,
I wouldn't even rule out the black cat crossing the street
The bare light bulb swinging on a wire
In a subway tunnel as the train comes to a stop.
Tổ sư Hoá trang
Hẳn rồi, hắn đi giữa chúng ta mà không ai nhận ra
Một anh thợ hớt tóc, một viên thư ký, một người giao hàng
Nhà bào chế thuốc Tây, thợ làm tóc, lực sĩ thẩm mỹ
Người khiêu vũ điệu Ba Tư, Ả rập
Thợ kim hoàn, người dẫn chó đi dạo,
Người ăn xin mù ư ử, Ôi Chúa, hãy nhớ đến tôi
Một cửa sổ trang hoàng Noel “bục” 1 phát, khởi sự đám cháy dởm
Ở một đám lửa dởm, trong lúc bà via và ông via nhìn,
Từ giường nằm, với nụ cười đóng băng
Con phố trống dần, đã tới lúc người chủ nhà hòm và tên bồi cuối cùng về
nhà
Ôi tên già không nhà, đứng ở lối đi vô nhà
Với bộ mặt giấu mất một nửa,
Ta sẽ không ra lệnh cho con mèo đen vượt qua đường
Ngọn đèn nơi đường hầm lắc lư khi xe điện ngầm tới trạm
Summer Light
It likes empty churches
At the blue hour of dawn
The shadows parting
Like curtains in a sideshow,
The eyes of the crucified
Staring down from the cross
As if seeing his bloody feet
For the very first time.
Charles Simic
Ánh Sáng Mùa Hè
Nó thích nhà thờ trống rỗng
Vào cái giờ xanh của buổi sáng tinh mơ
Những cái bóng bỏ đi
Như những bức màn trong 1 buổi diễn phụ
Con mắt của Người bị đóng đinh
Nhìn xuống từ cây thập tự
Như thể Người nhìn thấy máu của Người
Ở chân
Lần đầu
Private Miseries
More than this crippled veteran playing the banjo,
I have no right to grumble,
More than this old woman cracking open her purse
To give him a quarter,
Lest they both take offense and beat me
On the head with one of his crutches.
My own anguish must remain unspoken,
Hidden behind a firm stride and a smile.
One day I knelt down and cursed God
For all the suffering and injustice he consents to.
Since then, I have felt even more alone.
Like a lifelong widower forever unconsoled
I pass the homeless huddled in doorways
Upon a winter morning and dare not
Grouse about my own sleepless night,
And my cold feet that make me hurry past them.
Những nỗi khốn khổ mình ên
Hơn cả cái anh cựu binh VNCH,
già què, đang từng tưng với cây đàn băng dzô
Tớ đếch có quyền càu nhàu
Hơn cả cái bà già đang cố mở bóp
lấy mấy nghìn Cụ Hồ cho ông lính Ngụy già què
Cứ để cho họ cảm thấy bị tổn thương và đập vào đầu tớ
Với một trong những cây nạng
Cái nỗi thống khổ của riêng tớ phải được nín khe,
Và được giấu ở bên dưới bước đi mạnh mẽ, và nụ cười.
Một bữa tớ quỳ xuống và nguyền rủa Thượng Đế
Về bao đau khổ và bất công mà ông ta cứ nhè tớ mà trút xuống
Kể từ đó, tớ cảm thấy cô đơn còn hơn bao giờ hết
Như một bà goá cả đời không hề được an ủi.
Tớ đi qua một đám người vô gia cư láo nháo ở hành lang
Một buổi sáng mùa đông và không dám
Càu nhàu về một đêm mất ngủ của riêng tớ
Và đôi chân lạnh giá của tớ càng khiến tớ vội vã đi qua họ
And Who Are You, Sir?
I'm just a shuffling old man,
Ventriloquizing
For a god
Who hasn't spoken to me once.
The one with the eyes of a goat
Grazing alone
On some high mountain meadow
In the long summer dusk.
Nhưng Ngài là Ai, hử Ngài?
Tớ chỉ là một tên già lê lết
Nói chuyện bằng bụng
Về một ông trời
Chưa từng nói với tớ một lần
Kẻ có đôi mắt dê
Thả dê một mình
Trên cánh đồng cỏ trên núi cao
Vào một hoàng hôn dài mùa hè
Charles Simic
|