|
TCDT
Tribute
Tôi nghĩ, bằng toàn bộ cuộc
đời mình, Tạ Chí Đại Trường cho thấy chính xác điều ngược lại. Điều
ngược lại này nói một cách tường minh là: người ta không làm
được gì nếu có đầy đủ mọi thứ gì tưởng chừng như là cần phải có.
Những năm dài không có sách để đọc lại là cơ hội cho Tạ Chí Đại
Trường thoát khỏi vòng (sự "thoát khỏi vòng" này cũng đặc
biệt rõ ở Tư Mã Thiên, ta sẽ sớm nói đến).
Note: Ý lạ. Lạ nữa, là, cái tay viết tiểu sử Flaubert, cho biết, cuộc đời Thầy,
the Master, cũng y chang như thế
The New Yorker Briefly
Noted, Dec 12, 2016
Tớ tin rằng, cái gọi là hạnh
phúc chỉ có ở xứ Bắc Kít, trong mấy cái ao tù đọng, đóng váng.
Ao thì lấy đâu ra bão tố?
Cả 1 cuốn tiểu sử của Bậc Thầy
Flaubert - nhớ, hình như Borges phán, tôi sợ rằng Flaubert còn
bảnh hơn Kafka - là dựa
vào câu phán, cùng là cuộc đời nhàm chán của F: chàng ngồi
lỳ 1 đống, viết 1 ngày 14 tiếng!
Hãy để cho chúng tớ ghiền
mực, thay vì xì ke, bởi vì nhân loại làm gì có "riệu" tiên, của
những vị thần?
Cái khó bó cái ngu, thay vì khôn, là vậy!
Hà, hà!
Take Care and Joyeux Noel to ALL THERE
NQT
OEDIPUS
The historian is neither Caesar nor Claudius, but he often sees
in his dreams a weeping, lamenting crowd, the host of those who have not
lived enough, who wish to live again . . . It is not only an urn and tears
which these dead ask of you. It is not enough for them that we take their
sighs upon ourselves. It is not a mourner they would have, it is a soothsayer,
a vales. So long as they have no such person, they will
wander about their ill-sealed graves and find no rest.
They must have an Oedipus who will explain to them their
own enigma, of which they have not had the meaning, who will teach them
what their words, their acts meant, which they did not understand. They
must have a Prometheus, so that, at the fire he has stolen, the voices
which floated like snowflakes in the air might rebel, might produce a sound,
might begin to speak. There must be more; the words must be heard which
were never spoken, which remained deep in their hearts (search your own,
they are there); the silences of history must be made to speak, those terrible
pedal points in which history says nothing more, and which are precisely
its most tragic accents. Then only will the dead be resigned to the sepulcher.
They are beginning to understand their destiny, to restore the dissonances
to a sweeter harmony, to say among themselves, and in a whisper, the last
words of Oedipus: Remember me. The shades greet each other and subside
in peace. They let their urns be sealed again. They scatter, lulled by
friendly hands, fall back to sleep and renounce their dreams. That precious
urn of bygone times-the pontiffs of history bear it and transmit it to
each other with what piety, what tender care! (no one knows how pious but
themselves), as they would bear the ashes of their father or of their son.
Their son? But is it not themselves?
1842. Quoted in Monod, Vie et pensée de Michelet, II,
6
Roland Barthes: Michelet
OEDIPUS
Sử gia thì không phải là Caesar, cũng không phải
là Claudius, nhưng anh ta thường nhìn thấy trong những giấc mơ của mình,
một đám đông khóc lóc, than van, họ là những người sống chưa đủ, và muốn
sống nữa… Không phải là 1 cái lọ sành đựng tro cốt, hay những giọt nước
mắt mà họ đòi ở bạn. Không đủ, cái chuyện chúng ta lấy những thở dài của
họ đắp lên chúng ta, họ không cần 1 tên khóc mướn, nhưng mà là 1 vị thầy
bói, a vates, một nhà tiên tri. Một khi chưa có vị này, thì họ bèn cứ lang
thang, vật vã, về những ngôi mả được đóng khằn dở dang, và không làm sao
yên nghỉ.
Họ phải có được một Oedipus, anh ta sẽ giải thích cái bí ẩn của
chính họ, về cái điều, họ không có được ý nghĩa, sẽ dạy họ, rằng, những
lời nói, những hành động của họ, nghĩa ra sao. Họ phải có một Prometheus,
để mà, ở nơi ngọn lửa mà anh ta ăn cắp được, những tiếng nói chấp chới
như là những bông tuyết, chúng sẽ nổi loạn, sẽ sản xuất ra một âm thanh,
và âm thanh này sẽ bắt đầu nói. Còn nữa; những từ này phải được nghe, chúng
chưa hề được nói ra, nằm nơi đáy sâu trong trái tim của họ (hãy lục soát
của riêng bạn, chúng có đó); những im lặng của lịch sử phải được làm để
nói, những điểm bàn đạp khủng khiếp ở đó, lịch sử chẳng nói gì thêm, và
đúng là những âm sắc bi đát nhất của nó. Và chỉ tới lúc đó, thì người chết
mới đành lòng nằm trong mồ. Họ bắt đầu hiểu số phần của họ, sửa lại những
trật trìa để có được 1 sự hài hoà ngọt ngào, để nói năng giữa họ, và trong
1 lời thì thào, những từ cuối cuối cùng của Oedipus: Hãy nhớ đến ta. Những
cái bóng sẽ đón chào nhau, và lắng xuống trong an bình. Họ sẽ để cho những
cái bình đựng tro cốt lại được đóng khằn. Họ tản mát, lặng lẽ chia tay nhau,
và lui trở lại vào giấc ngủ và từ bỏ những giấc mơ của họ. Cái bình tro cốt
quí giá của những thời đã qua đó - những vị giáo hoàng của lịch sử mang
nó, chuyển nó cho nhau, với xiết bao lòng mộ đạo, sự cẩn trọng! (chẳng ai
biết được, ngoài họ, về như thế nào là lòng ngoan đạo, ở đây), như họ mang
tro cốt của cha, hay con trai họ. Con trai họ? Nhưng không phải chính họ?
http://www.tanvien.net/tribute/chim_thieng_1.html
History greets and
renews these disinherited glories; it gives life to these dead men, resuscitates
them. Its justice thus associates those who have not lived at the same
time, offers reparation to some who appeared so briefly only to vanish.
Now they live with us, and we feel we are their relatives, their friends.
Thus is constituted a family, a city shared by the living and the dead.
1872. Histoire du XIXe siècle,
II, Le Directoire, Preface
Roland Barthes: Michelet
Lịch sử chào đón và làm mới những chiến thắng,
vinh quang không được hưởng ân huệ của Cách Mạng; nó đem đời sống đến cho
những người chết, tái sinh họ, công lý của nó như thế, kết hợp những kẻ
không sống cùng thời, dâng hiến sự thu vén, sửa sang tới một số, xuất hiện
thoáng chốc, để biến mất. Bây giờ, họ sống với chúng ta, và chúng ta cảm
thấy, chúng ta là bà con của họ, bạn bè của họ. Như thế là tạo thành 1
gia đình, 1 thành phố, được chia xẻ bởi người sống và người chết.
Đọc bỗng nhiên Gấu nghĩ đến những kẻ bị Vẹm làm thịt - những ngày chúng
vừa mới xuất hiện, 1945, và lì lợm sống mãi cho tới bây giờ - “một số xuất
hiện ngắn ngủi rồi biến mất”, như Nhượng Tống, chẳng hạn, hay Phan Văn Hùm….
Note: Bài viết của Aileen Kelly, về Anna Akhmatova dưới đây, tình cờ làm
sao, đúng cái ý của Michelet, về 1 sử gia, người đem tiếng nói tới cho người đã chết,
nhất là những người xuất hiện thoáng chốc, và rồi biến mất
Nhắc tới TCDT, là bèn nhớ đến Roland Barthes và cuốn viết về Michelet
của ông.
Apr 3, 2016
Nhà tiên tri bước đi
giật lùi: Tạ Chí Đại Trường
NL
http://nhilinhblog.blogspot.ca/2016/04/nha-tien-tri-buoc-di-giat-lui-ta-chi-dai-truong.html#more
GCC tính đọc TCDT song
song với Roland Barthes, qua cuốn Michelet, của RB.
Không phải cái kiểu
để hai ông kế bên nhau, như đám Mít hay làm, mà theo tinh thần
"văn sử" của TCDT.
Nhưng ôm đồm quá, chưa
làm sao rứt ra được.
Độc giả TV đọc ké blog
NL, trong khi chờ đợi.
Art puts history on show and
makes the historian into a writer.
[Nghệ thuật đưa lịch sử ra trình làng, và biến sử
gia thành nhà văn].
Roland Barthes viết, Michelet, một tay xực lịch sử,
Michelet, eater of history. Ở đoạn "Michelet as predator", kẻ ăn
thịt sống, ông coi sử gia người Pháp này, giống Pascal, Rimbaud,
là những người viết tới đâu ăn văn mình tới đó, [Michelet is
one of those predatory writers (Pascal, Rimbaud) who cannot write without
constantly devouring their discourse].
[Bản tiếng Anh của Richard Howard, nhà xb Hill and
Wang, New York]
Michelet nhận lịch sử như một món dinh dưỡng ông,
bù lại, ông từ bỏ đời mình vì nó.
[Michelet receives History as a nutriment, but in return
he abandons his life to it].
V/v Nhà tiên tri đi giật lùi.
Có bài "con tôm" vinh danh ông, của Apollinaire
:
Le Bestiaire
L'ÉCREVISSE
Incertitude, ô mes delices
Vous et moi nous nous en allons
Comme s'en vont les ecrevisses,
A reculons, a reculons.
THE CRAYFISH
Uncertainty, O my delight,
We keep progressing you and I
Moving backwards,
Crayfish wise.
Tôm Em
Ôi, Em cứ hẹn những em đừng đến nhé!
Tôi và em cùng tiến, bằng cách lùi
Lùi, lùi
Đôi ta xa nhau chừng mấy cõi?
Errata:
Vòng đầu địa ngục, 1er cercle
Note: Không biết cuốn
này, TCDT có cho xb ở trong nước hay không?
Trong những cuốn sách của “bạn ta”, Gấu mê cuốn này nhất,
nhất là cái câu bạn phán, trong bài Tựa: Nếu cứ nghiêm túc một
cách khắt khe thì văn chương quả có hại cho sử học.
Nhưng liền đó, bạn trích dẫn 1 ý, mà chẳng thú ư:....
các tác giả như A. Dumas-père thường 'đẻ ra những đứa con hoang
khoẻ mạnh hơn cả (1) lịch sử"?
Ui chao, liệu có thể coi những tác phẩm văn học mang tính
lịch sử của một NHT, thí dụ, khoẻ mạnh hơn lịch sử Mít, thời
vừa qua?
(1)
TCDT dùng chữ "của", Gấu đổi là "cả".
Ý của TCDT, những đứa con khỏe mạnh “của” lịch sử. Của Gấu,
khỏe mạnh hơn “cả” lịch sử.
Chỉ 1 chữ thay đổi, khác hẳn đi.
Chết chỉ vì 1 cái dấu phẩy là vậy.
Trong chuyến "hành phương Nam", tới Tiểu Sài-gòn, tôi gặp
hai người bạn văn mà có thể chúng tôi đã từng gặp nhau mà chẳng
hay. Trúc Chi, và Tạ Chí Đại Trường. Ông sử gia này học cùng
năm với tôi, cùng ban B, chỉ khác lớp, tại trường Chu Văn An, khi
đó còn ăn nhờ ở đậu bên cạnh trường Pétrus Ký; miếng đất sau trở
thành Trung Tâm Học Liệu. Dân toán mà mê sử; còn tôi, văn chương.
Hay là người ta cứ phải mê toán đã, rồi muốn mê gì thì mê: con số
tuyệt đối, bài thơ tuyệt đối, trang sử tuyệt đối, là một?
Ôi về già, mà làm sao còn hăng say, và hết lòng với nhau
như vậy: Tôi sẽ chẳng bao giờ quên được, ông vội vàng bỏ ra về,
ngay khi vừa gặp, để lục lọi cho được một cuốn sách cho tôi. Cuốn
này là cuối cùng còn lại trong nhà; không phải để tặng, mà chỉ
ký tên trang đầu: cuốn sách do lỗi kỹ thuật, thiếu một trang.
TCDT Memoriam
Một
sử gia khác: Jules Michelet, tự nói rõ thế mắc kẹt của mình. Michelet
nói đại ý mình sinh ra dưới nền khủng bố của Babeuf (nhân vật mà độc giả
Những người khốn khổ của Hugo không thể quên) và chết đi khi một nền khủng
bố khác đang áp sát dần: khủng bố của bài hát "Quốc tế ca": cuộc đời
sử gia bị mắc kẹt giữa hai kỳ khủng bố. Những sử gia đích thực được giao
và bị bắt làm cái công việc làm rối dòng chảy, một dòng chảy nào đó,
họ không thể tránh được một số thứ.
Blog NL
MEMORANDUM
MICHELET (Jules), French historian, born in Paris. His liberal opinions
twice caused his lectures at the College de France to be suspended. In
his Histoire de France and his Histoire de la Revolution, he managed to
effect a veritable resurrection of our national life (1798-1874). -Petit
Larousse illustré, 1906-34
CHRONOLOGY
"I was born during the great territorial revolution, and I shall
have seen the dawn of the great industrial revolution. Born under the
Terror of Babeuf, I see, before I die, the Terror of the Internationale."
Roland Barthes: Michelet
Với Barthes, trước hết Michelet là một người ăn lịch sử ("mangeur
d'histoire": có phải là cách gọi thoát thai từ câu chuyện liên quan đến
thuốc phiện, mangeur d'opium?
Blog NL
MICHELET THE WALKER How does Michelet eat History? He "grazes" on
it; i.e., he passes over it and at the same time he swallows it. The corporeal
gesture which best accounts for this double operation is walking; also,
we must remember that, for the romantics, travel had an entirely different
effect from its modern counterpart; nowadays we participate in a journey
by "eyes only," and the very rapidity of our course makes whatever we see
a kind of remote and motionless screen.
RB
Note: Có vẻ như NL viết về TCDT cùng lúc đọc Michelet
của Barhes?
GCC tính làm cú này, lục mãi mới thấy cuốn sách.
Câu
trích dẫn liên quan đến "Như có Bác Hồ" [Quốc Tế Ca, Internationale],
nằm trong 1 đoạn, nguyên con như sau, khúc có cái thư gửi Victor Hugo.
THE APOCALYPSE OF OUR TIME
One of today's most serious, and least remarked phenomena, is that
the gait of time has entirely altered. It has doubled its steps in a
strange fashion. In a single lifetime (of ordinary length, seventy-two
years), I have seen two great revolutions which once might have taken
place at intervals of two thousand years.
I was born during the great territorial revolution, and I
shall have seen the dawn of the great industrial revolution.
Born under the Terror of Babeuf, I see, before I die, the Terror
of the Internationale.
Several times the same panic has created in my lifetime what
was believed to be a remedy: military government, the Caesar of Austerlitz,
the Caesar of Sedan.
A great change which, seizing public attention, has distracted
it from a phenomenon no less grave and no less general: the creation of
the greatest empire ever seen beneath the sun, the British Empire, ten
times more far-flung than those of Bonaparte and of Alexander the Great.
Never has death scored such triumphs round the globe. For
if Napoleon in only ten years (1804-14), according to his own figures,
killed seventeen hundred thousand Frenchmen, and no doubt as many Germans,
Russians, etc., England, in a famous trial, accused one of her governors
of having killed by famine, in one year, millions of Indians. By this
mere fact, one may judge what a hundred years of colonial tyranny can be,
imposed without control in an unknown world upon a population of two hundred
million souls.
But if the destructive forces have scored such triumphs, the
creative forces are no less astounding by their miracles.
And this so recently! I seem to be dreaming when I think that these
incredible things have occurred in one man's lifetime. I was born in '98.
This was the period when M. Watt, having long since made his discovery,
put it to work in manufacture (Watt and Bolton), producing without measure
his workmen of copper and iron, by which England would soon have the power
of four hundred million men. This prodigious English world, born with me,
has declined. And this terrible century, applying to warfare its mechanical
genius, yesterday produced the victory of Prussia.
Those who believe that the past contains the future, and that
history is a stream forever flowing one and the same, forever impelling
the same waters between its banks, must here reflect and see that very
often a century is opposed to the preceding century, sometimes furnishing
it a harsh denial. As much as the eighteenth century, upon the death of
Louis XIV, advanced lightly on the wing of ideas and of individual activity,
by just so much our own century with its great machines (the factory and
the barracks), blindly harnessing the masses, has advanced into fatality.
Consider that to these great phenomena here below there corresponds
up above, very faithfully, a little bell: it is philosophy, which says
the very same things. To the fatalism of 1815 and of Hegel succeeds the
medical, physiological fatalism of Virchow, Robin, and Littré.
In general, this materialist history might be expressed in
three words: Socialism, Militarism, and Industrialism. Three things
which engender and destroy each other.
Babeuf's Terror produced Bonaparte as well as his victories,
which is to say that a dawning Socialism, by the panic it caused, produced
the triumph of Militarism.
And Militarism, what did it encounter in its great struggle?
Invariably, the English gold created by the industrial power which paid
and armed Europe. A power vanquished at Austerlitz, victorious at Waterloo.
1872. Histoire du XlX" siècle, I, Origine des Bonaparte,
Preface
Cuốn này, theo
GCC, phản động nhất, đối với VC, và tuyệt nhất với riêng Gấu, ở cái văn
trong cái sử.
TCDT cho biết, cách gọi anh Ba, anh Tư mà chúng ta tưởng là do
tính cách Miền Nam, đúng ra là bắt chước Thiên Địa Hội.
"Gọi cô Xuân là "bà hoàng hậu" của thời mới cũng không đúng, bởi
vì trước mắt mọi người, cô chỉ là "gái" - nhất là đối với "người dắt gái".
(Nguyễn Tất Trung là con của Hồ Chí Mính hay của Trần Quốc Hoàn?" - NBVS
trang 166
Thánh Simone – Simone Weil
“We must
prefer real hell to an imaginary paradise”
Simone
Weil
http://www.tanvien.net/GT/simone_weil_page.html
Thiên
sứ Mạc Tư Khoa, messagère de l'évangile mouscoutaire, vierge rouge, Trinh Nữ Đỏ, là những nick của Simone
Weil
No English word exactly conveys
the meaning of the French malheur. Our word unhappiness is a negative
term and far too weak. Affliction is the nearest equivalent but not quite
satisfactory. Malheur has in it a sense of inevitability and doom.
Emma Craufurd [dịch Weil qua tiếng Anh]: Waiting for God
Không có từ tiếng Anh nào tương đương với từ tiếng Tây, malheur,
bất hạnh. Cái từ unhappy, không được vui, thì đúng là một từ tiêu cực,
và yếu xìu. Trong từ bất hạnh, nó có cái nghĩa [điều] "không thể
nào tránh được", và, "trầm luân", bị trời đầy, số kiếp là như vậy.
Đối với Simone Weil, những “tội ác” của chủ nghĩa thực dân
thì liền lập tức mắc míu, ảnh hưởng tới sự băng hoại, mất chất, cả về
mặt tôn giáo lẫn chính trị ở nơi quê nhà.
TTT, nhà thơ chẳng đã tiên đoán ra được, trước khi khăn gói
quả mướp lên đường đi tù cải tạo, miền Bắc sẽ bị chấn thương nặng nề
vì chiến thắng này. Câu nói của ông đúng vào những ngày 30 Tháng Tư
1975, khi nhìn VC tiến vào Sài Gòn, thì cũng đâu có khác gì Weil,
khi nhìn những đoàn quân Nazi tiến vào Paris: Her observation, at
the very moment of the occupation of Paris by German troops, that this
was a great day for Indo-China (for all people under French colonial rule).
G. Steiner: Sainte Simone - Simone Weil
TCDT Memoriam
http://www.tanvien.net/Tribute_1/Ta_Chi_Dai_Truong_Memeriam.html
TCDT
Memoriam
Apr
3, 2016
Nhà tiên tri bước đi giật lùi: Tạ Chí Đại Trường
NL
http://nhilinhblog.blogspot.ca/2016/04/nha-tien-tri-buoc-di-giat-lui-ta-chi-dai-truong.html#more
GCC tính đọc TCDT song song
với Roland Barthes, qua cuốn Michelet, của RB.
Không phải cái kiểu để hai ông kế bên nhau, như đám Mít hay
làm, mà theo tinh thần "văn sử" của TCDT.
Nhưng ôm đồm quá, chưa làm sao rứt ra được.
Độc giả TV đọc ké blog NL, trong khi chờ đợi.
Art
puts history on show and makes the historian into a writer.
[Nghệ thuật đưa lịch sử ra trình làng, và biến sử gia thành
nhà văn].
Roland Barthes viết, Michelet, một tay xực lịch sử, Michelet,
eater of history. Ở đoạn "Michelet as predator", kẻ ăn thịt sống, ông
coi sử gia người Pháp này, giống Pascal, Rimbaud, là những người viết
tới đâu ăn văn mình tới đó, [Michelet is one of those predatory writers
(Pascal, Rimbaud) who cannot write without constantly devouring their
discourse].
[Bản tiếng Anh của Richard Howard, nhà xb Hill and Wang, New York]
Michelet nhận lịch sử như một món dinh dưỡng ông, bù lại, ông
từ bỏ đời mình vì nó.
[Michelet receives History as a nutriment, but in return he abandons
his life to it].
V/v Nhà
tiên tri đi giật lùi.
Có bài "con tôm" vinh danh ông, của Apollinaire
:
Le Bestiaire
L'ÉCREVISSE
Incertitude, ô mes delices
Vous et moi nous nous en allons
Comme s'en vont les ecrevisses,
A reculons, a reculons.
THE CRAYFISH
Uncertainty, O my delight,
We keep progressing you and I
Moving backwards,
Crayfish wise.
Tôm Em
Ôi, Em cứ hẹn những em đừng đến nhé!
Tôi và em cùng tiến, bằng cách lùi
Lùi, lùi
Đôi ta xa nhau chừng mấy cõi?
Tưởng
niệm Tạ Chí [Đoạn] Đại Trường bằng cách đọc tay này, mới thú!
Khác với
WB, TCDT nổi tiếng, cả trong lẫn ngoài nước, nhưng ở trong nước, là
vào cuối đời.
WB không
có cái may mắn như vậy. Ông bị giới khoa bảng và nhà xb vờ, khi còn sống.
Vào thuở
bây giờ, ông chói sáng của cái hào quang - từ này của ông, aura - của
1 triết gia trời đánh, maudit!
TCDT phán,
chưa có bà hoàng hậu Mít nào thê thảm như bà hoàng hậu cuối cùng, Nông
Thị Xuân. Bị hoàng đế Hồ chơi chán, thẩy cho Trùm Cớm VC, chơi chán,
quăng ra đường, cho xe cán!
Vậy mà về
được xứ Mít để chết.
Cũng sướng
1 đời!
RIP
Note: Bài viết "WB et le sens de l'histoire" trên báo Triết, Philo
Magazine, Tháng Ba, 2016.
Hình WB đang ngồi thư viện, 1 số Văn Học Pháp, Magazine Littéraire cũ.
Tạ Chí Đại
Trường (Ảnh chụp năm 1974)
Năm
1964, lần đầu tiên tôi gặp anh Tạ Chí Đại Trường, sau khi chúng tôi rời
trường Bộ binh Thủ Đức để về trường Quân Y học giai đoạn 2, ngành Hành Chánh
Quân Y.
Lữ Quỳnh: TCDT, đời thường
TCDT: "Lịch sử và chính thống",
Văn Học 134, Tháng 6, 1967
Cái này mà đem về trong
nước in ư?
Một trong số những nhà văn có tầm
nhìn sáng suốt, về xứ Mít và cuộc chiến của nó, là Solzhenitsyn. Ngay
từ 1975, khi trả lời trong 1 chương trình văn học trên TV Tẩy, ông
đã tiên đoán Miền Bắc sẽ cướp đoạt Miền Nam, và đây là 1 cuộc chiến
tranh chấp quyền lực giữa các đế quốc, khác hẳn mọi người, trong có Octavio
Paz, khi ông này cho rằng đây là cuộc chiến giải phóng dân tộc.
Nói rõ hơn, Solzhenitsyn biết chuyện Bắc Kít dâng
vợ con đất nước cho Tẫu, để lấy viện trợ, để lấy cho bằng được Miền
Nam.
Bắc Kít phải hiểu rõ điều này hơn ai hết. Chúng
vờ, làm như không biết. Đây là nỗi nhục của cả xứ Bắc Kít, theo
cái kiểu mà Sebald nói, về nước Đức, khi họ vờ những trận mưa bom
của Đồng Minh lên đất nước, thành phố của họ.
Nhạc sĩ Tô Hải hình như cũng có kể về 1 lần gặp
gỡ hai tên, 1 VC, áp giải 1 anh tù Ngụy, và để ý, anh VC trang
bị, từ đầu đến chim, toàn đồ Tầu,anh Ngụy toàn đồ Mẽo. Cái chuyện Miền
Nam được Mẽo lo cho đủ thứ, thì ai cũng biết. Khốn nạn nhất, là khi chúng
bỏ mặc Miền Nam cho VC. Chúng cắt mọi viện trợ, làm sao đánh đấm?
Chúng bức tử Miền Nam.
(1)
Trong bài viết "Gulag", trong “On Poets and Others”,
Paz chỉnh Solz, khi phán, cuộc chiến Đông Dương là mâu thuẫn quyền
lợi giữa đám đế quốc, the war in Indochina was an imperial conflict.
Paz coi đây là cuộc chiến giành độc lập của 1 xứ cựu thuộc địa của Pháp.
Cái bước ngoặt lịch sử - bốn ngàn năm thù Tẫu của xứ Mít - chấm dứt, xẩy ra đúng vào lúc ông Hồ trốn
thoát cuộc canh chừng của Cớm Tẩy ở Paris, và chuồn được qua Moscow.
Sau đó, ông thoát cuộc thanh trừng của Xì, và được
Xì cho về Trung Quốc, như 1 tên Cớm CS Quốc Tế, ăn lương Cẩm Linh,
làm việc với CS Tẫu.
Đường ngắn tới… Heo
Heo 1: Ngay sau 30 Tháng 4, 1975 cho lũ Ngụy
Heo 2: Dài dài sau đó, cho tới 40 năm sau, và
sau nữa, cho xứ Mít.
Nhìn hình, thì thấy Tông Tông Thiệu bảnh trai hơn
bất cứ 1 tên nào ở Bắc Bộ Phủ!
Được, được!
“Short road to Hell”, cụm từ này, là của
tuỳ viên báo chí của Tông Tông Thiệu, phát biểu, khi Nixon và
Kissinger tìm đủ mọi cách đe dọa Thiệu, bắt ông phải ngồi vô bàn hội
nghị ở Paris. Trên tờ Vietnam, số mới nhất Tháng 10, 2015, có bài
viết của J. Veith, tác giả Tháng Tư Đen: Miền Nam thất thủ, Black
April : The Fall of South Vietnam, 1973-75, viết về cú bức tử Miền
Nam của Nixon và Kssinger. Bài viết là từ cuốn New Perceptions of the
Vietnam War: Essays on the War: The South Vietnamese Experience, The
Diaspora, and the Continuing Impact, do Nathalie Huynh Chau Nguyen biên
tập:
Sau khi dụ khị đủ mọi cách, Thiệu vẫn lắc đầu, Nixon
dọa cắt hết viện trợ Mẽo, nếu không chịu ký hòa đàm.
After persuasion had failed, Nixon threatened Thieu
with the cessation of all American aid if he did not sign the accords
Tổng Lú nhớ đọc nhe, vừa hôn đít O bá mà, vừa đọc
nhe!
Hôn rồi, về xứ Mít đọc, cũng được!
Chúng ta giả dụ, sau khi Mẽo lại đi đêm với Tập, như
Kissingger đã từng đi đêm với Mao, chúng yêu cầu, thịt thằng
VC Mít nhe?
Nhà Sử Học Tạ Chí Đại Trường qua đời tại Sài Gòn
Wednesday, March 23, 2016 4:37:49 PM
RIP
Tất cả tác phẩm của ông Đại Trường đều có giá trị cả vì ông ấy nói
lên sự thật mà không bị ràng buộc bởi cái gọi là 'nhạy cảm chính trị'
Giáo sư Nguyễn Huệ Chi
Hôm 24/3 trao đổi với BBC qua điện thoại từ Hà Nội, giáo sư Nguyễn
Huệ Chi nói: “Tôi bàng hoàng khi hay tin ông Đại Trường qua đời. Với tôi,
ông ấy là người luôn ngẩng cao đầu, không chịu nghe mệnh lệnh của ai ngoài
trái tim và con mắt nhìn sự thật”.
“Ông Đại Trường là nhà sử học có tầm vóc và có nhiều khám phá về
phương diện lịch sử Việt Nam trong giai đoạn trung đại, cận đại và hiện
đại”.
“Tiếc là có một quá trình dài từ năm 1975, giới khoa học xã hội
miền Bắc nắm giữ tư thế ‘bên thắng cuộc’ nên không trao đổi học thuật
với một nhà sử học chân chính của miền Nam như ông Đại Trường”.
“Theo tôi, đấy là một thiệt thòi cho giới khoa học miền Bắc. Lẽ
ra, nếu tiếp cận ông sớm, người ta đã nhận ra phải nhận thức lịch sử
cho đúng và những gì phải thay đổi trong cách viết sử lâu nay”, giáo sư
nói thêm.
Ông Huệ Chi cũng cho hay: “Những người như ông Đại Trường cần phải
được đặt ở vị thế xứng đáng để ông nghiên cứu và những phát hiện của ông
được trân trọng. Nhưng có thể vì nhạy cảm chính trị mà người ta né tránh
một tinh hoa của miền Nam như ông”.
Bi Bì Xèo
Trước 1975 làm gì có cái gọi là mặc cảm chính trị?
Cần phải được đặt ở vị thế? Ai cần, ai đặt ? Mấy cái trò này, Miền
Nam đâu hề biết, đâu hề cần? Đâu chỉ mình ông, những người khác cũng thế.
Giả như là 1 người viết có khả năng, khi viết về tác phẩm của TCDT,
là phải coi chúng có giá trị sử học hay không.
Tên này chắc chưa từng đọc TCDT?
Trong 1 bài viết trên tờ Văn Học, TCDT coi bà Nông Thị Xuân là vị
hoàng hậu cuối cùng của xứ Mít.
Tên này đánh giá ra sao về nhận định như thế?
Hay Vẹm, VM, chỉ là 1 băng cướp.
Cướp chính quyền 1945 thì đúng là băng ăn cướp chứ còn gì nữa?
Lẽ ra nếu tiếp cận ông sớm? Ông ta đi tù cải tạo, làm sao tiếp cận?
Liệu có dám vô đó, để tiếp cận?
Người ngẩng cao đầu?
Tên sĩ quan Ngụy nào chẳng vậy.
TTT, Tô Thuỳ Yên, Phan Nhật Nam…
Tên NHC này đúng 1 thứ tào lao!
Đề tài mà Gấu đang nhức đầu với nó, nhân đọc Sebald, có tí liên
quan tới đám này: Tại sao không 1 tên trong đám chúng, nói 1 lời, về
cuộc tù đầy ròng rã bao nhiêu năm của đám sĩ quan VNCH. Đâu có ít ỏi gì,
có người 17 năm như Thảo Trường.
Điều gì làm lũ này câm miệng trong bao nhiêu năm?
Sebald hỏi dân Đức, tại sao Đồng Minh dội bom nước Đức như thế đó,
mà tất cả điều im lặng, và ông tự trả lời, đây nỗi nhục trong gia đình,
và người Đức không có thói quen khoe vết thương trong nhà, cho thiên hạ
thấy.
Không lẽ Bắc Kít cũng thế? (1)
Cũng không 1 tên tỏ ra biết ơn Thiên Triều, nhờ họ mà chúng ăn cướp
được Miền Nam?
Cũng nỗi nhục trong gia đình, khi phải dâng vợ con cho Tẫu?
Những cái lỗ hổng hồi ức này, theo Gấu, đều là do não bộ của tầng
lớp tinh anh Bắc Kít, bị mất 1 cái gì đó, và cái này liên quan tới lương
tri của con người.
“Những người như ông Đại Trường cần phải được đặt ở vị thế xứng
đáng để ông nghiên cứu và những phát hiện của ông được trân trọng. Nhưng
có thể vì nhạy cảm chính trị mà người ta né tránh một tinh hoa của miền
Nam như ông”.
Những kiểu nhận định như vầy, ở một nước tự do… là làm nhục nhà
văn. Tên này làm sao hiểu được 1 điều hết sức cơ bản như vậy.
Nhà văn viết, và vị trí xứng đáng, nếu có, là từ tác phẩm của người
đó. Và họ không hề đòi hỏi 1 vị thế xứng đáng.
Ai cho họ, điều nhục & vinh, ngoài tác phẩm của họ?
(1)
Trong bài viết Không chiến và văn chương (Air War and Literature)
ông có giải thích về cái sự im hơi bặt tiếng, của hồi ức văn hoá Đức:
Họ coi đây là một điều cấm kỵ, một vết thương, vết nhục ở trong gia đình,
[a kind of taboo like a shameful family secret].
Ác Mộng
http://web.archive.org/web/20070620141237/http://tanvien.net/
Không thể nào tưởng niệm, The Inability to Mourn, đó mới chính là
tình trạng đau thương của người Việt, y chang nước Đức sau Lò Thiêu.
Người đẻ ra lý thuyết Không thể nào tưởng niệm, là Alexander and
Margarete Mitscherlich, vào năm 1967. Kể từ đó, nó được chứng nghiệm,
proved, mặc dù, thật khó mà kiểm chứng, verified, như là một trong những
lời giải thích sáng sủa nhất, rõ ràng nhất cho cái chứng bệnh tâm thần
của xã hội Đức hậu chiến, theo W. G. Sebald, trong bài viết Contructs of
Mourning, được in trong Campo Santo [nhà xb Hamish Hamilton, Penguin Books,
bản dịch tiếng Anh, 2005].
Người Việt trong, ngoài nước, thù VC vì đã tước đoạt của họ giấc
mơ tuyệt vời nhất - sau giấc mơ chấm dứt chiến tranh, thống nhất đất nước
- cứ thế mà cùng nhau bước vào thiên niên kỷ, không một chút hận thù,
không một chút phân biệt, kẻ thắng, người thua.
Dream Textures: A brief note on Nabokov
Ngay ở đoạn vừa mở ra cuốn tự thuật "Hồi ức kia ơi, hãy lên tiếng",
của Nabokov, có câu chuyện, một người đàn ông, mà chúng ta tin chắc,
anh ta còn rất trẻ, và anh ta bị một cú sợ đến té đái, đó là khi được
cho coi mấy đoạn phim ngắn, chụp cảnh trong gia đình, của chính anh ta,
chỉ vài ngày trước khi anh ta ra đời. Tất cả những hình ảnh đang run rẩy
trên màn ảnh kia, thì thật quá quen thuộc với anh ta. Anh ta nhận ra mọi
điều, mọi thứ, và, đột nhiên anh ta mặc khải ra rằng là, không có ta ở
trong đó.
Phát giác này khiến anh sợ đến té đái. Sợ hơn nữa, thê lương hơn
thế nữa, là, mọi người xem ta chẳng tỏ ra một chút bùi ngùi nào, về sự
vắng mặt của chàng.
Khủng khiếp hơn hơn nữa, là, hình ảnh bà mẹ, đứng bên cạnh một cửa
sổ, đưa tay vẫy vẫy, và anh chàng tưởng tượng ngay ra được rằng, đây là
một cái vẫy tay chào giã biệt, nhưng, giã biệt cái gì cơ chứ, và, chàng
nhìn thấy, ở ngay cổng ra vào căn nhà, một chiếc xe nôi của trẻ con, giống
như một cái hòm, và, mặc dù không có đứa bé con ở trong cái nôi, nhưng chàng
tưởng tượng, đứa bé đó là chàng, và "nó" đang tan ra thành hư vô, thành
cát bụi...
Đây là Nabokov đang mời gọi chúng ta, những độc giả của ông, cùng
tham dự một cuộc thí nghiệm, thâm nhập cái chết trong hồi ức, của một
thời gian trước khi có cuộc sống, một điều khiến người coi [anh chàng
rất trẻ kia] trở thành một thứ hồn ma, trong chính gia đình của mình...*
Tôi không làm sao nối kết được những sự kiện, sự vắng mặt của anh
chàng trai trẻ, với giấc mộng tuyệt vời chẳng hề có của người Việt, cái
sự không thể tưởng niệm được của người Việt, nhất là ở trong nước, nhất
là đồng bào Miền Nam, những người thân yêu của họ đã mất đi, cái vết thương
không thể nào lành, không thể, không thể....
Ôi chao Gấu cứ tưởng ra cái cảnh DTH ngồi khóc ở vệ đường, khóc
cho cái giấc mộng tuyệt vời của bà, đang tan ra thành hư vô thành cát
bụi, vào đúng một cái ngày 30 Tháng Tư năm nào...
Đúng là một giấc mơ ở giữa cái sống và cái chết...
Và cái hồn ma ở trong chính căn nhà của mình, liệu có bà con gì
với đứa trẻ chết, ở trong một nữ văn sĩ Việt, viết văn bằng tiếng Tây?
“Những người như ông Đại Trường cần phải được đặt ở vị thế xứng
đáng để ông nghiên cứu và những phát hiện của ông được trân trọng. Nhưng
có thể vì nhạy cảm chính trị mà người ta né tránh một tinh hoa của miền
Nam như ông”.
Trong đám tinh anh Bắc Kít, chỉ có một người nói không với “vị thế
xứng đáng” mà Đảng ban cho, là DTH. Còn đấng này đấng khác, thì đều OK
cả.
Mặc cảm chính trị?
Tên này thử đưa ra 1 thí dụ, qua đó nhà nước VC “không né tránh”
1 tinh hoa của Miền Nam?
Tên này đã từng đi Mẽo nhận tiền của Xịa, qua chương trình vẽ nên
diện mạo Mít lưu vong.
Theo GCC, đây cũng là 1 món quà nằm trong “cần phải”.
Nói rõ hơn, những cú như Sáng Tạo, hay VP, hay Bắc Kít…. lấy tiền
Mẽo để… viết văn, là đều nằm trong chương trình của Xịa với những cái
tên khác nhau.
Tên NHC này không hiểu nổi điều này đâu.
Chuyện lòng thòng lắm, để từ từ GCC trình ra.
Nếu cứ nghiêm túc một cách khắt khe
thì văn chương quả có hại cho sử học.
Bây
giờ, khi ông đi xa rồi, đọc lại, thì mới nhận ra, đây
là câu Tạ Chí Đại Trường trả lời câu của Gấu, viết về lần đầu
gặp gỡ:
Một chuyến đi
http://www.tanvien.net/tg/tg10_chuyendi.html
Trong chuyến "hành phương Nam",
tới Tiểu Sài-gòn, tôi gặp hai người bạn văn mà có thể chúng tôi
đã từng gặp nhau mà chẳng hay. Trúc Chi, và Tạ Chí Đại Trường.
Ông sử gia này học cùng năm với tôi, cùng ban B, chỉ khác lớp,
tại trường Chu Văn An, khi đó còn ăn nhờ ở đậu bên cạnh trường
Pétrus Ký; miếng đất sau trở thành Trung Tâm Học Liệu. Dân toán
mà mê sử; còn tôi, văn chương. Hay là người ta cứ phải mê toán đã,
rồi muốn mê gì thì mê: con số tuyệt đối, bài thơ tuyệt đối, trang
sử tuyệt đối, là một?
Ôi về già, mà làm sao còn hăng say, và
hết lòng với nhau như vậy: Tôi sẽ chẳng bao giờ quên được, ông
vội vàng bỏ ra về, ngay khi vừa gặp, để lục lọi cho được một cuốn
sách cho tôi. Cuốn này là cuối cùng còn lại trong nhà; không phải
để tặng, mà chỉ ký tên trang đầu: cuốn sách do lỗi kỹ thuật, thiếu một
trang.
Bài viết này, là bài viết cuối cùng
Gấu viết cho tờ Văn Học, số Tết Kỷ Mão [mới check trên net, tháng
1 &2 1999), và gần như chỉ cho hai người
trong băng đảng này, là TC, và TCDT.
Sau đó, là ra riêng, làm trang Tin Văn.
Lúc đầu, là 1 mục thường xuyên trên VHNT
trên lưới, PCL cho riêng 1 account, sau khi trang này bị trục trặc
về server, bèn về núi Tản Viên 1 mình 1 cõi. Như thế trang TV
kể như có mặt từ 1999.
Nhìn
cuốn sách thì lại nhớ đến Brodsky. Ông biểu, ai điếu là
thuốc thử đạo hạnh của người còn sống đối với người đã khuất.
Băng đảng, bộ lạc Cờ Lăng
này không bỏ qua 1 cơ hội để xeo phi và bán sách!
Người chết chúng cũng không
tha!
NQT
Note: Bi Bi Xèo cũng xài bức hình này. Đã tưởng
chỉ có băng đảng, bộ lạc Cờ Lăng nâng bi Thái Thượng Hoàng, Kẻ Dụng
Nhân Như Dụng Mộc, Ông Số 2, ai ngờ thêm lũ ngu này nữa!
TCDC biết mình sắp chết, thay vì di chúc, ném
cái xác xuống biển như bạn Cà, thì bèn bò về nằm chờ ngày lên
chuyến tầu suốt. Trong thời gian này, độc giả, bạn bè thân quen,
nhà xb ghé thăm, chuyện trò dôm dả, có những bức hình tuyệt vời
như thế đó, ở trên báo trong nước.
Lũ khốn này xúm nhau lại thổi đít Thái Thượng Hoàng.
Tởm thực!
Đừng có nghĩ là GCC ưa chửi, nhất là, chửi lũ băng đảng bộ lạc Cờ Lăng, hoặc đám
Bắc Kít qua được Tây Phương, bằng cửa Đông Âu.
Nhưng ở đây, tuy nhỏ mọn, nhưng liên quan đến cách ứng
xử văn minh của lũ Ngụy ngày nào phải chạy ra biển.
Rõ ràng là, khi TCDT trở về trong nước để chết, là
1 nghi thức về văn hóa, không đơn giản đâu, cái lũ ngu si đần độn,
chúng không làm sao đọc ra cử chỉ cuối cùng của 1 người, 1 tên Ngụy
như ông!
Cái
tên Thái Thượng Hoàng, Ông Số 2 này, cũng 1 thứ Bắc Kít [1954], cực
kỳ thông minh, và bởi thế, não cũng bị thiến một mẩu. Hắn làm Gấu nhớ
tới câu chuyện về con cá vàng và bà vợ 1 ông thuyền chài. Bà này đòi
đủ thứ, sau bị lấy lại hết, và cuối cùng chỉ còn căn lều như ngày xưa.
Tên này, được đủ hết, nhưng lại thèm căn lều "như xưa", là, chỉ 1 câu
thơ, để làm cái tít cho bài viết về thuyền nhân Mít chết trên đường vượt biển.
Mày không cho ông, thì ông ăn cắp, ông vặc lại ông Trời!
Và ông bèn ăn cắp!
Note: Không biết cuốn này, TCDT có cho xb ở trong nước hay không?
Trong những cuốn sách của “bạn ta”, Gấu mê cuốn này nhất, nhất
là cái câu bạn phán, trong bài Tựa: Nếu cứ nghiêm túc một cách khắt khe
thì văn chương quả có hại cho sử học.
Nhưng liền đó, bạn trích dẫn 1 ý, mà chẳng thú ư:.... các tác
giả như A. Dumas-père thường 'đẻ ra những đứa con hoang khoẻ mạnh hơn
cả (1) lịch sử"?
Ui chao, liệu có thể coi những tác phẩm văn học mang tính lịch
sử của một NHT, thí dụ, khoẻ mạnh hơn lịch sử Mít, thời vừa qua?
(1)
TCDT dùng chữ "của", Gấu đổi là "cả".
Ý của TCDT, những đứa con khỏe mạnh “của” lịch sử. Của Gấu, khỏe
mạnh hơn “cả” lịch sử.
Chỉ 1 chữ thay đổi, khác hẳn đi.
Chết chỉ vì 1 cái dấu phẩy là vậy.
Một chuyến đi
http://www.tanvien.net/tg/tg10_chuyendi.html
Trong chuyến "hành phương Nam", tới Tiểu Sài-gòn, tôi gặp hai
người bạn văn mà có thể chúng tôi đã từng gặp nhau mà chẳng hay. Trúc
Chi, và Tạ Chí Đại Trường. Ông sử gia này học cùng năm với tôi, cùng
ban B, chỉ khác lớp, tại trường Chu Văn An, khi đó còn ăn nhờ ở đậu bên
cạnh trường Pétrus Ký; miếng đất sau trở thành Trung Tâm Học Liệu. Dân
toán mà mê sử; còn tôi, văn chương. Hay là người ta cứ phải mê toán đã,
rồi muốn mê gì thì mê: con số tuyệt đối, bài thơ tuyệt đối, trang sử tuyệt
đối, là một?
Ôi về già, mà làm sao còn hăng say, và hết lòng với nhau như vậy:
Tôi sẽ chẳng bao giờ quên được, ông vội vàng bỏ ra về, ngay khi vừa
gặp, để lục lọi cho được một cuốn sách cho tôi. Cuốn này là cuối cùng
còn lại trong nhà; không phải để tặng, mà chỉ ký tên trang đầu: cuốn sách
do lỗi kỹ thuật, thiếu một trang.
5.10.2006
Tạ Chí Đại Trường
Hành trình khởi phát của một anh hùng
http://www.talawas.org/talaDB/suche.php?res=8220&rb=0302
Tôi “biết” ông Trần Hưng Ðạo – không biết Trần Quốc Tuấn – lần
đầu là nơi tờ truyện tranh xuất hiện đồng thời với truyện bà Thánh Jeanne
d’Arc (Trinh Nữ thành Orléans – La Pucelle d’Orléans), thời Thống chế Pétain
cổ động cho một tinh thần yêu nước Ðại Nam của Ðại Pháp trong khuôn khổ
Ðại Nhật Nhĩ Man. Tranh vẽ ông anh hùng đứng giữa quân tướng cờ xí đuôi
nheo, mặc đồ hát bội, chỉ tay xuống sông Hát “Thề rằng...”. Lúc đi học,
biết thêm nhiều về ông nhưng vẫn còn tin rằng chuyện chỉ tay xuống sông
Hát là có thật, là “chân lí không thể nào thay đổi”. Vướng víu đó khiến
cho lúc đã hơi già, thấy tượng ông đứng bên bờ sông Sài Gòn lại tin lời
người ta bảo rằng ông chỉ gươm xuống sông là mượn ý của một bà-văn, hối
thúc “Mau mau kéo neo mà chạy! Dong buồm ra khơi!”. Quá khứ chồng chất,
dù bằng huyền thoại, cũng là một thứ chân lí khó tẩy xoá, ông còn đứng đấy
để đời thêm một chuyện tiếu lâm. Nhưng cũng thật may vì là anh hùng cứu
nước, ông không bị ghép tội là tài sản của nguỵ, khỏi bị đập phá sau 4-1975
như người ta đã đập phá những tượng khác, theo cách hiểu bình thường, không
có ý nghĩa chính trị phe phía nào, như trường hợp khối tượng Bông lúa của
Bậc thầy ở Cần Thơ nghe nói được thay bằng hình Lãnh tụ xấu-ỉnh, bỏ thì...
không dám, mà vương thì tội nghiệp cho xứ sở. Như chuyện hàng ngàn cây hoa
sữa mỗi nơi, đang toả “hương thơm” ngào ngạt trên các tỉnh miền Trung!
Lịch sử nào thì cũng có những vặn vẹo của nó, cả như lịch sử nói
về ông danh tướng này. Mà đâu có cần phải tìm chi cho xa. Suốt cả bốn
ngàn năm văn hiến chỉ có một hai bộ sử mỏng, chịu khó lật tìm, chịu khó
đọc cho thanh thản thì thấy ngay.
|
|