|
Tiễn bạn
Nhõng
Nhẽo
Hoàng
Nga
Lúc cuốn
sách đầu tiên của tôi được phát hành (thập niên chín mươi), là lúc báo
chí sách
vở bằng mực in còn được chuộng ghê gớm lắm. Ở hải ngoại, nhiều tờ tạp
chí có uy
tín vẫn còn sống được. Tôi viết cho Làng Văn, Canada. Mỗi tháng một bài
như người
ta viết feuilleton. Tôi viết đều tay, viết nhiều, nhiều đến nỗi bài ứ
đọng ở
toà soạn. Nhưng tôi không hề gửi đi cho báo khác. Bởi tôi nghĩ viết cho
vui, thấy
được đăng ở một tờ, là vui rồi!
Thuở ấy anh
Ngô Nguyên Dũng thấy vậy, mới bảo tôi gửi bài cho Văn Học. Tôi lắc đầu
nguầy
nguậy, đáp tôi sợ. Anh Dũng hỏi sợ gì. Tôi nói sợ… chủ nhiệm, sợ chủ
bút; nói
thêm, cộng tác viên của Văn Học ngời sáng quá, cổ thụ quá, tôi sợ không
ai đọc
mình. Anh Dũng khuyến khích, cứ gửi thử đi.
Tôi ngần ngừ
rất lâu, cuối cùng mới nói thật rằng tôi thấy thư ký tòa soạn của Văn
Học… dễ sợ
quá. Anh Dũng hỏi dễ sợ là sao. Tôi trả lời, cách viết của tôi khác với
ông
hoàn toàn, chắc ông không chịu đăng bài của tôi.
Anh Ngô
Nguyên Dũng hỏi lại:
- Là anh
Nguyễn Xuân Hoàng ấy hả?
Tôi ờ, ông ấy.
Nhưng chuyện
văn chương chữ nghĩa, đôi lúc có thể nói rằng, cái cảm nhận không ở
chữ, không ở
nghĩa, cũng không ở văn chương, mà có lẽ ở cái duyên. Tôi thân với anh
Ngô
Nguyên Dũng, “sợ” thư ký tòa soạn của Văn Học, nhưng cũng “sợ” Ngô công
tử phiền,
nên tôi bấm bụng gửi “đại” một bài cho Văn Học. Mấy tuần sau tôi nhận
được thư
trả lời -không phải của thư ký toà soạn mà của chủ bút. Khen tôi viết
hay. Thế
là tôi vui quá, gửi thêm nhiều bài. Và nhiều người đọc truyện tôi bảo
có duyên.
Anh Nguyễn Mộng Giác thỉnh thoảng gửi thư và nói chuyện qua điện thoại,
“khuyến
khích mầm non văn nghệ”.
Bình thường
tôi nói chuyện với chị Diệu Chi, vợ anh Giác nhiều hơn. Đi làm về đến
nhà tầm cỡ
nửa khuya, lúc anh Nguyễn Mộng Giác đi làm chưa về, từ Đức tôi gọi qua,
tán dóc
đủ thứ chuyện trên đời với chị Chi. Từ chuyện phim ảnh, tài tử xi nê,
ca sĩ đến
chuyện chợ búa, nấu ăn. Lâu lâu, chị Chi nhắc đến văn chương sách vở,
những tác
giả chị thích.
Có lần chị
Chi bảo, “Vy nó cũng thích văn của Hoàng Nga. Mỗi lần có bài mới, chị
với Vy đọc
xong, gọi điện thoại bàn tán về bài viết của Nga. Tụi chị vui lắm.”.
Văn chương của
tôi, có lẽ hợp với các bà. Tôi viết văn mua vui vài trống canh, được
lòng chị Diệu
Chi, phu nhân chủ bút và chị Trương Gia Vy, phu nhân thư ký, tôi thích
lắm. Tuy
vậy tôi hoàn toàn không nghĩ có lúc anh Giác phone cho tôi hỏi, “Hoàng
nó rời
Văn Học ra chống đỡ cho tờ Văn của Mai Thảo, có nói với anh là bài của
Hoàng
Nga còn nhiều trong kho, nhờ hỏi giùm Nga có cho Văn một bài được
không?”.
Tôi bật cười.
Cười một cách sảng khoái. Anh Giác hỏi tôi cười gì. Tôi nói dạ không có
gì.
Nhưng thật ra tôi vừa cười vừa kêu thầm trong bụng. Thì ra người mà tôi
“sợ”,
người “cản trở” tôi gửi bài cho Văn Học, lại có đọc tôi! Tôi hỏi anh
Giác, sao
anh Hoàng không gọi cho em. Anh Giác đáp, Hoàng nó bảo chưa liên lạc
với Hoàng
Nga bao giờ, không biết Nga “ra sao” nên mới nhờ anh.
Tôi lại phì
cười. Tự đùa. À, thì ra “ông anh” cũng… sợ mình. Thì ra anh đâu có… ghê
gớm như
tôi tưởng. Tôi vui vẻ nói với anh Giác cứ chia “gia tài” ra cho Văn một
nửa,
tôi sẽ gửi thêm cho cả Văn lẫn Văn Học.
Vậy đó là
tôi giao tình với anh chị Nguyễn Xuân Hoàng. Viết lách. Thư đi thư lại
nhiều lần.
Rồi thân thiết dầu tôi ở xa anh chị hơn nửa quả địa cầu. Năm 2003 qua
San José,
tôi mới được gặp anh chị. Lúc đó anh chị đang đi ăn Sinh Nhật của ai
đó, tôi
theo anh Phùng Nguyễn, Lê Thị Thấm Vân…, đến nhà Nguyễn Hữu Liêm ăn
tối. Chập
choạng, lúc chúng tôi đã hơn nửa bữa, thì anh Hoàng và chị Vy ghé lại.
Chị Vy bảo
tôi “anh Hoàng ‘cưng’ Hoàng Nga lắm mới bỏ bữa tiệc Sinh Nhật bạn về
gặp Hoàng
Nga”.
Được “cưng”,
hôm sau tôi còn được anh chị mời đi ăn tối. Tôi cảm động vô cùng. Tôi
kể cho chị
Vy nghe chuyện chị tôi đọc “Bất Cứ Lúc Nào, Bất Cứ Ở Đâu”, bảo nếu được
làm
nhân vật Vy ấy, chỉ một lần trong đời thôi, là chết cũng đủ. Chị Vy
cười thật
tươi. Tôi quay sang anh Hoàng, hỏi anh vẫn còn lãng mạn như thuở ấy
không. Anh
đáp vẫn.
Tôi giã từ
Hoa kỳ, viết lách cho tờ Văn thêm vài năm, rồi cuối cùng, chung số phận
với những
tờ báo “dưới đất” khác, qua đời. Tôi viết cho Việt Mercury do anh làm,
nhưng chỉ
được đôi ba số thì thôi hẳn. Lý do tờ Việt Mercury ở xa, lại là báo
ngày, còn
công việc làm ăn của tôi lúc ấy đầu tắt mặt tối, cộng thêm nỗi tôi
không thích
đọc báo trên net, nên bài viết xong, tôi cứ để lỳ trong máy.
Dần dà về
sau, thêm tật lười, tôi không còn liên lạc với anh em văn nghệ sĩ.
Thỉnh thoảng
nếu có, thì chỉ thư từ với vài người, vài vị lớn tuổi như nhà văn Võ
Phiến, nhà
văn Thảo Trường… Hai ông anh lớn, Nguyễn Mộng Giác và Nguyễn Xuân
Hoàng, thì
năm khi mười họa… Lâu lâu nhận được cái tin nhắn, dạo này Hoàng Nga có
viết gì
không, tôi lật đật trả lời, dạ không.
Bẵng đi thời
gian, khi nhà văn Huỳnh Phan Anh qua Pháp, thình lình tôi được cái
email của
“ông anh” rủ rê họp mặt. “Ông anh” bảo sẽ qua Đức. Tôi vội vã gọi cho
Lê Minh
Hà, Đỗ Quang Nghĩa và Ngô Nguyên Dũng, hẹn hò một ngày đẹp trời tại
Frankfurt,
cái ngã tư đường của Paris, Limburg, Dortmund và Munich. Lê Minh Hà đùa
bảo dẫu
không biết uống, cũng sẽ cùng “nhậu” với “ông anh” vài ly bia. Ai cũng
đòi sẽ
giới thiệu với “ông anh” bia ngon nhất của vùng mình ở.
Phone đi
phone lại, gọi tới gọi lui, nhưng cuối cùng thời gian đi của “ông anh”
ngắn
quá, không thể bay qua Đức được. “Ông anh” thư cho tôi, bảo cho tôi nợ.
Một chầu,
hai chầu… Tôi dạ ngon lành, vì nghĩ gì chứ trả nợ “ông anh” thì có khó
khăn gì.
Năm nào mà tôi lại chả qua Mỹ.
Năm nào mà
tôi lại không có dự định ghé California! Nam, Bắc Cali thì có gì mà
không tới…
Nhưng nghĩ vậy,
hoá ra cái nợ cũ với anh, tôi lại không hề có dịp trả. Kể cả giờ này
định cư hẳn
ở đất nước này rồi, đi xuyên nhiều tiểu bang rồi, nhưng chẳng hiểu sao
tôi vẫn
chưa trở lại vùng đất hoa vàng, nơi anh chị sinh sống lần nữa.
*
Lúc còn ở Đức,
có lần tôi bỗng nhận một cái email của anh. Tưởng anh nhắc gửi bài,
chưa gì tôi
đã nghĩ đến chuyện… nói dối, không ngờ anh bảo, “anh đang xuống tinh
thần lắm
Nga à, chỉ còn muốn tự tử chết thôi em ạ”. Và rồi anh bắt tôi hứa đừng
kể cho
ai nghe, anh than anh buồn và đơn độc.
Đọc xong cái
thư, tôi bàng hoàng. Đọc xong cái thư, tôi như trên đống lửa. Tôi buông
cái
laptop xuống giường, gập người cầu nguyện cho anh. Thật lòng tôi không
biết
mình nên làm gì nữa. Anh bảo hứa, tôi nghĩ bụng tôi sẽ giữ lời hứa,
nhưng tôi đứng
ngồi không yên. Tôi không biết làm sao mà tìm ra được một lời an ủi
anh, cũng
không dám hỏi anh tại sao anh xuống tinh thần. Tôi loay hoay, sợ hãi,
và chỉ
nghĩ đến những điều rất bi quan…
Cuối cùng chịu
không nổi nữa, tôi quyết định gọi cho anh Nguyễn Mộng Giác. Vòng vo tam
quốc hỏi
thăm sức khỏe chị Vy, nghe nói chị vẫn phải đi bác sĩ đều đều, tôi thừ
người.
Tôi nghĩ ngợi lung tung đến những điều khiến anh Hoàng phải nói đến ý
định
quyên sinh. Và điều nào cũng làm tôi lắng lo. Mãi sau cùng tôi mới nhỏ
giọng hỏi
“anh Hoàng khỏe không anh?”. Anh Giác đáp khỏe. Tôi lại vòng vo, “tinh
thần anh
ấy thế nào?”.
Bất thình
lình tôi nghe anh Giác bật cười. Tiếng cười dòn dã rất hiếm hoi của anh
Giác
làm tôi ngẩn người. Tôi im rất lâu. Anh Giác hỏi lại, giọng trêu chọc,
“Nga
nghe nó than buồn, than xuống tinh thần phải không?”. Tôi lại im. Nghĩ
bụng
không lẽ anh Giác là người không nhạy cảm. Và thú thật là tôi đã khá
bất bình
khi nghe anh lại cười “Vy bịnh, nhưng không nhõng nhẽo như Hoàng đâu
Nga ơi”.
Ngày hôm
sau, tôi thu hết can đảm, nhủ thầm không thể để trong lòng được nữa, và
dẫu
“ông anh” có giận cũng đành, tôi phone cho Lê Minh Hà. Rù rì rủ rỉ kể
cho Hà
nghe chuyện đã nhận được thư như thế nào, lo lắng như thế nào.
Nhưng cũng
thật bất ngờ, không như tôi tưởng, không nghe tiếng Hà kêu lên “giời
ơi, sao thế”
như nhiều lần trước đây, mà ngược lại, một tràng cười khanh khách phía
bên kia
đầu giây đã khiến tôi giật bắn người. Và Hà bắt đầu “giời ơi”, kể, “em
cũng một
phen mất vía như chị rồi nhé. Anh ấy cũng bảo như thế với em đấy…”. Tôi
chau
mày ngẩn ngơ. Hà nói, “Nhưng chị đừng có lo, ông anh của mình nhõng
nhẽo lắm
cơ”…
Nhõng nhẽo lắm
cơ! Giọng của Hà trong vắt, dẫu vừa cười vừa nói nhưng nghe rất chắc
nịch. Khẳng
định.
Tôi bậm môi.
Thì ra “ai cũng hiểu chỉ có một người không hiểu”! Thì ra ai cũng biết,
chỉ
mình tôi không biết “ông anh” của mình nhõng nhẽo!
Tôi dỗi, hú
hồn. Hả bảo, vâng, hú hồn!
*
Vài năm sau
tôi trở về lại miền nam bán cầu, càng ngày càng lười biếng hơn trong
việc liên
lạc, thư từ và cả điện thoại với bạn bè. Nhiều người còn tưởng tôi đã…
mất
tích. Thỉnh thoảng, tôi lên internet, đọc vài bài viết của bè bạn văn
chương cũ
để xem bạn đang làm gì mà thôi. Và lâu lâu, năm khi mười họa, tôi nhảy
vào blog
của anh mươi phút, nửa tiếng. Lần nào thấy tóc anh bạc trắng, cũng định
bụng sẽ
gọi trêu anh, nhưng rồi cuối cùng lại thôi.
Năm trước, đọc
bài anh viết tiễn đưa anh Nguyễn Mộng Giác, lòng tôi rười rượi buồn.
Tôi nhớ lại
thời kỳ văn nghệ hải ngoại nở hoa, nhớ mình được các ông anh thân ái
cho làm một
đóa be bé trong khu vườn chữ nghĩa, được các anh thương mến thật sự như
một cô
em nhỏ, được thấy cái giao tình chỉ có trong văn nghệ, tôi tự trách
mình, nhạt
nhẽo, kỳ cục…
Và tôi nhủ
lòng, sẽ dành thì giờ cho người thân nhiều hơn…
Nhưng phải
nói là tôi kỳ quặc. Lạnh lẽo. Ghét không khí tiễn đưa. Không thích tiếp
khách.
Không ưa thăm hỏi. Đi đâu, xa cách mấy, tôi cũng thường tự đi một mình.
Bạn bè
ngoài đời lẫn bạn bè văn chương đau ốm, tôi không đi thăm thì chớ, cũng
không cả
gọi điện thoại.
Chắc ít ai
biết tôi sợ nghe tin không vui. Có lẽ ít ai biết tôi sợ mình hụt hơi!
Tôi hoàn
toàn chẳng bao giờ muốn nghĩ “ông anh” của tôi đã ốm nặng. Chẳng bao
giờ muốn
nhìn thấy tóc anh trở màu.
Tân trong
thâm tâm tôi, tôi vẫn muốn nghĩ anh phông độ, vẫn muốn thấy dáng dấp
chở che
người vợ yêu dấu của anh không hề thay đổi, và vẫn chỉ muốn thấy anh
thật khỏe
mạnh như ngày gặp gỡ vợ chồng anh.
Hơn nữa, tôi
vẫn muốn trả nợ anh chầu cà phê. Chầu bia.
*
Hôm thứ bảy
anh Hoàng Lộc nhắn tôi, bảo rằng anh đã đi xa. “Người đi trên mây” đã
đi xa.
Tôi sững người. Tôi không tin mắt mình vừa đọc thấy tin anh đã đi xa.
Anh mà đi xa
sao?
Không. Tôi
nói với tôi. Anh làm sao mà đi xa được.
Anh làm sao
mà đi xa…
Tôi bàng
hoàng. Anh thể nào mà đi xa.
Anh thật chỉ
nhõng nhẽo. Chỉ nhõng nhẽo vậy thôi.
Bởi vì tôi vẫn
muốn gặp lại cả hai anh chị và vẫn còn nợ anh cơ mà.
Có phải như
vậy không, anh Hoàng?
HOÀNG NGA
Nguyễn Xuân
Hoàng, lần cuối
Trúc
Chi
Tôi nắm lấy
bàn tay Hoàng. Tôi không nắm chặt lắm sợ niềm vui gặp lại bạn có thể
khiến bàn
tay của Hoàng bị đau vì Hoàng yếu. Mà rồi tôi đã được một chút ngạc
nhiên vui.
Hoàng xiết chặt tay tôi với cái sức của một người mạnh khỏe. Chúng tôi
cầm tay
nhau khá lâu. Im lặng nhìn nhau cũng khá lâu.
So với lần
trước đó mà chúng tôi gặp nhau, khoảng cuối năm 2012 khi Hoàng từ San
Jose về
Westminster để dự buổi họp mặt các bạn viết lách, nhân dịp giới thiệu
tập tưởng
niệm một người bạn văn đã ra đi trước đó không lâu, Nguyễn Mộng Giác,
so với lần
ấy, Hoàng có ốm đi nhiều, tóc bạc cũng nhiều hơn. Ngày xanh như ngựa,
đầu xanh
bạc… Thời gian đã đành mà lại còn thêm bệnh hoạn nữa!
Vậy nhưng mà
thần sắc không suy, dù mệt vì ảnh hưởng của thuốc giảm đau. Ánh mắt
hiền lành vẫn
sáng trong căn phòng hơi tối vì màn cửa sổ đã được kéo xuống một nửa
giữa một
ngày trời nắng chang chang không một vẩn mây.
Trước đó chừng
nửa tiếng, Vy – vợ Hoàng – nói với vợ tôi qua điện thoại: “Anh chị tới
lẹ lên,
anh Hoàng em đang tỉnh.” Là vì bệnh bấy giờ đã đến mức trầm trọng thuốc
giảm
đau thuộc loại mạnh cứ cách hai tiếng lại phải cho một liều, nên người
bệnh cứ
chập chờn nửa thức nửa ngủ.
Tôi định hỏi
một câu thừa: “Trong người thấy ra sao?” Nhưng chưa kịp thì Hoàng đã mở
to đôi
mắt, giọng bình thản:
- Chấp nhận.
Vậy là bạn
tôi còn tỉnh lắm và còn tinh lắm. Chưa kịp hỏi mà Hoàng đã đoán được.
Hoàng và
tôi đã từng bù khú với nhau về nhiều sự việc, vấn đề nhưng tôi nhớ chưa
bao giờ
chúng tôi đả động đến tôn giáo hoặc chuyện tâm linh. Thôi thì… sống gửi
thác về,
bốn tiếng này xưa nay vẫn bàng bạc trong tâm tư người Việt, vốn không
thích lý
luận dông dài về chuyện siêu hình, sống chết. Cái nhìn của Hoàng, giọng
nói của
Hoàng cho tôi biết Hoàng bình tĩnh lên đường đi đến nơi Hoàng chọn lựa.
Vậy là
quí rồi. Quí cho Hoàng đã đành. Quí cho gia đình Hoàng, cho bạn bè của
Hoàng nữa.
Sực nhớ một
câu nói của Hoàng hôm gặp nhau ở Westminster:
- Tôi cho hết
28 thùng sách rồi.
Tôi nghĩ thầm
rằng một người duyên nợ trùng trùng với sách vở, sống với và sống vì
nghiệp viết
lách, nay phải lìa cái đám tình nhân ấy, dễ gì! Quả có can đảm thiệt.
Khoảng một
tháng sau đó, được tin Hoàng lâm trọng bệnh. Bên giường bệnh của bạn,
sực nhớ
câu nói của bạn, tôi tự hỏi: “Phải chăng linh tính xui anh xả hết trước
khi lên
đường?”
Tôi giỡn:
- Đã… tống
khứ hết sách chưa?
Hoàng mỉm cười:
- Chưa. Còn
quyển này.
Hoàng kéo ra
từ dưới gối một quyển sách nhỏ, chìa cho tôi. Đó là tập thơ Paroles của
Jacques
Prevert. Thế hệ trẻ bên Pháp sau thế chiến II kể như ai cũng biết bài
Barbara
trong tập này. Chính Jacques Prevert là người viết lời ca của bản Les
Feuilles
Mortes ( Xác Lá ) lừng danh khắp thế giới. Và tôi cũng không ngạc nhiên
khi thấy
Hoàng vẫn giữ tập Les Paroles làm sách gối đầu vào những ngày mà Hoàng
biết là
những ngày cuối đời mình. Hoàng am hiểu và thấm nhuần văn hóa Pháp.
Chắc chắn
những vần thơ đầy tình cảm, nhân bản một cách thiết tha này đã đến với
Hoàng
(hay là Hoàng đến với nó ) từ thời trung học ở Petrus Ký. Lấy dăm vần
thơ mình
hằng yêu thích làm chút hành trang trên đường qua… chốn ấy. Kể cũng đẹp
thật.
Chợt thấy mấy
quyển Bụi Và Rác mới tái bản để trên chiếc bàn con kê cạnh giường, tôi
cầm lấy
một quyển, mở trang đầu:
- Ký vào đây!
Hoàng nhanh
nhẹn cầm lấy quyển sách. Vy lấy cây bút “bic” đâu đó trao cho Hoàng,
mặt tươi hẳn
khi thấy chồng cũng tươi. Tôi biết. Không một người cầm bút chuyên
nghiệp nào
không phấn khởi khi sắp sửa viết. Ngay cả lúc cầm bút với một tâm trạng
chán nản.
Sau đó, Hoàng còn ký tặng tôi một bản Đặc San Petrus Ký 2014, ấn bản
đặc biệt về
Hoàng. Lần đầu tiên trong đời tôi được một bạn văn ký tặng sách ngay
bên bờ hai
cõi, trên sân ga của chuyến tàu cuối trong một kiếp sống sửa soạn lìa
chốn… bụi
hồng này. Mắt tôi hơi cay. Tôi nhìn Hoàng, nhìn Vy. Chợt Hoàng lim dim
đôi măt.
Vy nhẹ kéo tay tôi, nói nhỏ: “Ảnh ngủ lại rồi.”
Tôi nghĩ thầm:
“Thôi thì để cho Hoàng ngủ.”
Trúc Chi
9/14
Tiếc Thương
Nguyễn Xuân Hoàng
CÁNH CỬA ÊM Ả
nguyễn thị
hoàng bắc
1. Mấy tháng
trước, khi cơn bệnh sarcoma của anh Nguyễn Xuân Hoàng trở nặng, bạn bè
kêu nhau
– cũng như trước kia với anh Nguyễn Mộng Giác – Phùng Nguyễn, Trịnh Y
Thư bảo,
viết cái gì đi, viết vài kỷ niệm ba lăng nhăng cũng được, cho ổng đọc
ổng vui
khi ổng còn sống còn đọc được. Họ dùng chữ ba lăng nhăng vì có lẽ biết
tôi hay
viết ba lăng nhăng chăng… Toàn là các bạn thân kêu gọi, vậy mà lần nào
tôi cũng
không làm được. Không thể viết được gì khi thấy các anh đang vật vã,
nói chuyện
vui vui thì lòng mình buồn rười rượi, nói ba lăng nhăng thì thấy vô
duyên, và
thế là lờ đi, là im luôn.
2. Anh
Hoàng, anh Giác là đàn anh “đủ chuyện” của tôi. Đàn anh vì học chung
một trường
trung học (Võ Tánh), một trường đại học (Sư Phạm), cùng lớn lên trong
một thành
phố (Nhatrang), tuy chỉ có anh Nguyễn Xuân Hoàng là dân bản xứ, anh
Nguyễn Mộng
Giác gốc Qui Nhơn vào Nhatrang trọ học, và tôi là dân tứ xứ, ba mẹ từ
Quảng
Bình vào Saigon làm công chức rồi các chị em chúng tôi đều sinh ra ở
Saigon, rồi
trôi dạt về Nhatrang, và đi học, và lớn lên ở đó, và tất nhiên, tuổi
thanh xuân
của tôi có anh Giác, anh Hoàng. Lớp hậu sinh lúc đó nể anh Giác vì anh
nổi tiếng
học giỏi, nhưng nể anh Hoàng vì anh đẹp trai và sát gái từ hồi anh học
trung học.
Tôi nghe qua nghe lại các cô gái đẹp Nhatrang đều xì xào thì thầm kể
chuyện về
anh Hoàng. Chứ không chỉ sau này khi anh vào Saigon dạy học, viết văn
rồi mới nổi
tiếng Don Juan một thời. Anh cao lớn trắng trẻo như tây, có lần tôi
hỏi, anh
nói hình như ông ngoại anh đi Pháp và cưới một bà vợ đầm thì phải… Mùa
hè, dân
Nhatrang tràn ra tắm biển, tôi vẫn e dè từ xa nhìn anh cỡi trần, có vài
hôm lại
choàng cái khăn lông màu mè hiên ngang đi rễu dọc bờ biển, cho tim các
hoa khôi
Nhatrang tha hổ đập thình thịch…
Anh kể: “Có
lần ở biển Nhatrang, anh hẹn với BM rồi nhớ nhớ quên quên thế nào lại
hẹn với
O., O. là một cô đầm lai, học trường tây, và tất nhiên như BM là vào
hàng hoa
khôi, hoa hậu. Tất nhiên là hai nàng đụng độ vân vân… Nhưng chuyện tình
tai tiếng
nhất của anh lúc đó là với một cô hoa khôi họ hàng với tôi, tôi gọi
bằng dì,
lâu lâu sau này đi Cali gặp anh tôi cũng réo đùa anh là “dượng Hoàng,
dượng
Hoàng chở tụi cháu đi ăn phở đi!” Anh gạt phắt “Ăn thì ăn, tui không
muốn làm
dượng ghẻ của ai đâu!” Tôi nói chuyện tình tai tiếng vì thuở ấy, dì tôi
học lớp
7, anh lớp 10, dì tôi gặp anh và về bỏ bồ để theo anh. Bồ của dì cũng
học đệ
tam nhưng thề um sùm lên cho cả thành phố biết là “mai này đi lính lấy
súng về
bắn nát óc thằng Hoàng.”
Tôi vẫn tiếp
tục giúp anh đưa thư tình cho dì, và có lần thắc mắc quá, chịu không
nỗi, tôi
bôi nước miếng lên bức thư dán kín của anh để lén mở coi thư tình là
cái quái
gì mà coi bộ thiên hạ say sưa ngây ngất thế. Thất vọng và tuyệt vọng.
Chỉ là một
tấm thời khoá biểu, anh kẻ ra các ô rất rành mạch, chỉ ra giờ nào anh
bận đi học,
học bài làm bài ở nhà, và giờ nào trống thì dì tôi có thể ghé thăm anh
được.
Sau này nghĩ lại, tôi thấy anh này còn nhỏ mà uy ghê, hẹn với gái mà
sao ngon
lành vậy, cho đến giờ nào thì đến bảo đi giờ nào thì đi. Nghe nói các
mối tình
vũ nữ sau này của anh cũng vậy. Thì ra Don Juan đã xuất hiện từ lúc não
lúc nao
rồi, tài không đợi tuổi.
Nhưng mà anh
rất hiền. Kêu anh là dượng Hoàng, là Don Juan, là ông tây lai Odette,
là Kẻ tà
đạo*, là Bụi và Rác (có lần đột nhiên anh gọi và chắc đang buồn chuyện
gì đó
nên thở ra nói: đời anh giống như cái thùng rác?!)… và sau này bắt
chước Mai Thảo
thì khện thêm hai chữ hết thời sau cái tên hiệu Don Juan của anh, DJ
hết thời
nghe cũng thê thảm lắm, coi bộ anh cũng hơi bất mãn tí xíu, nhưng rồi
cũng cười
hà hà. Anh Nguyễn Mộng Giác cũng hiền, cũng hay cười cười nhưng cái
cười tư lự
làm lũ đàn em không dám chọc ghẹo nhăn nhở như đối với anh Hoàng.
3. Cả hai
anh, tôi đều có kỷ niệm đi chấm thi chung một trung tâm lúc đó ở
Saigon. Anh
Nguyễn Mộng Giác và tôi đều cùng làm giám khảo chấm Việt Văn các kỳ thi
Tú tài
(tốt nghiệp cấp 3) thời đó, nhiều lần anh Giác là trưởng ban Văn của
chúng tôi,
anh lập barême thang điểm, đề nghị dàn bài đáp án của đề thi, thường
được nhiều
đồng nghiệp nể nang. Và làm việc với anh là làm đâu ra đấy, không trốn
đi chơi,
không tán chuyện rôm rả trong khi làm việc, dù lúc đó, đi chấm thi là
một dịp gặp
lại bạn cũ cùng trường, cùng lớp, và các quý giáo sư còn trẻ còn độc
thân thì tụ
họp bù khú là chuyện bình thường. Chấm thì chấm nhưng vẫn liếc đồng hồ
để đi ra
tụ tập bạn bè ăn nhậu, bọn con gái thì thích ăn, đám con trai thì thích
nhậu,
nhưng cũng thích đi chung cả đám tán chuyện mới vui. Anh Giác thì
nghiêm nghị,
anh không nhập bọn với bọn tào lao chúng tôi, nhưng giám khảo Hoàng thì
còn
siêu hơn chúng tôi mấy bậc. Có một lần chấm thi ở trung tâm Trưng Vương
Saigon,
anh Hoàng chấm luận văn Triết ở phòng bên cạnh ban Văn, tôi có cô em
chấm ở đó,
giờ giải lao hẹn chạy qua đó kêu nó đi uống nước, và nhân tiện kéo anh
Hoàng
đi.
Cô em tôi lắc
đầu: “Ổng này tà đạo* lắm, đâu có chấm cháp gì đâu, ổng vô quơ quơ vài
ba bài
gì đó, nộp cho trưởng ban rồi ra lấy xe đi mất tiêu. À, nhưng mà hôm
nào ổng ở
lâu hơn một chút thì ổng không quên mua ô mai vô phát không cho tụi con
gái (mấy
cô giáo).” Suốt cả hơn tuần lễ chấm thi, tôi can-me hoài mà không hề
gặp được
chàng. (Về cái chữ chàng nàng này, Nguyễn Xuân Hoàng sử dụng nhiều lắm
trong
các truyện của anh, về sau chắc chán, có lần khi tôi hỏi anh có bùa chú
văn
chương gì trao cho đàn em không, anh ngẫm nghĩ rồi nói, nè thử cố viết
đừng có
một chữ chàng nàng nào được không?).
Sau này ở Mỹ,
có lần tôi dự một buổi Ra Mắt Sách giới thiệu một quyển sách mới in của
anh,
theo lệ thường những buổi như vậy, tác giả trước sau cũng phải xuất
hiện và
“nói vài lời” với khán thính giả đang chờ đợi. Cả buổi, tôi thấy anh cứ
ngồi ì ở
dưới hàng ghế gần cuối, nét mặt tươi cười chứ không phải kênh kiệu điệu
bộ gì,
chăm chú vừa phải theo dõi, nhưng… cứ như Nguyễn Xuân Hoàng mà các diễn
giả
đang nhắc nhở trên sân khấu không phải là anh, là một ai đó khác,
l’etranger của
Albert Camus, hay một kẻ vô tích sự*, hay chính là người đi trên mây*
của Nguyễn
Xuân Hoàng?
4.. Nhà văn
Nguyễn Thị Hoàng cũng là một nhân vật tai tiếng/nổi tiếng của Nhatrang.
Mối
tình thiếu nữ của chị với một ông thầy dạy văn chương Pháp của chị và
chúng
tôi, lúc chỉ là học sinh lớp 10, chị đã nổi tiếng làm thơ hay, bọn nữ
sinh
chúng tôi chuyền tay nhau chép, và hít hà ngâm ngợi bài “Chi lạ rứa
chiều nay
tôi muốn khóc” của chị: ” Chi lạ rứa người làm tôi ái ngại, Ngó chi tôi
loài cỏ
dại hoa hèn, Nhìn chi tôi hình bươm bướm trong đêm, Cho thêm tủi bên ni
bờ cô tịch…”
Sau khi scandale chị với thầy nổ ra, tình cờ tôi đọc ở tạp chí Bông Lúa
một bài
thơ trả lời hay châm chích gì đó chị Nguyễn Thị Hoàng bằng cách nhại
giọng Huế
của chị, và cũng của thầy CGN: “Có chi mô mà phải hỏi chi lạ rứa, Và
mần chi lạ
rứa có chi mô, Lòng ai kia có phải nước sông hồ, Tôi muốn hỏi vì răng
bên nớ
khóc…” Không biết sao, lúc tôi học Saigon, bạn bè kháo nhau, tác giả
bài thơ là
Nguyễn Xuân Hoàng đó. Thưở đó, anh Dương Nghiễm Mậu cũng có thời học ở
Nhatrang
và là học trò cưng của thầy Thạch Trung Giả, anh Mậu cũng viết một
truyện phang
scandale này dữ dội… Tôi có hỏi anh Hoàng lúc gặp lại ở Mỹ, anh cười
không xác
nhận mà cũng không chối mình là tác giả. Hình như bài đó anh không ký
là Hoang
Vu, bút hiệu của Nguyễn Xuân Hoàng khi làm thơ.
5. Có một kỷ
niệm nho nhỏ với anh Nguyễn Xuân Hoàng. Lúc tôi vượt biển tới đảo
Hongkong
1985, ăn ở không thì mới tập tễnh viết truyện đăng ở các báo Văn Học
(Mỹ) và
Làng Văn (Canada). Anh Hoàng lúc đó đang ở Virginia làm báo Hoa Thịnh
Đốn Việt
Báo của Giang Hữu Tuyên, tôi ký tên thật thì anh Giác biết ngay, bạn
học tôi là
Võ Kỳ Điền ở Canada, Quán Như ở Úc đều biết ngay, nhưng đối với anh
Hoàng tôi
là tiểu tốt, lại không phải là hoa khôi hoa hậu gì nên anh chẳng thể
nhớ tên. Mặc
dù đã mấy lần đưa thư tình hộ cho anh, phải nói rõ hơn là chuyền chứ
không nhận
trực tiếp từ anh, một nhỏ bạn tên NT ở gần nhà anh nhận thư trao cho
tôi và tôi
đưa lại cho bà dì… Chưa kể tôi có hai chị em bạn học Tưởng và Nghĩ là
em họ của
anh, có mấy lần tôi đạp xe gần chục cây số tới nhà ở quê Thanh Minh của
nó
chơi, sau lưng vườn nhà nó là căn nhà ngói đỏ * nhà ở quê của ba má anh
Hoàng.
Tụi tôi chỉ chỏ: ồ ồ nhà ổng có cây mít to ghê, để tao về mét lại với
bà dì
tao… Sau này gặp Giang Hữu Tuyên ở Virginia, lúc đó anh Hoàng và gia
đình đã dọn
đi California, tôi tìm gặp Tuyên và cám ơn Tuyên vì chuyện khi tôi ở
đảo, Tuyên
lấy một truyện của tôi đăng ở Làng Văn đăng lại ở HTĐ Việt Báo (truyện
Mùa Đông
Qua Mau) và gởi về địa chỉ trại tị nạn ở Philippines, lúc đó tôi đã
chuyển trại
sang Philippines để chờ đi định cư ở Mỹ, Tuyên gởi thư kèm nhuận bút 50
đô la đến
tôi. Đó là số tiền nhuận bút đầu tiên (và lớn quá lúc đó!) của tôi ở
nước
ngoài. Và Tuyên kể, anh Nguyễn Xuân Hoàng nói, cô NTHB này sẽ còn đi xa
lắm đấy!
Và cũng có nghĩa là tên tôi hoàn toàn xa lạ với anh. Sau này có dịp tôi
nhắc,
anh nhanh nhẹn, nhẹ nhàng cà rỡn một chút, “À, anh nói vậy vì tên ai mà
có chữ
Hoàng là phải viết văn hay thôi.”
Tôi thì
nghĩ, ăn nói như thế thì nổi tiếng sát gái là phải. Cho nên anh có hai
dòng
con. Chị Trương Gia Vy sau này khi chị hai tôi làm sui với em gái anh
Hoàng thì
tôi mới được dịp gặp. Chị trước tôi có gặp một lần ở Saigon vì chị cũng
là dân
Đại Học Sư Phạm, cũng là cô giáo cấp 3. Mấy năm trước đây, chị đã mất ở
Paris.
6. Nhưng bây
giờ thì hầu như mọi chuyện đã hết rồi, tất cả đã đi đâu hết rồi. Kể từ
Mai Thảo,
Nguyên Sa, Võ Đình, Thanh Tâm Tuyền, Cao Xuân Huy, Nguyễn Mộng Giác,
Thảo Trường,
Nguyễn Xuân Hoàng… các anh chị ôm giữ và đem theo và nối tiếp một trời
tuổi trẻ
Saigon thưở ấy cho chúng tôi, và bây giờ tôi ngớ lên, và không biết các
anh lần
lượt đã xoá nhoà biến đi đâu tất cả. Cả các bạn làm báo Lê Đình Điểu,
Đỗ Ngọc Yến,
Giang Hữu Tuyên, Lê Thiệp, Ngô Vương Toại, Vũ Ánh, và Quỳnh Giao cũng
đi tuốt
luôn.
Không gian bỗng
nhiên vắng lặng mà không êm ả một cách lạ thường. Chắc nơi các anh chị
ở mới là
nơi êm ả. Và anh Nguyễn Xuân Hoàng đang mở cánh cửa êm ả đó để đi vào,
phải
không anh Hoàng?
_______
***Kẻ Tà Đạo,
Bụi và Rác, Tự truyện của một Người Vô Tích Sự, Căn Nhà Ngói Đỏ, Người
Đi Trên
Mây là tên các tác phẩm của Nguyễn Xuân Hoàng
Virginia,
9/2014
Khi tôi sống
gần biển
Khi tôi sống
gần biển
Một, hoặc đôi
lần
Khi không
mong đợi,
Khi nghĩ đến
những chuyện gì đâu đâu
Tôi ngước mắt
nhìn lên
Và trong ánh
mặt trời
Qua những tàng
lá cây giống như những bộ tóc màu xanh
Tôi nhìn thấy biển
Nhưng không
phải nước, mà là
Một cái gì
khác cùng với nhau
Mà tôi không
thể gọi tên
Bài thơ này,
để "tặng theo" bạn và cái hang động tuổi thơ của bạn thì thật là tuyệt.
Truyện ngắn đầu
tiên của Gấu, Những Con Dã Tràng, là từ biển Nha
Trang. Khi đó, chưa đọc Camus, mà quái
làm sao, đầy mùi Camus ở trong đó.
Quái đản thật.
Không chỉ Camus mà còn luôn cả
Meursault của ông: Nhân vật chính trong truyện húng hắng ho vào buổi
chiều!
Bài thơ trên,
tác giả là Malena Morling, một nữ thi sĩ trẻ, sinh tại Stockholm và
sống tại New
York, được Robert Hass giới thiệu trong cuốn Now & Then,
gồm những bài viết giống như Thơ Mỗi
Ngày của Gấu,
trên TV.
Robert Hass viết, do sinh ở 1 nơi, sống ở 1 nơi, nên có
1 cái gì đó trong thơ của nữ thi sĩ trẻ này, một cái gì đó thuộc về
bi-zi-nét của thế kỷ 20, là vượt biên cương,
vượt lãnh thổ, văn hóa.
Ông viết, nhà thơ bị tóm bắt bởi cơn đói viễn ảnh, a visionary hunger.
Bài thơ
trong tập Đại Lộ Biển, Ocean Avenue, đã
được giải thưởng New Issues Poetry Prize, của New Issues Press of
Western University
May 23 / 1999
When I Was
Living Near the Ocean
When I was
living near the ocean,
once or
twice, suddenly
when I did
not expect it,
when I was
thinking about other things,
I looked up
and in the
sunlight
through the
green wigs of the trees
I saw the
ocean.
But it was
not the water,
it was
something altogether different
that I could
not name.
Ocean Avenue
received the New Issues Poetry Prize from New Issues Press of Western
Michigan University.
Graveside
Oration
Our late friend hated blue
skies,
Bible-quoting preachers,
Politicians kissing babies,
Women who are all sweetness.
He liked drunks in church,
Nudists playing volleyball,
Stray dogs making friends
Birds singing of fair weather as they crap.
Điếu văn bên mồ
Ông bạn mới mất của chúng
ta ghét trời xanh
Mấy ông
Thầy Chùa trích dẫn Kinh Phật
Những
chính trị gia hôn con nít
[Và, tất
nhiên, ghét con nít hát, đêm qua em mơ gặp Bác H. !]
Ghét đờn
bà ngọt ngào như mía lùi
Bạn tôi thích nhậu ở nơi
Cửa Phật, như Lỗ Trí Thâm
Thích mấy
em trần truồng chơi bóng chuyền
Chó hoang
kết bạn
Chim xoa
đầu thời tiết, khi chúng đang ị.
Dead Season
This
landscape with its somber skies
Must have fallen in love
With a story by Edgar Allan Poe.
One of its birch trees could be his Eleonora,
And the other, further on, Ligeia.
Life is a
dream within a dream,
Whisper the fallen leaves under our feet.
The old house, softly lit from within
By its copper pots and mirrors,
Seems even more abandoned this evening.
What if I
were to knock on its door?
Keeping in mind, as I push it open
And enter cautiously, that for Poe
Beauty could be the cause of sudden death.
Charles
Simic
The Paris
Review, Spring 2010
Mùa Chết
Khung cảnh
này với bầu trời xám xịt của nó,
hẳn là đang khật khừ vì tương tư,
một câu chuyện
của Edgar Allan Poe.
Một trong những cây bu lô hẳn là Eleonora của
ông ta
Và cái cây kia, có thể là Ligeia.
Đời là mơ
trong mơ,
Những lá khô
dưới chân chúng ta thì thào.
Căn nhà cổ, sáng nhè nhẹ từ bên trong nó,
Qua mấy cây đèn đồng, và những tấm gương,
Có vẻ hoang phế hơn nhiều,
Vào một buổi chiều tối như thế này.
Chuyện gì xẩy
ra nếu tôi gõ cửa?
Và luôn nhớ
rõ điều này,
Khi rón rén
bước vô căn nhà,
Với Poe,
Cái Đẹp có
thể là nguyên nhân của cái chết bất thần.
I. REMINISCENCES
The creative writer perceives his world once and for all in childhood
and adolescence, and his whole career is an effort to illustrate his
private world in terms of the great public world we all share.
-"The Young Dickens," Collected Essays
Tác phẩm
quan trọng. Nhưng con người của tác giả quan trọng hơn.
Nhà
thơ NDT
Lạ. Thường
thì người ta quan niệm con người chẳng là gì trước tác phẩm của nó.
Roland
Barthes chẳng đã từng đề nghị làm thịt tác giả, chỉ giữ lại tác phẩm.
Đọc bài viết
cũng thật lạ. Nhà thơ rất chán, cái gọi là cái chết.
Khác hẳn Gấu,
và 1 số người như Gấu, trong có bạn quí NXH. NXH thường hay than về
chết, về
chán, về tự tử. Chính vì thế mà anh thật mê câu của Camus, suy nghĩ đời
đáng sống
hay không đáng sống là trả lời câu hỏi cực kỳ cơ bản của triết học.
TTT,
trong Bếp
Lửa, qua nhân vật Tâm, cũng nói đến cái chết giữa lũ Mít trên
đường phố
Hà Nội,
vì đảng phái thanh toán nhau. Không phải vì bị Tẩy làm thịt.
Kỷ niệm đầu
đời của Greene là hình ảnh của cái chết. Gấu cũng thế. Chính cái
chết làm
chúng ta nhận ra đời sống.
Cuốn trên, mới
mang về nhà. Đọc loáng thoáng, thấy cũng
thật thú. Greene đúng là 1 tác giả Gấu cực mê, khi về già, tuy là 1
trong những
tác giả, đọc ngay khi bắt đầu tập đọc những tác giả nước ngoài, chỉ để
học tiếng
Tẩy.
Kỷ niệm đầu đời nhớ hoài, của Greene là hình ảnh 1 con chó chết.
Của Gấu,
thì là hình ảnh ông bố của mình, bị 1 đấng học trò buộc đá bỏ xuống
sông
Hồng, không xa nơi ông làm hiệu trưởng trường tiểu học Việt Trì.
Khi về lại
Đất Bắc, Gấu đã thực hiện được giấc mơ của mình, tới đúng chỗ ông bố bị
làm thịt,
thắp 1 nén hương cho ông, rồi đi.
Thảo Trường nhận ra liền, phán, thế là đủ rồi,
OK rồi, khỏi về nữa.
Note: Câu của
Greene, được trích dẫn trên, mở ra cuốn Portable, có thể áp dụng cho
Căn Nhà
Ngói Đỏ của NXH. Cái viết của NXH, thật nhất, là ở trong Căn Nhà Ngói
Đỏ, như ý câu của Greene: Nhà văn sáng tạo cảm nhận ra thế giới của
mình, một lần, cho tất cả, ở trong thời ấu thơ, và thuở ngây ngô ngốc
nghếch
của mình. "Hang Động Tuổi Thơ", Nha Trang, của NXH, có gì tương tự
với Tipasa của
Camus. NXH cũng đã từng có 1 bài viết Trở Về Nha Trang, như Trở Về
Tipasa của
Camus.
Trong những tác phẩm
của NXH, khi Gấu ra hải ngoại quá trễ - hết Mùa Biển Động rồi, về lại
với VC đi,
như 1 trong 5 nhà văn nữ hàng đầu trước 1975 khuyên - Gấu chỉ có cuốn
đó.
Và
cũng chỉ đọc có cuốn đó, khi anh còn mỗi cuốn đó, gửi cho.
Gấu tính viết
về cuốn Căn Nhà Ngói Đỏ, nhưng tìm hoài không thấy. Và trong khi lục
lọi cái đống
sách vở đang chờ để bị thiêu hủy, sau khi Gấu đi, như Gấu Cái thường
hăm he, mi
mà chết rồi, thì vứt thùng rác hết, đâu có ai đọc, vớ cuốn của Susan
Sontag, Where
the Stress Falls, trong có bài của bà về Joseph Brodsky. Bà viết thêm
ra cái ý
của Gấu, và của nhà thơ NDT:
The work,
the example, the standards – and our grief – remain. Tác phẩm, thí dụ,
những tiêu
chuẩn – và nỗi đau của chúng – còn lại.
Thiếu nỗi đau,
là đếch có được.
Bài cũng ngắn
thôi, thư thả, TV sẽ dịch hầu quí vị độc giả TV.
Thú câu này:
Nhà là tiếng
Mít. Đếch phải nước Mít.
Home was
Russian. No longer Russia.
Nước Mít đếch còn nữa [tất nhiên là với GCC hay NXH]
Tuyệt!
Và thế là ông
sống hầu hết đời của mình ở đâu đó: ở đây, Mẽo.
Cực tuyệt!
And so he
lived most of his adult life elsewhere: here.
Nguyễn-Xuân
Hoàng: văn và người
Bùi Văn Phú
Tôi cũng là
thày giáo, thuộc thế hệ đàn em và trưởng thành ở nước ngoài nhưng vẫn
nhớ thời
học sinh nên thường cùng anh chia sẻ vui buồn phấn trắng, bảng đen, về
học trò
tinh nghịch. Nói chuyện toán, lý hóa, vạn vật anh cũng đầy kiến thức,
nhưng đam
mê là với Nietzche, với Sagan, với Satre.
Note: Tên của
N và của S, viết trật.
Gấu đi 1 cái còm dưới bài viết nhưng trục
trặc hoài, nên đành phải post ở đây.
Cả hai đều
là thầy cả, và NXH còn là thầy dậy triết, nhà văn… viết trật tên như
thế, kỳ quá.
Thứ nữa, đam
mê của NXH, là với Camus, đúng hơn. Nietzsche, có, do cái mùi hư vô ở
trong những
nhân vật của anh.
Sagan, chắc
không. Nhí quá
By Clive
James
Your death,
near now, is of an easy sort.
So slow a
fading out brings no real pain.
Breath
growing short
Is just
uncomfortable. You feel the drain
Of energy,
but thought and sight remain:
Enhanced, in
fact. When did you ever see
So much
sweet beauty as when fine rain falls
On that
small tree
And
saturates your brick back garden walls,
So many
Amber Rooms and mirror halls?
Ever more
lavish as the dusk descends
This
glistening illuminates the air.
It never
ends.
Whenever the
rain comes it will be there,
Beyond my
time, but now I take my share.
My
daughter’s choice, the maple tree is new.
Come autumn
and its leaves will turn to flame.
What I must
do
Is live to
see that. That will end the game
For me,
though life continues all the same:
Filling the
double doors to bathe my eyes,
A final
flood of colors will live on
As my mind
dies,
Burned by my
vision of a world that shone
So brightly
at the last, and then was gone.
Phong Nhựt Bổn
Cái chết của
bạn, liền bi giờ, thì cũng là chuyện dễ dàng
Một cái chết
từ từ, theo kiểu nhạc TCS, nhạt nhoà trong mưa, thường không làm đau
Hơi thở ngắn
đi, đúng là không được thoải mái cho lắm
Bạn cảm thấy
não khô kiệt, hết xí oát, nhưng ý nghĩ và cái nhìn, còn:
Thực sự mà nói,
như được cú hích - nhập cuộc, dấn thân, chúng ta đã xuống thuyền, nói
theo kiểu
hiện sinh-
Bạn có khi nào nhìn thấy cái đẹp ngọt ngào, dịu dàng, nhiều đến như
thế này, bao giờ chưa,
Khi mưa nhẹ, mịn, [cái “gì gì”, "đậu bằng quá giá vũ như
ti","have you ever seen the rain"]
Mưa, mưa trên cây nhỏ
Và làm đầy
những bức tường gạch khu vườn đằng sau
Ui, biết bao
nhiêu là Amber Rooms và “cao đường minh kính”?
Điêu tàn/hoang
tàn/đổ nát… là biết bao, khi bóng đêm thả
xuống
Cái lung
linh của cái gì đang trở thành hoang tàn, đổ nát,
Làm sáng ngời không khí, bầu
trời
Chẳng bao giờ
tận.
Bất cứ khi nào mưa rơi, là cái đẹp như thế, bèn trở về, bèn xuất hiện,
bèn có đó
Vượt quá cả thời gian của tôi, nhưng vào lúc này, tôi có phần chia của
mình
Con gái tôi
chọn, cây phong, mới
Thu tới, và
lá của nó trở thành ngọn lửa
Điều tôi phải
làm là,
Sống và chiêm
ngưỡng nó
Cuộc chơi kể
như chấm dứt với tôi, như thế đó,
Mặc dù cuộc đời
vưỡn tiếp tục, vũ như cẩn:
Làm đầy cửa
kép, tắm mắt tôi
Bằng trận lũ mầu
sắc sau cùng
Sẽ sống mãi
Trong khi cái
đầu của tôi ngỏm
Do bị đốt cháy
bởi viễn ảnh của mình
Nó chiếu sáng
rực rỡ đến phút chót
Và rồi,
xong!
Adieu bạn quí,
GCC!
NDTM!
Hà, hà!
Note: Bài thơ này, đăng
trên tờ The New Yorker, và
được tòa soạn cho điểm, most popular!
GCC chôm liền, khi mua tờ báo!
Pablo Antonio
Cuadra
Spanish
1912-2002
THE PAIN
What tells
me to start
fingering
the harp strings?-
already in
me
the pain of
distance begins.
One
Sail
a long way
out
is all it
takes.
Cái đau
Điều nói với
tôi khi bắt đầu bấm sợi dây đàn
Thì đã có ở
trong tôi ngay từ lúc bò ra khỏi bụng mẹ rùi
[Thành thử mới
khóc dữ như thế]
Nỗi đau của
khoảng cách – thì cứ phán đại, từ Toronto tới San Diego –
Bắt đầu
Một cú ra
khơi
Một viễn
du dài
Là tất cả những
gì mà nó lấy
Note: Bài
thơ này, ngược hẳn lại với bài thơ trên, tuy nói cùng 1 điều, mà Weil
phán, và
Milosz vinh danh bà, khi lập lại, trong diễn từ Nobel của ông:
Simone Weil mà tôi mang nợ
rất nhiều những bài viết của bà, nói: “Khoảng cách là linh hồn của cái
đẹp”. Tuy nhiên, đôi khi giữ được khoảng cách là 1 điều bất khả. Tôi là
Ðứa bé của Âu châu,
như cái tít của 1 trong những bài thơ của tôi thừa nhận, nhưng đó là 1
thừa nhận cay đắng, mỉa mai. Tôi còn là tác giả của một cuốn sách tự
thuật mà bản dịch tiếng Tây có cái tít Một Âu châu khác. Không nghi ngờ
chi, có tới hai Âu châu, và chuyện xẩy ra là, chúng tôi, cư dân của một
Âu châu thứ nhì, bị số phận ra lệnh, phải lặn xuống “trái tim của bóng
đen của Thế Kỷ 20”. Tôi sẽ chẳng biết nói thế nào về thơ ca, tổng quát.
Tôi phải nói về thơ ca và cuộc đụng độ, hội ngộ, đối đầu, gặp gỡ… của
nó, với một số hoàn cảnh kỳ cục, quái dị, về thời gian và nơi chốn…
Czeslaw Milosz
Chính là nhờ đọc đoạn trên
đây, mà Gấu “ngộ” ra thời gian đi tù VC của Gấu là quãng đời đẹp nhất,
và “khoảng cách là linh hồn của cái đẹp”, cái đẹp ở đây là của những
bản nhạc sến mà Gấu chỉ còn có nó để mang theo vô tù.
Cái câu phán hãnh diện của Gấu, linh hồn văn chương Miền Nam trước 1975
ở trong những bản nhạc sến, nhờ đọc đoạn trên mà có được!
LISTENING
FOR THE ORIGINAL: A
RETROSPECTIVE FOREWORD
Lắng nghe nguyên tác: Một lời tựa theo kiểu nhìn lại
This
foreword was begun as an introduction to the third volume of selected
translations
representing the translations I have done over the past thirty years. I
soon
realized that it should be an attempt to place in perspective my whole
lifetime
as a translator, and the ideas and ideals of translation itself that
have
evolved since I began, over sixty years ago, to work at this
unfinishable art….
W.S. Merwin
Có hai
bài
viết về nghiệp dịch, một, của “cái tay” dịch lại Kafka, và một, của
W.S.
Merwin, nhà thơ nguyệt quế Huê Kỳ, [U.S. Poet Lauerate, from
2010-2011]. Cả
hai, mỗi người tới với dịch mỗi khác. Với Merwin, là 1 công việc kéo
dài 30
niên, cho tới nay. Với người dịch lại Kafka, thì còn là 1 khám phá
ra 1
tình bạn chẳng ai biết đến, 1 người bạn của Kafka, chẳng ai hay, và
cùng với người này, là những bài thơ, bài ca. Cả hai bài viết, GCC đều
hăm hở muốn
dịch cả!
@ NDT's 2011
Phan Nhật
Nam - Chung quanh... Bụi, Rác, Và Nỗi Đau!
Anh đi qua
biên giới tử sinh nầy với mặc cảm phạm tội - Tội sống sót. Không hiểu
anh đã về
đến nhà theo lối nào, nhưng quả thật đây thật là đoạn đường dài nhất,
gớm ghê
nhất anh vừa đi qua với cổ đắng, miệng khô rốc, trí óc vỡ loãng rỗng
không. Có
bóng người đứng trước nhà đường Hồ Biểu Chánh, Phú Nhuận. Hoàng lao
tới, chụp
ghi-đông xe anh rít lên tiếng kêu không che giấu.. Tại sao? Tại sao... Mầy còn
lại ở đây? Tại sao?
Anh biết
Hoàng lo sợ cho anh chứ không phải vì bản thân. Anh nhìn xuống che giấu
giọt nước
mắt muốn rơi. Gió thổi những tấm giấy căn cước bọc nhựa của những người
di tản
lăn lóc trên mặt đường.
Chao nha van
NQT
Tuesday,
September 16, 2014 11:59 AM
Cam on link
may bai viet ve NXH tren Tin Van.
Chuc nhieu
suc khoe.
Doan Nha Van
Tks
Best Regards
Take Care
NQT
PHẠM CÔNG
THIỆN: THAY LỜI GIỚI THIỆU "NGƯỜI ÐI TRÊN MÂY"
Lững Thững Trong Đời
Tôi hiểu hậu
ý của Phạm Duy: Ông muốn tôi viết cái gì đó về bộ hồi ký của ông. Tôi
khéo léo
thoái thác.
NHQ (1)
Dã man thật.
PD chết rồi, làm sao phản biện, 1 thằng con nít như mi, làm sao viết
“cái gì đó”
về bộ hồi ký của ta?
Trường hợp NXH, y chang. Một tên, 1 chữ tiếng Tây không rành, những tên
tác giả,
thí dụ Simone de Beauvoir, viết trật, GCC đã từng chỉ cho sửa, tiếng
Anh, thì 1
câu không dịch nổi, bèn phịa ra 1 câu tiếng Việt, vậy mà dám đặt vào
miệng 1
người như NXH, đã từng dịch Sartre chung với TPG, “Nhìn
bọn em, anh mới thấy thế hệ của bọn anh cái gì cũng lớt phớt, sách
tiếng Pháp đọc
được một chút, sách tiếng Anh đọc được một chút, chẳng có cái gì biết
thật sâu
cả.”!
Khốn nạn nhất,
là tên khốn này, biết chắc chắn, NXH vô phương phản biện, cũng như PD,
vô phương
phản biện!
Từ phản biện này, đếch phải của GCC!
Tên khốn này,
tiếng mũi lõ dốt, thì cũng dễ hiểu, tiếng Mít dốt, thì lại càng dễ
hiểu, do hắn
có được cái bằng Tú Tài đúng thời gian VC ăn cướp được Miền Nam, đâu
được học hành tới
nơi tới chốn, như học sinh Miền Nam trước đó, kiến thức phổ thông kể
như
con số không, tiếng Mít cũng kể như con số không luôn.
Chứng cớ, câu viết trên,
về PD, từ “hậu ý” dùng trật.
“Hậu ý” tiếng Mít, từ
tiếng Tẫu, có nghĩa là "ý tốt",
trong khi, như ý của hắn muốn nói ở đây, có nghĩa của từ "arrière
pensée", của Tẩy, và như thế, phải dùng 1 từ khác, trong có ý xin xỏ,
nhờ cậy, năn nỉ, PD năn nỉ tên khốn, Thầy làm ơn đi đường thổi
tôi đi, nâng bi tôi đi!
Đại khái thế.
Kiến thức phổ
thông, rất cần, để khỏi bị khùng!
Để ý, những đấng
nhà văn nhà thơ Mít, như Bùi Giáng, Phạm Công Thiện, Nguyễn Đức Sơn…
thí dụ, sở
dĩ khùng khùng điên điên, là do thiếu hẳn cái mảng kiến thức khoa học.
Steiner, có lần đưa ra nhận xét, nhân có người giải được định
lý Fermat, 1 nhà khoa học nói, đẹp quá, và ông phán, 1 tay khoa học nói
đẹp
quá, thì khác 1 nhà thơ nói đẹp quá, trong từ “beautiful” của nhà khoa
học, có
cái gì sờ được! (1)
Gấu sợ rằng
tên khốn K này bị tẩu hoả nhập ma, vì dốt đủ thứ, và vì hoang tưởng, về
hắn.
(1)
-Ông "moi" cái đạo đức mới này ở đâu
ra vậy?
Tôi có cái may được sống ở đại học
Princeton và đại học Cambridge, giữa những ông hoàng của nền khoa học
cao. Với văn chương, chữ
nghĩa, chúng tôi chơi trò bịp bợm lẫn nhau, từ
sáng tới tối. Với khoa học, không thể bịp bợm. Nếu bạn bịp, vậy
là bạn
đi đoong. So với sự cách ly của thế giới khoa học, thì sự rút phép
thông công kiểu trung cổ của giáo hội trung cổ chẳng là gì hết. Tôi
nghĩ rằng, người ta có thể tìm thấy, trong những ngành khoa học, một
nền đạo đức của chân lý, một thi tính của ngày mai, một ý nghĩa của
tương lai, chúng là cái mầm nở ra những lề thói, cư xử mang tính người
một cách tuyệt hảo.
-Cái gì làm được thì
cuối cùng khoa học cũng cứ làm. Chỉ sợ rằng, rồi ra, nó sẽ chỉ biết nói
không, chẳng khác chi âm nhạc?
Bạn còn bi quan hơn
cả tôi! Rõ ràng là có một số những nhà nghiên cứu nghĩ rằng, giải
thưởng Nobel đáng được chúc phúc. Nhưng những người mà tôi quen biết,
tỏ ra quan tâm, nghiêm ngặt hơn thế nhiều. Vả chăng, làm sao nói tới
văn hoá mà bỏ qua những nhà khoa học? Một khi mà người ta sắp sửa thay
thế những phần của vỏ não con người, như vậy là những cái "tôi" (le
"moi", le "je") sẽ trở nên ra sao? Sau cùng lại vẫn là vinh quang lẫy
lừng của Rimbaud: "Tôi là kẻ khác" (Je est un autre). Vào năm 1993, khi
nhà toán học Andrew Wiles giải được bài toán hắc búa, là định lý
Fermat, những đồng nghiệp của tôi sướng điên lên, họ nói với tôi: "Điều
này thật là đẹp! Ông ta đã chọn được một cách giải tuyệt đẹp. (It’s so
beautiful! Il a choisi la plus belle approche.) Với những nhà toán học,
từ "đẹp" có một ý nghĩa cụ thể mà tôi chẳng thể nào hiểu được.
Đọc câu của Steiner, thì đành hỡi ơi,
sư phụ của Gấu hẳn cũng đã từng gặp rất nhiều tên khốn như tên K này:
Chúng tôi chơi trò bịp bợm lẫn nhau, từ sáng đến tối!
Phan Nhật
Nam - Chung quanh... Bụi, Rác, Và Nỗi Đau!
Thứ Hai,
ngày 15 tháng 9 năm 2014
1963- Trường
Trung Học Ngô Quyền, Biên Hòa vào giờ tan học buổi trưa. Đám học sinh
khi qua cổng
mất cách huyên náo thường lệ, cụ thể với những nữ sinh đệ nhị cấp, lớp
thiếu nữ
đang thành những nhân dáng riêng với tuổi học trò đang độ lớn, đến mức
trưởng
thành, rộ nở. Bởi ngay cổng đang đứng trấn bởi một gã sĩ quan cấp thiếu
úy. Áo
quần hoa nhảy dù với những hình khối màu nâu, đỏ ngang dọc mạnh mẽ, độc
đáo, chiếc
mũ đỏ đội lệch và điếu thuốc lá trên môi.. Gã trẻ tuổi còn nguyên vẻ
của người
mới rời khỏi giảng đường, trường học, dẫu cố làm ra dáng cứng rắn, lính
tráng.
Viên thiếu úy nhìn săm sắp, tìm kiếm... Đám học sinh chợt ngưng câu
chuyện, hạ
thấp giọng thì thầm khi đi qua. Cũng bởi, người tỉnh nhỏ đã nhiều lần
chứng kiến
những hành vi mạnh mẽ quá độ của những gã lính trẻ sống nay, chết mai.
Thành phố
nằm trong khu bản lề của chiến khu D, chiến khu Hắc Dịch, Rừng Lá, vùng
xôi đậu
Tân Uyên, Tân Tịch.. của những tỉnh Bình Dương-Biên Hòa- Long
Khánh-Phước Tuy,
nên dân chúng thường chứng kiến xe GMC chở quan tài lính phủ Cờ Vàng Ba
Sọc Đỏ
qua thành phố. Cảnh tượng gây nên thương cảm xót xa.. Người chết trận
phần đông
là con em gia đình trong khu phố. Người ta báo cho nhau những tin chết
chóc..
Trung sĩ X Biệt Động Quân cháu ông Tám Mg đầu đường Công Lý. Thiếu Úy
Q, anh cả
con của gia đình em bác Hai L ngoài Cù Lao Phố.. Tuy nhiên gã thiếu úy
hẳn là
người xứ lạ đến đây tìm kiếm một điều gì. Hiệu Trưởng Bảo thân hình
chắc nịch vạm
vỡ, nhân dáng của một võ sĩ hơn là nhà giáo tiến tới tự tin.. Xin lỗi,
thiếu úy
tìm ai? Gã sĩ quan đổi sắc mặt, vất vội điếu thuốc, lột chiếc nón đỏ
xuống cầm
tay ấp úng.. Thưa thầy! Hiệu trưởng Bảo thoáng ngạc nhiên.. Anh học tôi
ở đâu?
Thưa, thưa em không học thầy, nhưng em học thầy B, thầy H.. bạn của
thầy; em học
Phan Châu Trinh, nhưng thầy hỏi oral em kỳ thi Trung Học Đệ Nhất Cấp
đầu tiên ở
Đà Nẵng năm 1958. Hiệu Trưởng Bảo cười vui.. Thế hôm nay cậu đến đây có
việc
gì? Em đến tìm anh Hoàng, Nguyễn Xuân Hoàng, người Nha Trang, học trên
Đà Lạt đến
đây dạy.
Vào đến văn
phòng, Hiệu Trưởng Bảo lớn tiếng.. Hoàng à, có ông thiếu úy nhảy dù nầy
đến tìm
toa.
Khi đã ngồi
nơi quán T.Hg ở bờ sông, giáo sư Hoàng rạng rỡ.. Quái, tôi đi đâu cũng
gặp cậu
(Chữ “cậu” có nghĩa thân mật, ngang hàng, không có ý kẻ cả, đàn anh.
Hoàng
không hề có tính nầy). Ngày xưa sáng tắm biển ở Nha Trang cũng thấy
cậu; lên Đà
Lạt cũng có, rồi nay gặp lại ở Biên Hòa nầy. Làm sao cậu biết tôi dạy ở
Ngô Quyền?
Tôi (Anh hơi
ngần ngại trước xưng hộ “anh/em” do biết rõ Hoàng không thích làm “đàn
anh” với
bất cứ ai. Anh nhớ danh xưng “thầy” với Hiệu Trưởng Bảo).. Tôi đọc thơ
của thầy
từ học trò của thầy..
- Học trò
nào của tôi mà cậu quen?
Cô học trò
giỏi Việt Văn nhất trường Ngô Quyền do được thầy dạy nên đoạt giải
thưởng văn
chương Lễ Hai Bà Trưng!
- A! Lê Th.
Dg
- Đấy cô nhỏ
đó, cô ấy đọc thơ của thầy nên tôi mới hỏi ra..
-Thơ làm
sao? Hoàng có vẻ thú vị.
Thơ làm từ
ngày thầy và tôi còn trên Đà Lạt... Bài, “Đà Lạt mưa hoài nên Đà Lạt
buồn. Tôi
mang mối sầu trong lòng hiu quạnh...”
Hoàng cười
trống vắng... Vớ vẩn bỏ xừ. À nầy cũng lạ, tôi với cậu là hai tuổi khác
nhau,
làm hai việc khác nhau, mà lại hay gặp nhau và mỗi lần gặp là một lần
có chuyện.
- Chưa chắc,
lần nầy có chuyện gì đâu? Anh cũng nghĩ đến một chuyện gì đó nhưng không rõ?
- Có rồi!
Tôi sắp đổi về dạy Sài Gòn!
- Như vậy là
chuyện tốt vì Biên Hòa, Sài Gòn cách nhau chỉ 30 cây số. Biên Hòa chỉ là ngoại ô của Sài Gòn. Biết đâu tôi lại
đổi về những tiểu đoàn ở Sài Gòn thì lại gặp thầy mấy hồi.
Khi đưa anh
về cổng Căn Cứ Không Đoàn 33, cổng chung vào Tiều Đoàn 7 Nhẩy Dù, giọng
Hoàng bỗng
nhiên chùng xuống ân cần: Cậu cẩn thận nghe không. Súng đạn vô tình.
Tội lắm.
Tôi ăn cà-rem V.Hg. nhà ông Đg. H, anh họ của cậu từ 1950! Cẩn thận
nghe cậu
Nam.
Anh không có
anh trai. Không chị gái. Nên anh cần thương yêu huynh đệ/bằng hữu như
một an ủi,
bù trừ.
1973- Sau thời
gian trầy thân khắp mọi vùng đất của miền Nam với cách người lính tác
chiến thực
thụ, nay anh được về làm lính thành phố với nhiệm vụ trong Ban Liên Hợp
Quân Sự,
Tân Sơn Nhất. Từ Tháng 10, 1973, Hà Nội
phổ biến Nghị Quyết 21 công khai đánh chiếm Miền Nam bằng vũ lực, xé bỏ
Hiệp Định
Ba Lệ 1973. Phái đoàn gọi là Chính phủ lâm thời Cộng hòa miền Nam VN
tức chính
phủ của Mặt Trận giải phóng miền Nam theo lệnh Hà Nội kéo dài những
phiên họp
không mục đích, không nội dung. Anh được rảnh rỗi nên thường về Sài Gòn
tiếp tục
sự nghiệp “cầm cái ly” thay vì cầm khẩu súng. Quán Chợ Đũi với những
bạn rượu
thuộc thành phần khác hẳn với những hảo hớn giang hồ nhà binh từ bao
lâu quen mặt,
quen tính. Đấy là ông Đoàn “càn” nổi tiếng “càn” từ hồi Trại Định Cư
Phú Thọ
sau di cư năm 1954; người thành danh từ Đại Học Xá Minh Mạng; đấy là
giáo sư Thảo
với cách ăn nói thắm thiết đôn hậu; là ông thầy dạy toán lừng lẫy do đã
có Chứng
Chỉ Toán Đại Cương (MG) từ trước năm 1960... Danh sĩ quanh bàn rượu còn
có những
tên tuổi kiệt liệt như nhà giáo thi sĩ Tạ Ký, đến chai bia thứ ba thì
xỏa đầu
tóc bạc, nhìn trân ra khoảng tối với đôi mắt ráo hoảnh thay tiếng thét
im lặng;
đấy là nhà vận động cách mạng (cách mạng thứ thiệt/rất bản lãnh) Nguyễn
Liệu,
Hiệu Trưởng Quảng Ngãi Nghĩa Thục, một cơ sở giáo dục hoàn toàn miễn
phí, thách
đố chế độ gọi là “xã hội chủ nghĩa” của cộng sản Hà Nội. Bàn rượu cũng
có người
điên sáng suốt một cách thông tuệ mà một thế kỷ văn chương/thi ca/triết
học Việt
Nam khó có người ngang tầm, cân sức (kể cả “sức điên/tỉnh” rất đáng
kính phục),
Bùi Giáng. Tay ôm con mèo và tay cầm ly rượu không phân biệt. Và cuối cùng người thường xuyên ngồi bên anh
với nét mặt hòa nhã, vui hòa nhưng cách biệt; tham dự nhưng đứng ngoài;
nồng
nàn góp chuyện nhưng kín đáo giữ lại phần riêng tư. Hoàng hay ngồi cạnh
anh nói
câu ân tình vừa phải: Rồi tôi với cậu thế
nào cũng gặp nhau mà thiệt.
Chúng tôi
luôn có với nhau. Sáng 30 Tháng 4, 1975, từ Công Trường Lam Sơn, trước
Tòa Đô
Chánh anh lên yên, nhấn mạnh bàn đạp, động tác không chủ đích đi dọc
đường Lê
Văn Duyệt, qua Chợ Đũi, nơi các bạn hôm qua hằng vui vầy, sống động...
Anh nhìn
vào bàn ghế lổng chổng trống không. Anh đạp dài theo Lê Văn Duyệt giữa
giòng âm
động dồn dập của Sài Gòn đang hồi tẩm liệm với nhịp chày vồ dộng mạnh
xuống
trăm, ngàn quan tài. Mà quả thật có nhiều quan tài của những người vừa
chết.. Đến
trước cổng trại Nguyễn Trung Hiếu, hậu cứ Tiểu
Đoàn 1 Dù có một xác con trẻ trần truồng không
biết ai ném ra từ
bao giờ lên mặt đường. Một cô gái mặc áo dài trắng nữ sinh đi đến, gác
chiếc xe
đạp mini cạnh lề đường, bình thản, thành thạo đưa máy ảnh lên, lấy góc
cạnh chụp
thây đứa trẻ chết. Cô gái nhỏ giải thích sành sõi: Chụp để làm chứng
tội ác Mỹ-Ngụy
trước khi bọn chúng rẫy chết!
Anh vào Cư
Xá Sĩ Quan Bắc Hải nay đặt dưới quyền chỉ huy của Chuẩn Tướng Hồ Trung
Hậu, trước
1972 là Tư lệnh phó Sư đoàn Dù. Chuẩn Tướng Hậu đang trải bản đồ trên
mui xe
jeep, bàn tính với viên sĩ quan nhảy dù có nhiệm vụ an ninh cư xá. Khi
biết lệnh
đầu hàng của Dương Văn Minh, ông vất tung chiếc bản đồ, gầm lên lời
nguyền rủa.
Nhưng viên thiếu úy trả lời quyết liệt: "Tôi không đầu hàng, tôi với
trung
đội sẽ ra bến tàu tiếp tục chiến đấu". Thiếu úy Huỳnh Văn Thái tập họp
trung đội, hô nghiêm, xếp hàng, ra lệnh di chuyển. Trung đội lính ra
khỏi cư xá
theo lối cổng Đường Tô Hiến Thành, rẽ vào Nguyễn Tri Phương, đi về phía
chợ Cá
Trần Quốc Toản, hướng bến tàu. Nhưng những Người Lính Nhẩy Dù của Thiếu
Úy Huỳnh
Văn Thái không ra đến bến Bạch Đằng, khi tới đến bùng binh Ngã Sáu Chợ
Lớn, họ
xếp thành vòng tròn, đưa súng lên trời đồng hô lớn.. Việt Nam Cộng Hoà
Muôn
Năm! Con chết đây cha ơi! Và những trái lựu đạn tiếp nhau bừng bực nổ
sau lời
hô vĩnh quyết cùng đất nước Miền Nam. Anh chụp hình những người lính
nhảy dù của
Thiếu Úy Thái với mùi máu người đọng trên cánh mũi, nơi tròng mắt.
Anh đi qua
biên giới tử sinh nầy với mặc cảm phạm tội - Tội sống sót. Không hiểu
anh đã về
đến nhà theo lối nào, nhưng quả thật đây thật là đoạn đường dài nhất,
gớm ghê
nhất anh vừa đi qua với cổ đắng, miệng khô rốc, trí óc vỡ loãng trỗng
không. Có
bóng người đứng trước nhà đường Hồ Biểu Chánh, Phú Nhuận.
Hoàng lao tới, chụp ghi-đông xe anh rít lên
tiếng kêu không che dấu.. Tại sao! Tại sao... Mầy còn lại ở đây! Tại
sao! Anh
biết Hoàng lo sợ cho anh chứ không phải vì bản thân. Anh nhìn xuống che
dấu giọt
nước mắt muốn rơi. Gió thổi những tấm giấy căn cước bọc nhựa của những
người di
tản lăn lóc trên mặt đường.
Những năm
sau khi yên lành ở Mỹ, mỗi dịp Tháng Tư anh nhớ lại Lần Thật Chết Quê
Hương.
Cũng chỉ một lần Hoàng “mầy/tao” với với anh.
Ba.
2013/2014. Anh không thể nghĩ đây là dạng hình sáng/đẹp/vững chắc/cân
đối của người thanh niên đứng trước biển
Nha
Trang sáng sớm trong thập niên 50. Anh phải tự chứng nhận lại về Người
Viết
Văn/Làm Báo/Dạy Học với dánh dấp rất đàn ông mà cũng thuần hậu, giản dị
của thập
niên 60, 70. Nhân dáng mà phần đông những nhân sự trong báo giới/văn
giới/học
giới Sàigòn thường ngụy trang dưới những hình thái quá độ/dáng kịch/rất
dễ nhận.
Còn chăng là ánh mắt bình thản của một người biết mình là ai. Người rất
biết rõ
mình ở nơi đâu. Anh cầm cánh tay gầy yếu của bạn. Anh nghe Hoàng kêu
lên tiếng
đau trong Ngày 7 Tháng 9: Đau quá! Đau nơi sườn! Nam gọi Vy hộ mình!
Đau quá!
Anh nghe bạn kêu đau và đột nhiên nhớ rất rõ những lời viết về bằng hữu
mà anh
làm trong đêm tuyết phủ ở Minnesota mười mấy năm trước...
Bạn đã mang
tiếng Kẻ Tà Đạo
Cho Đi Trên
Mây cũng chưa cao
Hãy Ngồi Lên
Cỏ
Ngôi Nhà
Ngói Đỏ
Chung quanh,
Bụi,
Rác,
Và..
Nỗi Đau!
Hóa ra, anh
và Nguyễn Xuân Hoàng dù rất khác nhau về nhiều điểm nhưng quả đã chung
một điều
- Cả hai chưa hề nói với nhau về văn chương, chữ nghĩa, có lẽ trong
thâm tâm
anh và Bạn đều hiểu rõ tính giới hạn/phù hư/không thực của văn tự -
Không đủ sức
chuyên chở, bày tỏ Sự Thật Vô Hạn của Nỗi Đau. Đau quá!
Phan Nhật
Nam
Nha Trang-Đà
Lạt-Biên Hòa-Sàigòn-Cali)
(Sáu- mươi
năm trước của 13/9/2014)
Tiễn bạn
Nguyễn Xuân Hoàng,
Nhà Văn Lững Thững Trong Đời
Chúng
tôi quen nhau khi cả hai cùng dạy môn Triết ở năm cuối Trung học tại
trường
Petrus Ký, Sàigòn, cuối thập niên 1960. Ngoài giờ dạy, Hoàng ít xuất
hiện ở
trường, anh bận bịu lo chuyện bài vở cho tờ tạp chí Văn
của Nguyễn Đình Vượng ở đường Phạm Ngũ Lão, anh dạy tư nhiều
nơi. Tôi rảnh rang hơn vì ngoài giờ dạy chẳng làm gì khác hơn là lo cho
xong
cái Cao Học mà cha Thanh Lãng luôn hối thúc phải hoàn thành. Thỉnh
thoảng lái
xe vô trường, ghé phòng Giáo Sư kiếm người đánh cờ tướng, tôi gặp Hoàng
loáng
thoáng giữa những giờ đổi lớp. Chúng tôi chào nhau, thân thiện nhưng
không thân
thiết.
Rồi
cả lứa chúng tôi cùng đi thụ huấn quân sự chín tuần ở Quang Trung dành
cho Giáo
chức cấp 3, khóa 6/68 DBTĐ. Nơi đây tôi có dịp gặp Hoàng thường xuyên
hơn, cũng
chỉ mầy tao chuyện quân trường mà chẳng nói gì đến văn chương chữ
nghĩa. Hoàng
có nhiều bạn, anh có vẻ được đồng nghiệp nể trọng và thích kết thân dầu
anh ít
nói. Tướng cao, ốm, đẹp trai, tóc dầy
bồng bềnh, anh có dáng của một nghệ sĩ với nét mặt lúc nào cũng như đăm
chiêu
lo lắng, có khi ngồi bên nhau cả bọn chục đứa, tôi ít nghe Hoàng nói,
vậy mà
sao bạn bè vẫn thích. Có lẽ từ thái độ tự tin của anh trong lời nói,
trong cử
chỉ vung tay hay cả trong thái độ dứt khoát đứng dậy trước, bước ra
khỏi sự ồn
ào của nhóm.
Sau
thời gian thụ huấn quân sự, chúng tôi gần gũi nhau hơn. Thỉnh thoảng có
ghé nhà
Hoàng rút canh xì phé còm giữa những đồng nghiệp cùng lứa tuổi. Vài lần
bạn bè
rủ rê vào quán La Pagode, để nghe những nhà văn thời thượng lúc đó bàn
tán
chuyện văn chương Tây phương hay tình hình văn học Sàigòn. Tôi nghe mà
không
thấm về văn chương đương thời vì còn mãi mê với chuyện văn chương Nam
Bộ
1945-1954, nên chuyện bàn luận ở đây chỉ vào tai nầy lọt qua tai kia.
Công việc
viết lách của Hoàng và các bạn văn buổi đó tôi đón nhận trong lơ đãng,
hờ hững…
Chúng
tôi ít liên lạc từ khi tôi đổi đi trường khác. Mãi cho đến tháng Tư đen
quốc
nạn đổ lên đầu dân Việt, bạn bè tứ tán lao đao. Trong thời xa cách đó,
thỉnh
thoảng tôi theo Đặng Phùng Quân đến La Pagode, thấy Hoàng đã ngồi đó
với nhiều
người, chỉ trao đổi bâng quơ “mầy lúc nầy khỏe không, thầy đồ Nho?” Tôi
được
gọi là Đồ Nho để phân biệt với các bạn văn trong nhóm của Hoàng là Đồ
Tây như
Huỳnh Phan Anh, Đặng Phùng Quân, Nguyễn Quốc Trụ, Hoàng Ngọc Biên, và
có thể
thêm Nguyễn Đình Toàn. Những nhà văn đương làm mưa làm gió trên văn đàn
Sàigòn
lúc đó với phong cách văn chương mới theo kiểu viết của nouveaux roman,
hay
anti roman. Họ viết với nhiều đoạn phân tích nội tâm thiệt tỉ mỉ, câu
văn phá
cách, không cần theo văn phạm thường, nhân vật đi vào chiều sâu tâm
hồn, những
sinh hoạt, hành vi của nhân vật chỉ là thứ yếu.
Tôi
xa lạ với loại văn chương nầy, nói rõ hơn là tôi không thấu đáo nó nên
không
mấy thích khi thưởng thức, nói gì đến sáng tác kiểu đó. Và tôi đứng
ngoài việc
sáng tác văn nghệ, chỉ quan sát bạn bè mình vẫy vùng với bút mực. Hoàng
ở trong
nhóm đó trong một chừng mực nhứt định. Anh được sự chú ý của người đọc
dầu viết
ít, được coi là một tác giả thông
minh, có chiều sâu tư tưởng.
Thời
cuộc đẩy chúng tôi đi xa hơn vào dòng xoáy đảo điên của đất nước, tôi
vượt biên
qua Mỹ và Hoàng cũng lững thững sau đó vài năm, định cư ở miền Đông với
gia đình, tôi gởi
thơ chia vui với bạn và mách nước người viết như Hoàng nên đến vùng
Sàigòn Nhỏ
của CA, nơi đó anh sẽ có dịp phát triển tài năng bằng viết lách hay làm
việc liên
quan xa gần đến báo chí. Và bạn tôi đã về làm việc suốt thời gian dài
cho công
ty Người Việt, một thời gian mà sau nầy tôi nghĩ là uổng phí đối với
một nhà
văn vì phải bận bịu những chuyện chuyên môn ngoài văn chương. Thời gian
nầy
Hoàng chẳng in được bao nhiêu quyển. Tâm sự với tôi, Hoàng cũng tỏ ra
là tiếc
mình bỏ lỡ đi những tháng ngày đáng lẽ nên viết vì còn nhiều sức sáng
tạo. Bây
giờ thì hết rồi. Tao muốn buông thả hết mọi chuyện, kể cả đời sống nầy.
Câu
nói như tiếng thở dài, tôi nghe mà thương bạn quá. Tôi không hiểu tại
sao bạn
mình lại thả dốc nhanh đến như vậy? Tôi hỏi gặng “Chán đời à?” “Không, tao vẫn vậy, vẫn sống và làm việc của
đời, nhưng không coi trọng cái đời của mình, chẳng quí nó nữa”. Anh hờ
hững
nhấn mạnh. Nếu bây giờ ngã ra chết liền, tao vẫn không có gì phàn nàn,
không
tiếc rằng đã bỏ cuộc đời quá sớm. Đời sống có những cái kỳ hoặc của nó.
Giải
quyết cách nào cũng làm cho mình đau lòng vì không bao giờ mình vừa ý.”
Hình
như Hoàng triết lý ngay cả trong đời sống thường nhật. Và rất nhạy cảm.
Tôi
nhìn dáng đi của anh, lửng thửng, nhận ra ngay được trong đám đông với
cái áo
thung và quần Jean xanh muôn thuở.
Nhìn
mái tóc bạc trắng của bạn gần đây, bạc như những nhà hiền triết nhưng
vẫn còn
bồng bềnh như một nghệ sĩ, dáng gầy gò hơn trong chiếc ghế rộng thinh,
tôi cảm
giác Hoàng cô đơn ngay với chính mình!
Trong
một truyện ngắn mới đây, truyện Vô Đề, in trong tập “Quê Hương Vụn Vỡ”
tôi đã
lấy hình ảnh và những phát biểu của Hoàng, nhào nặn với hình ảnh một
nhà văn
khác để tạo nên nhân vật Ngữ. Thế giới chung quanh cung cấp cho ta muôn
ngàn
hình ảnh, nhà văn nào dùng nó nên cám ơn đời và cám ơn nhân vật cụ thể
đã cho
ta chi tiết đó.
Trong
số năm mươi truyện ngắn của tôi chỉ có một truyện viết cách nay hơn hai
mươi
năm tôi có lời đề tặng ba người bạn mình là Đặng Phùng Quân, Viên Linh,
Nguyễn
Xuân Hoàng. Những người bạn văn thân thiết cho tôi tấm gương đã đi hết
đời mình
với văn chương. Với sự chân thành tha thiết, không lợi dụng văn chương,
coi nó
là phương tiện áo cơm, buông thả.
Truyện
của Hoàng khó đọc, ta không thể nuốt trơn tru một mạch như những tác
phẩm lem
nhem, làm bội thực người đọc. Các nhân vật tiêu biểu trong ngòi viết
của anh
cũng khó mà nhận dạng được ở ngoài đời. Đó là những con người lững thững như
tác
giả của nó, đứng trong đời nhưng bất cần đời, giải quyết những vấn đề
coi như
thiệt là quan trọng nhưng với cử chỉ hững hờ, như bất cần…
Tác
phẩm văn chương lúc nào cũng nằm một trong hai đối cực: loại khó nuốt
và loại
dễ tiêu. Loại dễ tiêu thường xuyên được đương thời nhắc đến, luôn luôn
là đa
số, kể về độc giả lẫn số lượng in ấn.
Nhưng
loại khó nuốt bao lâu nay được giới nghiên cứu coi chính nó là tác nhân
của sự
tiến bộ văn hóa của dân tộc.
Bạn
tôi là cây viết loại đó. Viết với thái độ nghiêm chỉnh thận trọng,
nhưng với
tâm trạng lững thững, như anh đã lững thững
trong cõi đời…
Nguyễn
Văn Sâm
(Victorville,
CA May 09-2012)
PHẠM CÔNG
THIỆN: THAY LỜI GIỚI THIỆU "NGƯỜI ÐI TRÊN MÂY"
September
13, 2014 at 9:10pm
Ðôi chút
nhàn tưởng về nghệ thuật viết tiểu thuyết - Chữ nghĩa hoài vọng và tình
yêu tuyệt
vọng trong tiểu thuyết của Marguerite Duras và của Nguyễn-Xuân Hoàng
Quyển tiểu
thuyết L’Amant của Marguerite Duras, xuất bản năm 1984 được giải
Goncourt, đã
bán được trên cả triệu ấn bản. Ba năm sau, năm 1987, tiểu thuyết Người
Đi Trên
Mây của Nguyễn-Xuân Hoàng được xuất bản, không được giải thưởng văn
chương nào
cả và cũng chẳng biết bán được bao nhiêu (nếu có bán được đi nữa, cao
nhất thì
chừng vài ngàn quyển). Về giá trị văn chương tiểu thuyết, Nguyễn-Xuân
Hoàng đứng
ngang hàng với Marguerite Duras. Tuy nhiên, tất cả sự so sánh đều vô
lý, vì mỗi
tác giả là một thế giới riêng biệt, một nỗi cô độc riêng biệt, không ai
giống
ai, mỗi một vị thế trong lịch sử văn học đều là kết quả của trùng điệp
ngộ nhận
vô phương cứu chữa. Ðặt tiểu thuyết Người Đi Trên Mây của Nguyễn-Xuân
Hoàng bên
cạnh tiểu thuyết L’Amant của Marguerite Duras chỉ là một cách nhấn mạnh
sự mâu
thuẫn tột cùng trong lòng ý thức và vô thức con người: Tây phương và
Ðông
phương, tình đàn ông và tình đàn bà, chữ nghĩa và tình yêu, hoài vọng
và tuyệt
vọng. Nói gọn lại: chữ nghĩa hoài vọng và tình yêu tuyệt vọng. Nói gọn
hơn nữa:
chữ nghĩa: tình yêu: hoài vọng: tuyệt vọng...
Chính sự mâu
thuẫn cùng cực trong tiểu thuyết của Marguerite Duras đã khiến cho bà
phải đi
trên mây suốt một đời người, cũng như Nguyễn-Xuân Hoàng bị sự mâu thuẫn
ấy ép
buộc trở thành một thứ amant bất đắc dĩ... (Duras uống rượu mây mưa
trọn đời,
còn Hoàng thì không uống rượu!)
Tuy nhiên,
có điều đáng tư lự: tất cả “người yêu” đều là “người đi trên mây”,
nhưng không
phải tất cả “người đi trên mây” đều là “người yêu”... Dù sao, cả hai
đều kêu gọi
lẫn nhau: L’Amant kêu gọi Người Đi Trên Mây và Người Đi Trên Mây kêu
gọi L’
Amant. Ít nhất đối với người đọc, tình cờ đọc cả hai quyển một lần.
Tình yêu là
gì? Ði trên mây là đi thế nào? Và ai là người đang hỏi? Chúng ta hãy
cùng đi
trên mây với Nguyễn-Xuân Hoàng và Marguerite Duras. Trước hết. Ðôi điểm
di động
và bất động trên mây: Thăng, người tình đàn ông, tạm gọi là nhân vật
chính
trong Người Đi Trên Mây, tình cờ gặp Uyên, rồi có những liên hệ tình
cảm nào đó
với Uyên, đồng thời đâu đó tình cờ gặp Quỳnh, rồi cũng có những liên hệ
tình cảm
nào đó với Quỳnh; trước khi tình cờ gặp Uyên, tình cờ gặp Quỳnh, Thăng
cũng đã
tình cờ gặp Lan và cũng có những liên hệ tình cảm nào đó với Lan, rồi
lấy Lan
làm vợ, đẻ ra hai con, rồi trong tình trạng ly thân, rồi ly dị với Lan
thì
Thăng đi trên mây với Uyên và với Quỳnh. Sau cùng, Thăng phải tạm quyết
định giữa
sự mâu thuẫn cùng cực trong cái hiểu và trong cái không hiểu: “Tôi hiểu
tôi phải
làm gì” (Thăng tự nói thế nơi trang 247 của Người Đi Trên Mây) và Thăng
đã chọn
lựa Quỳnh và “dứt khoát” với Uyên: “Tôi hiểu rằng tôi sẽ chia tay Uyên
mãi mãi”
(trang 247). Có hẳn là chia tay mãi mãi?
Nhân vật của
L’Amant là chính tác giả Marguerite Duras. Câu chuyện xảy ra ở Việt
Nam, từ Sa
Ðéc, rồi bắc Vàm Cống, rồi đến Chợ Lớn (Marguerite Duras sanh tại miền
Nam Việt
Nam năm 1914); một cô con gái người Pháp, mẹ là hiệu trưởng một trường
tiểu học,
cha mất từ nhỏ, sinh đẻ và lớn lên cái tuổi dậy thì ở miền Nam Việt với
người
anh và đứa em trai. Những xung đột gia đình giữa người con gái và đứa
anh trai,
giữa đứa em trai và người anh; cô con gái Pháp nhà nghèo ấy lúc năm 15
tuổi rưỡi,
gần 16, cực thịnh của tuổi dậy thì, tình cờ gặp một công tử triệu phú
Việt gốc
Tàu, lớn hơn nàng đến khoảng trên 10 tuổi; nàng yêu chàng và chàng yêu
nàng, tất
cả sự khám phá dục tình bùng dậy trong cơ thể sung mãn của cô gái đầm
lớn lên
trong mùa nóng liên tục của miền Nam Việt. Gia đình cả hai bên đều
không thể
nào chấp nhận sự liên hệ tình cảm hay tình dục giữa chàng và nàng. Tình
tuyệt vọng,
nỗi thảm sầu, khoảng năm 17 tuổi, nàng sang Pháp du học và chia tay mãi
mãi mối
tình đầu hay mối tình sầu. Truyện kết thúc, mấy chục năm sau, nàng trải
qua nhiều
đời chồng, sinh con đẻ cái, trở thành nhà văn nổi tiếng của nền văn
chương
Pháp, một hôm tình cờ chàng đi qua Paris với vợ, điện thoại nàng, run
rẩy, nói
rằng chàng vẫn yêu nàng như xưa, yêu đến chết. Chỉ có thế, trang cuối:
“Des
années après la guerre, après les mariages, les enfants, les divorces,
les
livres, il était venu à Paris avec sa femme. Il lui avait téléphoné...
Il lui
avait dit que c’était comme avant, qu’il amait encore, qu’il ne pourait
jamais
cesser de l’aimer, qu’il l’aimerait jusqu’à sa mort” (L’Amant, trang
142).
Tiểu thuyết
L’Amant của Marguerite Duras bắt đầu bằng chữ “un jour...”, một hôm,
một ngày
nào đó trong đời, và kết thúc bằng chữ “mort”, yêu đến chết, đến khi
chết, yêu
trọn đời cho đến chết. Yêu cho đến chết hay cái chết của chính tình
yêu? Không
thể giải thích cái gì ra cái gì cả.
Tiểu thuyết
của Nguyễn-Xuân Hoàng mở đầu: “Thực tình trong thâm tôi, tôi không có ý
định...”
và kết thúc: “Tôi không biết điều gì sẽ xảy đến với tôi. Tôi ôm Quỳnh.
Chúng
tôi hôn nhau cái hôn nhòa nhạt nước mưa dưới một bầu trời thấp, ẩm đục,
giữa một
thành phố vắng vẻ và lạnh lẽo, trong tiếng còi hụ của đêm giới nghiêm
sau
cùng.” Sự mâu thuẫn cùng độ giữa: “Tôi hiểu tôi phải làm gì” (trang
247, Người
Đi Trên Mây) và “tôi không hiểu điều gì sẽ đến với tôi” (trang 249). Ði
trên
mây và biết rằng mình đi trên mây thì vẫn chưa hẳn là đi trên mây. Có
ai mà
không đi trên mây? Chuyện tình của cả nhân loại đều là sự căng thẳng
cùng độ giữa
đây và đó; tất cả những câu chuyện tình của trái đất này đều là những
tình yêu
tuyệt vọng (tình yêu thành công chỉ là một hình thức khác của tình yêu
tuyệt vọng).
Trong quyển L’Homme Revolté, Albert Camus nói về nghệ thuật tiểu thuyết
và soi
sáng sự việc một cách bất ngờ: “tất cả mọi người đều muốn làm cuộc đời
mình trở
thành một tác phẩm nghệ thuật. Chúng ta muốn tình yêu được trường tồn
và chúng
ta biết rằng tình yêu không trường tồn được; nếu họa hoằn tình yêu có
trường tồn
trọn đời đi nữa (nhờ một phép lạ nào đó) thì tình yêu ấy vẫn dang dở,
không trọn
vẹn.” (Không có sẵn nguyên tác chữ Pháp ở đây, xin đọc bản Anh: “In
this sense,
everyone tries to make this life a work of art. We want to love to last
and we
know that it does not last; even if, by some miracle, it were to last a
whole
lifetime, it would still be incomplete” – Albert Camus, The Rebel,
trang
260).
Sự hoài vọng
của chữ nghĩa làm thành một tác phẩm nghệ thuật; và tình yêu, dù là
tình yêu
trường tồn trọn kiếp, vẫn là tình yêu dang dở, không trọn vẹn. Khi tình
yêu được
viết ra thành tiểu thuyết, dù tình yêu ấy là tình yêu trọn vẹn thì sự
trọn vẹn
tình yêu ấy chỉ là sự trọn vẹn của tình yêu trong nghệ thuật, nghĩa là
chữ
nghĩa hoài vọng đến sự trọn vẹn của chính chữ nghĩa, và điều ấy làm tất
cả tình
yêu trọn vẹn trong đời sống trở thành dang dở, thiếu mất trọn vẹn. Có
chăng
tình yêu trọn vẹn trong đời sống? Ai trả lời được? Người ta thường nói:
“Tình
yêu chỉ có trong tiểu thuyết”, nhưng sự thực thì ngay trong đời sống,
chỉ có tiểu
thuyết mới làm tình yêu xuất hiện như là tình yêu với đủ mọi hình thái.
Dù con
người trong đời sống không bao giờ viết tiểu thuyết và không bao giờ
đọc tiểu
thuyết đi nữa, mỗi khi yêu hay mỗi khi tạm gọi là “yêu”, con người đã
tự kể
chuyện hay tự kể chuyện với mình với người khác. Từ chuyện đến truyện
và từ
truyện đến chuyện tất cả đều bắt đầu bằng một câu chuyện và chấm dứt
bằng một
truyện, hay ngược lại tất cả bắt đầu bằng một truyện và chấm dứt bằng
một câu
chuyện; hoặc đôi khi truyện trong chuyện và đôi khi khác, chuyện trong
truyện.
Người không viết văn thì bắt đầu thường khi với câu chuyện và chấm dứt
với chuyện.
Còn người viết văn thì bắt đầu bằng chuyện và chấm dứt bằng truyện.
Nhiều khi
truyện lại bắt đầu bằng chuyện khác. Thực là nhiều chuyện! Thế mà vẫn
chưa hết
chuyện: Jean-Paul Sartre, trong khoảng trên 50 trang đầu tiểu thuyết La
Nausée
dã dí dỏm cho ta thấy sự mâu thuẫn cùng cực của chữ nghĩa hoài vọng và
tình yêu
tuyệt vọng [không sẵn bản chữ Pháp, xin đọc bản tiếng Anh, Nausea,
trang 56 –
59]:
“Ðể cho biến
cố tầm thường nhất trở nên một cuộc phiêu lưu, người ta chỉ cần bắt đầu
kể chuyện
về cái biến cố tầm thường ấy. Ðó là điều lường gạt người đời: bất cứ
con người
nào cũng luôn luôn là một người kể chuyện, hắn sống và được (bị) vây
phủ bởi những
câu chuyện của hắn và những câu chuyện của những người khác. Hắn nhìn
mọi sự xảy
đến hắn xuyên qua những câu chuyện này, và hắn cố gắng sống cuộc đời
hắn như là
một câu chuyện mà hắn đang kể... (For the most trivial event to become
an
adventure, all you have to do is to start telling about it. This is
what
deceives people: a man is always a teller of stories, he lives
surrounded by
his stories and the stories of others, he sees everything which happens
to him
through these stories, anh he tries to live his life as if it were a
story he
was telling) [Sartre, Nausea, trang 56 – 59].
Xô đẩy lời
nói trên của Jean-Paul Sartre qua bình diện triết lý thì chúng ta thấy
được trọn
vẹn tất cả những ý nghĩa “siêu hình” phong phú của siêu việt tính trong
ý thức
con người. Ý thức là ý thức, vì ý thức đi ra ngoài, vượt qua cái ở đây
và phóng
tới cái ở đó; cái ở đó có thể là trên trời, dưới đất, hôm qua và tương
lai, nỗi
chết và tình yêu, sự dang dở và sự trọn vẹn; ở đây là đời sống, và đời
sống vẫn
luôn luôn là câu chuyện; câu chuyện là siêu việt tính của đời sống; đời
sống vẫn
luôn luôn có ý nghĩa là kể chuyện đời sống hay đời sống được kể lại:
tôi không
bao giờ sống thực sự, tôi chỉ sống qua chuyện sống và qua sống chuyện.
Sự sai lầm
của Jean-Paul Sartre là khi Sartre ép buộc chúng ta phải chọn lựa: sống
hoặc kể
chuyện (but you have to choose: live or tell) (Nausea, trang 56). Sống
chính là
kể chuyện, Jean-Paul Sartre cố sống thế nào để không kể chuyện: Sartre
viết
truyện. Chuyện trở thành truyện. Sức mạnh mê hoặc của chữ nghĩa vẫn
luôn hoài vọng
thực tại: câu chuyện tuyệt vọng của tình yêu trở thành truyện tình yêu
tuyệt vọng.
Sartre, giống
như Marguerite Duras, giống như Nguyễn-Xuân Hoàng, đều là những người
đã bị chữ
nghĩa hoài vọng thúc đẩy từ lúc nhỏ, đã bị truyện thúc đẩy vào chuyện
và biến đổi
chuyện thành truyện. Có lẽ ai cũng thế?
Sartre,
Duras và Hoàng đã viết trong đầu khi đang yêu và đang khi yêu thì sắp
viết.
Sartre đã thế từ nhỏ (đọc Les Mots), Marguerite Duras đã vén màn cho
chúng ta
thấy thế, L’Amant, trang 29: “Mười lăm tuổi rưỡi... Tôi muốn viết văn.
Tôi đã
nói với mẹ tôi thế: điều tôi muốn chỉ là thế: viết” (Quinze ans et
demi... Je
veux écrire... ce que je veux c’est ca, écrire...)
Ðiều đáng
lưu ý: mười lăm tuổi rưỡi, bắt đầu yêu và bắt đầu muốn viết... Yêu và
viết xảy
ra đồng lúc, yêu là viết trong đầu một chút...
Nguyễn-Xuân Hoàng không nói thế, nhưng vẫn nói thế bằng một cách khác,
qua sự
xuất hiện hình ảnh bức tranh tự họa của Van Gogh, xuất hiện kín đáo và
một cách
quyết liệt nhất trong toàn thể quyển Người Đi Trên Mây, đến nỗi: “Còn
một mình
trong căn phòng đọc sách buồn bã tôi ngắm bức tự họa của Van Gogh tưởng
chừng
như thấy khuôn mặt của chính mình” (trang 25). Cái gì động đậy nơi đây?
Sự xung
đột giữa nghệ thuật và đời sống? Hoài vọng nghệ thuật đã kín đáo chuyển
hóa từ
hội họa đến chữ viết; Nguyễn- Xuân Hoàng đã vẽ chuyện tình của mình qua
một bức
tranh nhìn thấy trước: thay vì kể chuyện, Nguyễn-Xuân Hoàng đã kể
truyện trước
qua hình ảnh người đi trên mây tuyệt vời nhất, một người trọn vẹn sống
hết mình
cho nghệ thuật: Van Gogh. Nói một cách khác, tầm thường và dễ hiểu, dù
không có
bức tranh tự họa của Van Gogh thì từ lúc 15 tuổi rưỡi (cứ tạm đánh dấu
thời
gian theo điệu Marguerite Duras), Nguyễn-Xuân Hoàng đã tự họa trong đầu
(hay tự
viết trong đầu) trước khi “yêu” và “sống”. Sống là một cách viết, dù có
chữ nghĩa
hay không. Từ khi tiểu thuyết đúng nghĩa là tiểu thuyết (Cervantes và
Don
Quichotte, Don Quixote ở thế kỷ XVI; Don Quixote được viết vào khoảng
1603 và
1605), cho đến tiểu thuyết chống tiểu thuyết (anti-roman, chữ của
Sartre dùng để
gọi cái tự nhận là “tiểu thuyết mới” –nouveau roman) tiểu thuyết chỉ
đặt lên dấu
hỏi về THỰC TẠI CỦA THỰC TẠI (Octavio Paz, trong quyển The Bow and The
Lyr, nói
về thi ca và đề cập tiểu thuyết, đã bất ngờ, chỉ điểm ngay vào trung
tâm điểm của
nghệ thuật tiểu thuyết, trang 208: “... (the novel) is a question about
the
reality of reality”). Thực tại của Thực tại là viết về cái bị viết.
Viết là thực
tại? Tất cả tham vọng của tiểu thuyết gia đúng nghĩa là: viết về thực
tại như
là thực tại. Nhưng thực tại cũng có thể là ảo tưởng của thực tại và
thực tại của
ảo tưởng, và chính ảo tưởng của ảo tưởng lại là thực tại như là thế.
Sau cùng
và tuyệt vời nhất, với Samuel Beckett thì thực tại của thực tại lại là
không thực,
là hư vô, là không Tánh: “Không có gì thực hơn cái không thực” (Nothing
is more
real than nothing). Lúc viết về Proust, Beckett đã nói lên sự thực tàn
bạo và
khủng khiếp: “Nghệ thuật là sự phong thần nỗi cô độc. Không có sự
truyền thông
giao cảm nào cả giữa con người với con người vì không thể có cái gì khả
dĩ dùng
để truyền đạt sự giao cảm” (Samuel Beckett, Proust, trang 47: “And art
is the
apotheosis of solitude. There is no communication because there are no
vehicles
of communication”).
Những nhà
phê bình thời thượng có thể ung dung tự tại cho rằng Người đi trên mây
và
L’Amant không phải là “văn chương nhập cuộc” (“littérature engagée”,
chữ thời
thượng của Sartre), nhưng có sự nhập cuộc nào vĩ đại lớn lao cho bằng
sự nhập
cuộc vào chính sự cô độc vô phương cứu chữa của tất cả con người trên
mặt đất?
Một bậc thầy văn chương nhập cuộc, André Malraux, suốt đời hành động,
nhập cuộc,
“dấn thân” trọn vẹn, cũng phải thú nhận qua quyển tiểu thuyết cuối cùng
Les
Noyers de l’Altenburg rằng tất cả những hành động đều phù phiếm, lịch
sử là ảo
giác, tâm lý học Tây phương là ảo tưởng và con người vẫn là cô độc
trong sự trống
rỗng bao la của vũ trụ... Malraux đã nhìn thấy gì?
Bỏ ra ngoài
tất cả những “thí nghiệm” phù phiếm của loại văn chương “nhập cuộc” và
loại văn
chương “chống nhập cuộc”, bỏ ra ngoài loại tiểu thuyết “chống tiểu
thuyết” và
loại tiểu thuyết gọi là “mới”, phải nhận rằng sự thực phũ phàng của tất
cả chữ
nghĩa là một “ẩn dụ” (siêu chuyển dụ, metaphor) hoài vọng về một siêu
chuyện dụ
(ẩn dụ) khác; dù Alain Robbe-Grillet đã chống đối việc sử dụng metaphor
trong
tiểu thuyết, nhưng sự chống đối đó cũng bị kẹt lại trong một siêu
chuyển dụ vô
phương cứu chữa: “tạo tác một đối tượng” (F. John Weightman, Alain
Robbe-Grillet in The Novelist as Philosopher, edited by John
Cruickshank, trang
238, và trang 230 - 252).
Từ lúc nào sự
vật và sự việc biến thành đối tượng (object, object)? Alain
Robbe-Grillet vẫn
chưa có đi đủ hành trình triết lý Tây phương để nhìn thấy hết tất cả
những chuyển
động “siêu hình học” (siêu thể học), từ ontology của triết lý Hy Lạp
đến
Descartes, đến Hư vô của Plato (Platon), Hư vô của Kant, Hư vô của
Hegel, Hư vô
của Nietzsche và Heidegger, và nhất là trong lãnh vực văn chương tiểu
thuyết:
Hư vô của Samuel Beckett. “Ðối tượng” nào xô đẩy được hư vô đi vào
tuyệt lộ?
Cái vị thế đặc biệt của Nguyễn Xuân Hoàng và Marguerite Duras không nằm
trong
những “thí nghiệm” phù phiếm của văn chương nhập cuộc và văn chương phi
nhập cuộc,
văn chương mới và văn chương cũ. Hoàng và Duras đã ở chỗ khác. Truyện
của Hoàng
và Duras không phải là chuyện mà là truyện. Và truyện có thể là về cái
này hoặc
về cái kia hoặc không về cái gì cả. Chính sự căng thẳng cùng độ trong
truyện của
Hoàng và Duras đã khiến chúng ta suy nghĩ, nhất là khi sự căng thẳng ấy
đã được
giấu kín qua sự bình thường của câu chuyện tình dang dở. Chuyện bình
thường
căng thẳng cùng độ với truyện. Thực ra không có sự căng thẳng nào trong
câu
chuyện của Hoàng và Duras, ngoài sự căng thẳng vô hình giữa truyện và
chuyện,
giữa truyện đang viết trong đầu và chuyện tình yêu đang “sống”, giữa
hoài vọng
của chữ nghĩa và tình yêu tuyệt vọng, vì chữ nghĩa tạo ra tình yêu và
chữ nghĩa
đã làm sụp đổ tất cả tình yêu, đang khi chính chữ nghĩa là điều kiện
khả tính
cho tất cả tình yêu. Không thể sống mà không kể chuyện, lại còn không
thể sống
nổi khi mình phải kể truyện. Dù một người không biết đọc và không biết
viết,
người ấy cũng bị chữ nghĩa loài người tạo đủ âm binh tàn phá. Có lẽ
chết đi rồi,
cũng phải kể chuyện hoặc kể truyện. Sống kiếp này viết, và kiếp sau,
cũng phải
viết, viết có chữ nghĩa hay không chữ nghĩa. Một siêu chuyển dụ “chết”
cho một
siêu chuyển dụ “sống”.
... Với lối
viết bình dị thông thường, Nguyễn-Xuân Hoàng nói lên bi kịch của một
người đi
trên mây theo câu chuyện của “người khác” hay bi hài kịch của một người
không
đi trên mây theo cái truyện của mình phải viết để biết mình là ai...
Một người
đã tự nhận thấy mình trong bức Tự họa của Van Gogh thì nhất định không
thể là
người đi trên mây và người ấy chính là mây, là mộng, hoạn, bào, ảnh,
như lộ diệc
như điện... Van Gogh là lý tưởng đúng nhất của Nguyễn-Xuân Hoàng: Người
ấy hy
sinh tất cả cho nghệ thuật, hy sinh tất cả tình yêu cho một cái gì khác
rất
mong manh, thoáng hiện thoáng mất. Ðôi dòng chữ nghĩa đôi câu chuyện
tình và một
truyện không bao giờ chấm dứt. Hay chỉ tạm chấm dứt. Cái ý nghĩa tuyệt
vời nhất
có thể trao tặng cho Nguyễn-Xuân Hoàng và Marguerite Duras là như thế
này: truyện
Người đi trên mây không kể chuyện gì khác, ngoài chính cái truyện kể
truyện về
chính cái truyện, cũng như truyện L’Amant kể truyện về chính cái truyện
ấy. Quyển
tiểu thuyết được coi là vĩ đại nhất của thế kỷ XX là tác phẩm của James
Joyce
(Ulysses và Finnegans Wake). Bao nhiêu thế hệ phê bình gia lỗi lạc từ
trên nửa
thế kỷ đã tìm hiểu ý nghĩa của tác phẩm James Joyce; người thì cho ý
nghĩa là
như thế này, người thì cho ý nghĩa là như thế kia (chẳng hạn T. S.
Elliot thì
cho rằng Joyce dùng “phương pháp thần thoại” – “a mythical method”),
người thì
cho rằng Joyce viết về sự trở về quê hương trong ý nghĩa nóstos của
Homer, người
thì cho rằng Joyce viết về cái chết, và có người phải đợi đến lần tái
bản năm
1984, sau khi đã hiệu đính lại trên 5,000 lỗi in sai, thì mới biết rằng
Joyce
viết về tình yêu; tóm lại, tất cả những phê bình gia đều cố tìm hiểu ý
nghĩa
căn bản trong mọi ý nghĩa. Chỉ có Samuel Beckett đã nói lời tối hậu:
“Tiểu thuyết
của JOYCE là nói về chính tiểu thuyết ấy” (his novel is about itself).
Lời nhận
xét thiên tài của Samuel Beckett có thể được xem như là nguyên lý tối
thượng
cho sự phê bình văn nghệ, để phê bình tất cả mọi ý nghĩa hay vô nghĩa
của tất cả
mọi tiểu thuyết (chuyện hay là truyện?). Từ đó việc viết tiểu thuyết và
việc đọc
tiểu thuyết không còn là sự tiêu khiểu “đi trên mây”, và trở thành một
câu hỏi
chết sống, đâm thẳng vào trái tim của thực tại, thực tại của thực
tại... Nguyễn-Xuân
Hoàng đã hiểu thế và đã viết một truyện về chính cái truyện, cũng như
Marguerite Duras đã làm thế, cũng như bất cứ nhà văn nào đúng nghĩa đều
đã làm
thế, vô thức hay ý thức. Kẻ Tà Đạo trở thành Người Đi Trên Mây, cũng
như quyển
Un Barrage Contre Le Pacifique của Marguerite Duras trở thành quyển
L’Amant. Kẻ
Tà Đạo của Nguyễn-Xuân Hoàng và Un Barrage Contre Le Pacifique đều là
truyện
dài và trở thành truyện khác, ngắn hơn, nhưng vẫn là truyện về chính
truyện.
Và truyện
không phải chỉ là chuyện. Albert Camus đã kể chuyện về Balzac trong
L’Homme
Révolté khi đề cập đến vấn đề nổi loạn và tiểu thuyết: “Một lần Balzac
nói chuyện
lâu dài về chính trị và vận mạng thế giới...”, rồi sau đó Balzac ngừng
nói, rồi
nhập đề: “Bây giờ chúng ta hãy trở lại những vấn đề quan trọng”. Camus
cho biết
rằng những vấn đề quan trọng ấy chính là những quyển tiểu thuyết của
Balzac...
Những vấn đề quan trọng hơn chính trị và vận mệnh thế giới: tiểu thuyết
và viết
tiểu thuyết. Balzac đã nhảy vào truyện sau khi đã nói chuyện. Mây đã
tan biến.
Garden
Grove, 7 tháng Ba – 1988
PHẠM CÔNG
THIỆN
Tiễn bạn
Trong những lần trò chuyện,
tôi chưa bao giờ bắt gặp ở anh một nét tự mãn nào cả. Lúc nào anh cũng
than thở là chưa viết được như anh mong muốn. Có lần, sau khi khen
Hoàng Ngọc-Tuấn và tôi, anh hạ giọng; “Nhìn bọn em, anh mới thấy thế hệ
của bọn anh cái gì cũng lớt phớt, sách tiếng Pháp đọc được một chút,
sách tiếng Anh đọc được một chút, chẳng có cái gì biết thật sâu cả.” Tôi không ngạc nhiên về lời khen
của anh. Nhưng tôi ngạc nhiên về cách khen. Anh không nhất thiết phải tự hạ
mình và thế hệ của mình xuống đến như vậy.
Thầy Kuốc: Blog VOA
GCC cũng nghĩ như Thầy Kuốc: " Anh không nhất thiết
phải tự hạ mình và thế hệ của mình xuống đến như vậy"!
10:59 AM NM
trả lời đề nghị nên rút. Chuyện đã qua...
12
AM, tôi đọc
lại bản thảo và delete tất cả những đoạn có liên quan đến Nguyễn Xuân
Hoàng,
khoàng 1 trang.
Trần Hoài Thư [Nhật Ký]
Thảo nào Brodsky cực tởm thứ văn
chương ai điếu!
NQT
As a theme,
death is a good litmus test for a poet's ethics. The "in memoriam"
genre is frequently used to exercise self-pity or for metaphysical
trips that
denote the subconscious superiority of survivor over victim, of
majority (of
the alive) over minority (of the dead).
Joseph
Brodsky: Anna Akhmatova Poems' Introduction
[The Keening Muse]
Như một đề tài, cái chết
là “lửa thử vàng”, một
thứ thuốc thử đạo hạnh của một nhà thơ. Cái giọng 'tưởng niệm', cái
dòng văn
chương ‘ai điếu’, thường được sử dụng để thực tập sự tự thương thân
trách phận,
hay là trong những chuyến đi siêu hình làm bật ra tính ưu việt tiềm ẩn
của kẻ sống
sót đối với nạn nhân, của đa số (người sống) đối với thiểu số (ngưòi
chết).
Mai Thảo, tưởng
là TTT chết rục ở trong tù VC, bèn ai điếu bạn, bằng cách phịa ra 1 kỷ
niệm,
làm bật ra tính “ưu việt của kẻ sống sót, đối với nạn nhân” [TTT chết
rồi, làm
sao nói ngược lại được]:
Thanh
Tâm Tuyền, căn gác xép ám khói ở toà soạn Dân Chủ,
hắn hỏi xin một điếu
thuốc và tôi tưởng hắn là thợ sắp chữ.
Một tên
tiến sỡi dởm, 1 câu tiếng Anh bình thường, không dịch được, mà
viết về 1
nhà văn đi trước bằng giọng nhơ bẩn đến như thế!
Đâu chỉ
về anh mà cả 1 thế hệ
của anh!
Chúng ta
cứ
thử tưởng tượng, giả như NXH không hề nói như thế, làm sao ông nói lại
được với
1 tên vô đạo đức như tên khốn này?
Trường
hợp TTT, may quá, ông chưa chết. Và ông cũng phải đợi bạn mình
nằm xuống, mới đi 1 đường "sửa lại cho đúng"!
Gấu, khi
NXH
còn sống, thấy điều gì cần viết về bạn, là bèn viết liền, dù có phải
mang tiếng xấu
[“bad” boy], nhưng thà là thế, để bạn có gì cần thì viết mẹ nó ra, rồi
ra đi
thanh thản.
Chứng cớ
là nửa đêm, anh
phôn, [26.3.2012 ( 1)] rồi xin lỗi, vì không biết là nửa
đêm, và cúp máy, sau đó, lần
gặp lại ở Quận Cam, GCC thấy anh đi cùng 1 lũ chẳng tên nào Gấu ưa, ở
tiệm phở Nguyễn Huệ, Gấu vờ luôn, ra Factory uống cà phê, thì nghe phôn
anh, tao ra liền gặp mày, thế là ra liền, chụp liền vài cái hình.
GCC đã biết
trước lũ khốn nạn như những tên Kuốc Kiếc này sẽ viết như thế nào về
anh rồi, từ
khi anh còn sống!
Lũ này tởm thực. NQT
Thú thực, cả
1 đời viết lách, Gấu chưa từng gặp 1 tên nào ngu dốt, xấc láo, hỗn
xược, như
tên K này! [Cái chuyện nhà văn lớn NXH thổi tôi và bạn tôi là HNT, thì
tôi
không lạ, tuy nhiên cách anh ta và cả thế hệ của anh ta hạ mình như
thế, thì
tôi hơi bị lạ!]
Đã dốt mà lại ưa bịp. Một câu tiếng Anh không biết, mà viết cả 1 cuốn
“Luận án
Tiến sĩ”, bằng tiếng Anh!
Rồi viết bài nào thì cũng làm cả 1 rừng tiểu chú, những sách vở trích
dẫn! Toàn
thứ dữ không à!
Quái đản thực!
Richie
& Friends
Thu 2014
Thơ
Mỗi Ngày
Vila-Matas
@ ML
Kafka:
Trước Pháp Luật
Bản dịch tiếng Anh mới nhất
IN FRONT OF
THE LAW
IN FRONT OF
the Law stands a doorman. A man from the country comes to this doorman
and asks
to be admitted to the Law, but the doorman says that he can't allow him
to
enter. The man reflects on this and then asks if he can assume that
he'll be
allowed to enter later. "It's possible," says the doorman, "but
not now." Since the gate to the Law remains open and the doorman steps
to
the side, the man bends down to look through the gate into the
interior. When
the doorman notices this, he laughs and says, "If it tempts you so
much,
try to get in despite my warning. But know this: I'm powerful, and I'm
only the
lowliest doorman. In every chamber stands another doorman, each more
powerful
than the one before. Though powerful myself, the very gaze of the third
is more
than I can endure." The man from the country hadn't anticipated such
difficulties;
the Law is supposedly accessible to anyone at any time, he thinks, but
now, as
he looks at the doorman in his fur coat more carefully, at his large,
pointed
nose, the long, thick, black Cossack beard, he decides to continue
waiting
until he receives permission to enter. The doorman gives him a stool
and lets
him sit down to the side of the door. There he sits for days and years.
He
makes many attempts to be admitted and wears out the doorman with his
pleas.
The doorman often subjects
him to a series of questions, asks him about his home and many other
things,
but they're questions posed in a detached way, the sort that great
lords pose,
and in the end he always repeats that he still can't grant him entry.
The man, who
had fully equipped himself for his journey, uses everything he has, no
matter
how valuable, to bribe the doorman. The latter accepts everything but
says at
the same time: "I'm only accepting this so that you won't think that
you've overlooked something." Over the many years the man watches the
doorman
almost constantly. He forgets about the other doormen, and this first
one seems
to him to be the only obstacle between him and access to the Law. He
curses his
bad luck, in the first years recklessly and loudly; later, as he grows
old, he continues
only to grumble to himself quietly. He becomes like a child, and since
in his
perennial observations of the doorman he has come to know even the
fleas in the
collar of his fur coat, he even asks the fleas to help him change the
doorman's
mind. Finally, his vision becomes weak, and he doesn't know whether
it's
getting darker around him or his eyes are only deceiving him. But now
he recognizes
in the darkness a brilliance which radiates inextinguishably from the
door of
the Law. He doesn't have much longer to live now. As he's near the end,
all of
his experiences of the entire time culminate in a question that he
hasn't yet
asked the doorman. Since he can no longer raise his stiffening body, he
motions
to him. The doorman must bend very low for him since their difference
in height
has changed much to the latter's disadvantage. "What do you want to
know
now?" asks the doorman. "You're insatiable." "Everyone
strives for the Law," says the man. "How is it that in these many
years no one except me has asked to be admitted?" The doorman realizes
that the man is already near the end, and to reach his failing ears he
roars at
him: "No one else could be admitted here because this entrance was for
you
alone. I'll now go and close it."
Trước Pháp Luật
Trước Pháp
Luật có tên gác cửa. Một người nhà quê tới và xin phép vô, nhưng tên
gác nói, ta
không thể cho phép. Người nhà quê suy nghĩ về vụ này và rồi hỏi liệu
lát nữa,
có được không. Tên gác nói, “có thể”, nhưng “lúc này thì chưa”. Bởi là
vì cửa mở,
và tên gác thì đứng né qua 1 bên, cho nên người nhà quê bèn cúi xuống
dòm vô
bên trong. Tên gác bèn cười và nói, Nếu mi thèm như thế, thì cần gì ta,
cứ vô đại
đi.
Tay dịch giả
này, có bằng tiến sỡi dịch, và những tiểu chú của ông về tại làm sao
lại dịch lại
Kafka, cực thú, Gấu có scan, và sẽ dịch cùng với truyện ngắn Trước Pháp
Luật.
Kết cục thì nó phải như thế đó: Đếch làm
sao giải thích được!
Trên TLS, số 7 Sept 2012,
GABRIEL JOSIPOVIC điểm 1 số sách mới ra lò về Kafka - vị thầy gối đầu
giường của Sến - đưa ra nhận xét, vào cái ngày 23 Tháng Chín này, thì
kể như là đúng 100 năm, ngày Kafka viết cái truyện ngắn khủng ơi là
khủng, “Sự Xét Xử”. Và có thể nói, vào giờ này, độc giả chúng ta cũng
chẳng hiểu ông nhiều hơn, so với những độc giả đầu tiên của ông, và có
lẽ sự thể nó phải như thế, nghĩa là nó phải chấm dứt bằng cái sự đếch
làm sao hiểu được Kafka!
Ở đây, cũng phải đi 1
đường ghi chú ngoài lề!
1. Cuốn Bếp Lửa
của TTT, chấm dứt bằng lá thư của 1 tên Mít, là Tâm, bỏ đất mẹ ra đi,
đếch thèm trở về, viết cho cô em bà con, buộc vào quê hương thì phải là
ruột thịt, máu mủ. (1)
Quái là, đây cũng là nhận xét của Walter Benjamin, về Kafka: Cái con
quái vật, con bọ VC, do Chúa Sẩy Thai mà có đó, nó chỉ trở thành bọ,
vào 1 buổi sáng, khi ngủ dậy, ở trong căn nhà của bố mẹ nó.
Điều này giải thích, sự
kiện, Nobel Toán Mít phải nhận cái nhà cho bố mẹ xong xuôi, rồi mới bỏ
đi được!
2. Cuốn Sinh Nhật
của bạn quí của Gấu, khi mới ra lò, Gấu đề nghị, nên đổi tít, là Sinh
Nhạt, và còn đề nghị viết bài phê bình điểm sách, “Đi tìm 1 cái mũ
đã mất”:
Ui chao, đây đúng là chuyện xẩy ra với tác phẩm của Kafka, theo bài
điểm trên như đoạn sau đây cho thấy:
Truyện ngắn mà Brod gọi là
"Prometheus", được kiếm thấy trong Sổ Tay Octavo Notebooks, của Kafka, đã
được gạch bỏ [crossed out]. Câu kết thúc của truyện: “Giai thoại thường
toan tính giải thích cái không thể giải thích; bởi vì dưng không trồi
lên sự thực [chữ của TTT, trong Cát
Lầy], nó phải lại chấm dứt trong không thể cắt nghĩa được”
[Nguyên văn: "Legend attempts to explain the inexplicable, because it
arises from a ground of truth, it must end in the inexplicable”]
Nói rõ hơn, nhân loại
không làm sao đọc được Kafka vì có 1 thằng cà chớn Gấu "nào đó",
nẫng mẹ mất cái nón đội đầu của ông!
Bạn quí của ông, là Brod, thì cắt mẹ mất chim của Kafka, để biến ông
thành Thánh!
Thánh đâu cần chim!
(1)
Thanh,
Không ngờ Thanh còn nhớ đến anh.
Anh cảm động khi đọc thư. Anh tưởng nơi quê hương không còn ai nhớ đến
anh nữa. Đôi lúc anh vẫn ân hận rằng anh không buộc với xứ sở một dây
liên lạc nào ngoài anh ra. Nguời ta gặp nhau ở ngoài phố rồi quên nhau
ngay, thì ở quê hương hay một phương trời nào khác gì nhau.
Một hôm tình cờ anh nghe đài phát thanh và được gặp giọng hát Thanh.
Vẫn giọng ấy. Trở về mái nhà xưa. Anh định viết cho Thanh nhưng anh
nghĩ biết đâu, Thanh chẳng đã quên anh rồi như mọi người. Được thư
Thanh anh phải cám ơn Thanh nhiều.
Thanh lại sống một mình. Nga đã lấy chồng. Chắc Nga thôi viết văn rồi
nhỉ? Bên này anh cũng có người bạn gái là văn sĩ nổi danh. Thanh hát
lại là phải, anh đã chẳng nói thế sao? Vợ chồng Minh vẫn mạnh khỏe,
được mấy cháu rồi? Hãy nói với Minh lấy tên anh đặt cho một đứa con của
Minh để anh được đinh ninh anh còn nhiều liên lạc với quê hương.
Chúng ta là những người sinh ra để đi một mình suốt đời. Thanh hãy can
đảm nhận lấy điều ấy. Đi một mình suốt đời khó nhọc đấy chứ. Không có
một sự gì ràng buộc ta, thật là bất hạnh.
Những buổi trời lạnh, tự sửa soạn bữa ăn lấy, anh nhớ Thanh hơn hết.
Anh chỉ còn có Thanh và chắc Thanh chỉ còn có anh. Hãy cho anh sự tin
tưởng khi anh có dịp trở về quê hương, anh đã có sự ràng buộc, ấy là
Thanh. Không phải những người bạn. Bạn chưa đủ. Buộc vào quê hương phải là những
người cùng máu mủ với mình.
Chúng ta phải tự tạo lấy sự ràng buộc nhau để cùng bám chặt quê hương,
nếu không chúng ta sẽ mất trong sự quên lãng.
Anh yêu quê hương vô cùng và anh yêu em vô cùng.
Tâm
Viết xong tại Thủ Dầu Một
vào tháng 10-1956
Đọc cái thư thấy sến ơi là
sến.
Nhưng
phải như thế, thì mới cân bằng được với cái nội dung của 1 cuốn sách,
viết về anh Bắc Kít, Hà Lội, chưa sống đã già, chưa già đã chết, trong Bếp
Lửa.
NXH chez Phan Nguyên
"Ý nghĩ
trên cỏ" không phải là essay, mà là 1 thứ ký, tạp ghi, đại khái thế.
Trong số những
triết gia, NXH chắc là chỉ khoái Camus. Anh đã từng dịch Sartre, nhưng
câu mà
anh “tâm đắc” nhất, là của Camus, suy nghĩ, cuộc đời có đáng sống hay
không,
là trả lời câu hỏi "cà chớn" nhất của triết học!
[Câu tiếng Anh: There
is but one truly serious philosophical problem and that is suicide.
Albert
Camus]
Nhân ghé tiệm
sách, thấy cuốn mới nhất về Camus, TV đã từng giới thiệu, nhớ đến bạn,
bèn bệ về,
bởi là vì lèm bèm về Cà, cũng là 1 cách lèm bèm về NXH!
Vả chăng, tính chôm cái tít choàng cho bạn mình: Một đời đáng sống!
“Căn nhà ngói
đỏ”, Nha Trang: Camus cũng có, và là Tipasa. Trong "Nuptials at
Tipasa", “Return to Tipasa”, Camus dành những lời ướt át, tình cảm quấn
quýt
nhất của ông cho nó:
Two of his
most lyrical essays, "Nuptials at Tipasa" and "Return to
Tipasa," express his deep attachment to the village. The first essay,
written in 1936 when Camus was an underemployed young man with
oversized ambitions,
describes his experience at Tipasa in frankly erotic terms: "Everything
seems futile here except the sun, our kisses, and the wild scents of
the earth
.... Here, I leave order and moderation to others. The great free love
of nature
and the sea absorbs me completely.'"
Trong những lần trò chuyện,
tôi chưa bao giờ bắt gặp ở anh một nét tự mãn nào cả. Lúc nào anh cũng
than thở là chưa viết được như anh mong muốn. Có lần, sau khi khen
Hoàng Ngọc-Tuấn và tôi, anh hạ giọng; “Nhìn bọn em, anh mới thấy thế hệ
của bọn anh cái gì cũng lớt phớt, sách tiếng Pháp đọc được một chút,
sách tiếng Anh đọc được một chút, chẳng có cái gì biết thật sâu cả.” Tôi không ngạc nhiên về lời khen
của anh. Nhưng tôi ngạc nhiên về cách khen. Anh không nhất thiết phải tự hạ
mình và thế hệ của mình xuống đến như vậy.
Thầy Kuốc: Blog VOA
GCC cũng nghĩ như Thầy Kuốc: " Anh không nhất thiết
phải tự hạ mình và thế hệ của mình xuống đến như vậy"!
10:59 AM NM
trả lời đề nghị nên rút. Chuyện đã qua...
12
AM, tôi đọc
lại bản thảo và delete tất cả những đoạn có liên quan đến Nguyễn Xuân
Hoàng,
khoàng 1 trang.
Trần Hoài Thư [Nhật Ký]
Thảo nào Brodsky cực tởm thứ văn
chương ai điếu!
NQT
As a theme,
death is a good litmus test for a poet's ethics. The "in memoriam"
genre is frequently used to exercise self-pity or for metaphysical
trips that
denote the subconscious superiority of survivor over victim, of
majority (of
the alive) over minority (of the dead).
Joseph
Brodsky: Anna Akhmatova Poems' Introduction
[The Keening Muse]
Như một đề tài, cái chết
là “lửa thử vàng”, một
thứ thuốc thử đạo hạnh của một nhà thơ. Cái giọng 'tưởng niệm', cái
dòng văn
chương ‘ai điếu’, thường được sử dụng để thực tập sự tự thương thân
trách phận,
hay là trong những chuyến đi siêu hình làm bật ra tính ưu việt tiềm ẩn
của kẻ sống
sót đối với nạn nhân, của đa số (người sống) đối với thiểu số (ngưòi
chết).
Mai Thảo, tưởng
là TTT chết rục ở trong tù VC, bèn ai điếu bạn, bằng cách phịa ra 1 kỷ
niệm,
làm bật ra tính “ưu việt của kẻ sống sót, đối với nạn nhân” [TTT chết
rồi, làm
sao nói ngược lại được]:
Thanh Tâm Tuyền, căn gác xép ám khói ở toà soạn Dân Chủ,
hắn hỏi xin một điếu
thuốc và tôi tưởng hắn là thợ sắp chữ.
Một tên tiến sỡi dởm, 1 câu tiếng Anh bình thường, không dịch được, mà
viết về 1
nhà văn đi trước bằng giọng nhơ bẩn đến như thế!
Đâu chỉ về anh mà cả 1 thế hệ
của anh!
Chúng ta cứ
thử tưởng tượng, giả như NXH không hề nói như thế, làm sao ông nói lại
được với
1 tên vô đạo đức như tên khốn này?
Trường hợp TTT, may quá, ông chưa chết. Và ông cũng phải đợi bạn mình
nằm xuống, mới đi 1 đường "sửa lại cho đúng"!
Gấu, khi NXH
còn sống, thấy điều gì cần viết về bạn, là bèn viết liền, dù có phải
mang tiếng xấu
[“bad” boy], nhưng thà là thế, để bạn có gì cần thì viết mẹ nó ra, rồi
ra đi
thanh thản.
Chứng cớ là nửa đêm, anh
phôn, rồi xin lỗi, vì không biết là nửa đêm, và cúp máy, sau đó, lần
gặp lại ở Quận Cam, GCC thấy anh đi cùng 1 lũ chẳng tên nào Gấu ưa, ở
tiệm phở Nguyễn Huệ, Gấu vờ luôn, ra Factory uống cà phê, thì nghe phôn
anh, tao ra liền gặp mày, thế là ra liền, chụp liền vài cái hình, như
cái sau đây:
GCC đã biết
trước lũ khốn nạn như những tên Kuốc Kiếc này sẽ viết như thế nào về
anh rồi, từ
khi anh còn sống!
Lũ này tởm thực. NQT
NXH's Poems of the
Night
Through the
years, a man peoples a space with images of provinces, kingdoms,
mountains,
bays, ships, islands, fishes, rooms, tools, stars, horses, and people.
Shortly
before his death, he discovers that the patient labyrinth of lines
traces the
image of his own face.
Ròng rã bao năm tháng, một người đàn ông làm đầy không gian bằng những
hình ảnh tỉnh lỵ, vương quốc, núi non...
Nào Nha Trang, nào Ngôi Nhà Ngói Đỏ, nào Người Đi Trên Mây...
Đúng vào lúc đi xa, anh ta khám phá ra, cái mê lộ kiên nhẫn đó, chính
là bộ mặt đẹp giai của mình!
-Jorge Luis
Borges
Bientôt, je serai tout le monde, je serai mort (1)
Chẳng bao lâu nữa, tớ sẽ là cả thế giới, tớ... ngỏm
-Jorge Luis
Borges
Cầm
bằng thí cho gió
Ngày chúng ta đi
Gió mò xuống
Lấy đi những dấu chân của chúng ta
Gió lấy bụi,
Phủ những dấu vết chúng ta để lại
Khi tản bộ
Ngoài ra,
Thì kể như là chúng ta vưỡn còn sống
Thế đó,
Gió là kẻ chúng ta,
Cầm bằng thí cho nó
"Bàn chân ai rất nhẹ,
Tựa hồn những năm xưa"!
Hà, hà!
Borges viết về cái khoảnh
khắc xém lên chuyến tàu suốt của GCC ở bên ngoài khu Phước Lộc Thọ:
The Suicide
Not a single star will be
left in the night.
The night will not be left.
I will die and, with me,
the weight of the intolerable universe.
I shall erase the pyramids, the medallions,
the continents and faces.
I shall erase the accumulated past.
I shall make dust of history, dust of dust.
Now I am looking on the final sunset.
I am hearing the last bird.
I bequeath nothingness to no one.
-A.R.
Đi Xa
Đêm nay Gấu sẽ không cho
phép ngôi sao nào được bỏ lại ở trên bầu trời
Đêm cũng đếch được bỏ lại
Gấu sẽ đi xa, và, cùng với Gấu
Là cái sức nặng đếch làm sao chịu đựng nổi của vũ trụ
Gấu sẽ xoá sạch những kim tự tháp
Những cái mề đay, nhất là cái của cái tên Nobel Toán người xứ Bắc Kít
Những đại lục, và những khuôn mặt.
Gấu sẽ xóa sạch quá khứ được tích tụ từ bốn ngàn năm của xứ Mít –
như vậy đủ rồi, với Gấu Cà Chớn –
Gấu sẽ làm cho lịch sử Mít biến thành bụi, bụi của bụi.
Và bi giờ, Gấu đối diện với buổi mặt trời lặn lần cuối cùng
Ở bên ngoài khu Phước Lộc Thọ, ở thủ đô lưu vong của giống Mít.
Gấu nghe tiếng chim cuối cùng
Gấu đếch thèm để lại chúc thư văn chương cho bất cứ thằng chó nào!
Hà, hà!
Gấu quen
NXH, là qua HPA, và HPA, qua ông anh vợ hụt, tức anh BHD, khi học cùng
Văn
Khoa, thời gian Gấu đang học Bưu Điện. Chưa ai viết lách gì cả. Khi HPA
đậu sư
phạm Đà Lạt, thì ở Sài Gòn, Gấu đi làm Bưu Điện, rồi ăn mìn VC, rồi
viết Những
Ngày Ở Sài Gòn, khi đang nằm dưỡng thương trên Đài Liên Lạc VTD thoại
quốc tế,
kế bên Đài Phát Thanh Sài Gòn, nhờ 1 anh bạn trong Thất Hiền, là Trần
Công Quốc,
đem tới nhà TTT, ông cho đăng trên Nghệ Thuật, số 9. Khi HPA ra trường
về Sài Gòn,
Gấu giới thiệu anh với NDT, và cả đám viết cho Văn, đại khái như thế.
Và nếu như
thế, thì quen NXH ở La Pagode.
"Huyền thoại", đám
“tiểu thuyết mới” hay ngồi La Pagode, thực sự là do Gấu gây nên.
Vì làm
thêm,
part time, cho UPI, sáng nào Gấu cũng phải xuống văn phòng [số 19 thì
phải, đường
Ngô Đức Kế, gần bùng binh bờ sông có bức tượng Trần Hưng Đạo], để coi
có hình
chuyển bằng vô tuyến điện cho cữ 8 giờ sáng, đi Tokyo, thường là không,
vì đã
chuyển cữ 6 giờ chiều hôm trước, trừ hình đặc biệt, có trong đêm, thế
là ghé La
Pagode
uống cà phê, chờ bạn bè cũng lục tục ra.
GCC đã viết về chuyện này rồi.
Mấy ông nhà văn lính
thường chửi tụi Gấu
là nhà văn salông, biết gì về cuộc chiến, may mắn hơn đám họ, Gấu nghe
thật buồn
cười.
Cũng đi lính như họ, may cái
con khỉ gì chứ?
Cả đám Gấu khi đó, được hoãn dịch, thì là vì lý do nghề
nghiệp, NXH, HPA, nhà giáo, Gấu, chuyên viên "tối cần thiết"… đến
khi có lệnh
Tổng Động Viên, là dính hết, có ai thoát đâu?
Viết dở như
hạch, mấy tờ báo Sài Gòn không đăng, thế là đổ hết cho nhóm Gấu, nhảm
thực!
Của đáng tội, sau cũng được đăng, cũng thành nhà văn, còn bảnh hơn tụi
Gấu, vì
trực tiếp tham dự cuộc chiến.
Tuy nhiên, theo Gấu, đa phần viết na ná, làng nhàng như nhau. Đó
là sự thực.
Ngay từ hồi đó, là Gấu đã ngửi ra điều này, và đã cảnh cáo rồi, đâu
phải đợi tới tàn cuộc chiến!
Blog
PCH
Ra mắt Lần
Cuối Sài Gòn @ Khánh Trường’s, 1998.
Biếu.
Không
bán!
Nguyễn
Đình Thuần & Lê
Tài Điển & Nguyễn Xuân Hoàng
Băng "Tiểu
Thuyết Mới" with "Đặc Sản Nam Bộ" Nguyễn Văn Sâm
Lê
Tài Điển & NQT & Đinh Cường @ “La
Pagode” [Factory Bistro] Cali
Lê Minh Hà
14 mins ·
Berlin, Germany ·
Khi đó Mai
Thảo vừa mất, Nguyễn Xuân Hoàng thay Mai Thảo làm VĂN. Lê Minh Hà vừa
xuất hiện
thực sự trên báo chí hải ngoại, với các truyện ngắn. Đầu tiên là ở DIỄN
ĐÀN
(Pháp), rồi HỢP LƯU; VĂN HỌC (Mỹ). Còn nhớ một anh bạn dân Bắc di cư
năm 54 lớn
lên giữa Sài Gòn bảo "không bao giờ Lê Minh Hà có thể xuất hiện trên
VĂN
ngay cả khi không còn Mai Thảo. Văn là Văn, họ có cách đọc riêng". Tôi
im
lặng. Khi đó tôi chưa gửi bài cho Văn. Nhưng tôi biết nếu VĂN không
phải là sự
nối dài của SÁNG TẠO thì cũng là căn cứ ở nước ngoài của nhiều người
trong nhóm
đó - Những người có chung với tôi một miền đất sinh ra, lớn lên, nhưng
đã từ đó
hai lần ra đi, có chọn lựa, lần ra đi sau là mãi mãi. Nếu những tên
tuổi ấy có
ngoảnh mặt trước cái tên của một người viết khi tự nói về mình đều rất
thành thật
nhận rằng lớn lên dưới mái trường Xã hội chủ nghĩa thì cũng là dễ hiểu,
khi tôi
, anh, chúng ta đều là người Việt Nam. Hoàng Ngọc Hiến những ngày đó
chưa để đời
cái câu "Cái nước mình nó thế". Nhưng mà đúng vậy: Cái nước mình nó thế.
Chính khi đó
tôi nhận được lời nhắn của nhà văn Nguyễn Mộng Giác. Rằng Nguyễn Xuân
Hoàng muốn
xin Hà một truyện cho VĂN. Cho tờ tạp chí văn học ở hải ngoại mà tôi đã
nghĩ
đúng như anh bạn không khi nào dành một mẩu đất cho cái tên Lê Minh Hà,
cũng
như ai viết chữ Việt nhưng là người Bắc, người Hà Nội của cái thời tất
cả (cũng
có thể là giả vờ) lên đồng tin "đường lên hạnh phúc rộng thênh thênh"
(Tố Hữu).
Nhận được
cái gật qua điện thoại của tôi, sẵn có mấy truyện nằm trong kho của Văn
Học, thực
ra là mấy truyện Văn Học đặt viết thành cả serie, anh Nguyễn Mộng Giác
chuyển
qua anh Nguyễn Xuân Hoàng một truyện. Trăng góa. Tên của truyện đó tôi
sẽ dùng
làm tên cả tập truyện xuất hiện lần đầu tại Mỹ năm 1996, về Hà Nội của
tôi,
thành phố tôi sinh ra, lớn lên, đã xa và vẫn yêu, và tôi biết, cũng vẫn
được
yêu, ít nhất là yêu những mùa thu mùa đông khắc khoải và khắc nghiệt,
bởi những
tên tuổi lớn của văn học Việt Nam cho tới nay vẫn chưa được công khai
công nhận,
như Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền.
Trăng
Góa, tập truyện đó, vì thế có hàm giữ
cái tình của tôi với cả ba tạp chí văn học hàng đầu hải ngoại một thời.
Hợp
Lưu, bởi cái bìa do họa sĩ Khánh Trường chủ bút làm cho, Trăng goá -
truyện lần
đầu chủ bút Nguyễn Xuân Hoàng đã cho đi trên Văn của người viết Lê Minh
Hà, và
những truyện khác, được viết, viết lại theo gợi ý của chủ bút Văn Học -
Nhà văn
Nguyễn Mộng Giác.
Bây
giờ các anh người còn người mất. Vừa hôm
nay anh Hoàng đến với anh Giác. Trong ba ông chủ bút của Hợp Lưu, Văn
Học, Văn,
tôi mới một lần gặp mặt anh Nguyễn Mộng Giác, anh Khánh Trường còn sống
đấy mà
chắc cũng khó có bao giờ, anh Nguyễn Xuân Hoàng mấy năm trước qua Paris
còn hẹn
tôi gặp nhau ở Đức và anh em đã không có dịp gặp nhau. Nhưng chữ, nối
chữ, cho
anh em tôi gần nhau, vì cái tài ư, không hẳn, chỉ là cái tình, có được
do đạo
chữ.
Họ đã cho
tôi hiểu thêm về lịch sử Việt Nam còn đang nóng hổi, cho tôi hiểu phận
người Việt,
phận người trí thức nghệ sỹ Việt trong dòng lịch sử đó, không phải chỉ
là những
chua xót, tủi buồn, tự tín, mà là ý thức về nghĩa vụ, chỉ có được khi
có một
trí tuệ thực sự luôn vận động.
Họ
cho tôi một bài học giản dị về hòa giải và
hòa hợp từ chỗ đứng của con người. Không có gì khác hơn là cố gắng
biết, cố gắng
hiểu, để thấy được nỗi đau của người không bé hơn nỗi đau của ta.
Anh
Hoàng ơi, dù chưa khi nào gặp anh, BẤT CỨ
NƠI NÀO BẤT CỨ Ở ĐÂU; BỤI VÀ RÁC thế nào thì em cũng nhớ, chữ của anh,
trong
văn và trong thư, và nhớ, cả lời các anh chị khác từng kể cho em và em
đã hỏi
anh đúng không, rằng Nguyễn Xuân Hoàng rất đẹp trai.
Âm cũng như dương, cõi
này, cõi ấy, thế nào
anh em mình cũng sẽ có lần gặp nhau.
LMH FB
Xin thành thực chia buồn.
NQT/Thảo Trần
September
14, 2014 at 3:27am
Nguyễn Xuân
Hoàng
Cái duyên của
tôi với anh Nguyễn Xuân Hoàng có thể đã bắt đầu từ 1975. Tôi không rõ
vào lúc đó
anh còn làm Tổng thư ký tòa soạn tờ Văn khitôi gửi đến 5 bài thơ và
được đăng
trong số chót của tờ báo là số tháng Tư.Tháng tư lắm chuyện nên tôi
quên mất,
cho đến gần đây nhờ anh Vũ Trọng Quang nhắc đến thì tôi mới phát hiện.
Nếu thế
thì 13 năm sau đó, cái duyên của tôi với anhHoàng mới bắt đầu tại phố
Bolsa.
Tôilà thế hệ của Croissant Doré chứ không phải là của La Pagode.
Dạo đó
(1988), vì công việc, anh em gặp hàng ngày, bữa sáng bữa chiều. Tôi có
chụp một
chân dung của anh cho bìa 4 của quyển « Sa Mạc » thì phải, phụ giúp anh
một bận
dọn nhà về đường Hazard mà anh gọi là « con đường mang tên Tình cờ
».Tôi đùa «
Rừng cao su mâu thuẫn ở trên con đường mang tên tình cờ »,trước tôi gọi
anh là
« Rừng cao su mâuthuẫn ». Anh em đùa thế
thôi, chẳng có ý nghĩa gì hết, anh cười.
Anh Hoàng là
người hiền như nụ cười của anh và anh chỉ cười mỉm. Thì hiền mà, ai
cười ha hả.
Chữ « Hazard »anh gọi là « Tình cờ » nhưng nó thật ra mang nghĩa là «
Bất trắc
»,như cuộc đời vậy chứ không được xuề xòa. Anh thì lành, không ưa sinh
sự, và không
ưa cả sự này sự nọ do người này việc kia sinh ra nhưng làm sao tránh.
Thìanh cười
mỉm, không phải là anh không biết, anh biết chứ, anh hiền chứ anh đâucó
ngu,
anh cười như xin lỗi tuy chẳng phải lỗi anh, thì lỗi của cuộc đời,
anhcười để
tránh. Tôi chỉ thấy anh giận có một lần, được một phút, rồi anh lại
cườingay.
Anh cười nhường, cái khí của anh là khí « cậu » nên tôi biệtdanh anh là
« Cậu
Hoàng ». Anh là dân « cậu » bẩm sinh,hoàn cảnh nào thì cũng khó mà trăm
phần
phù hợp, có người cười đu đưa đánhvõng, anh cười một cái cười lách có
một chút
buồn. Thì biết sao, phải vậy, chẳngcó con đường nào mang tên « Bình an
» để mà
dọn đến.
Tôi không được
biết anh trước 75, nhưng tôi nghĩ, ngay ở Quán Chùa, ngay ở thập niên
60-70 tạiSàigòn,
anh đã có nụ cười như vậy.
Tình cờ, có
lẽ là chu kỳ 13 năm giữa tôi và anh. Sau này khi anh lên San Jose thì
tôi ít gặp.
Lầnchót chắc là năm 2001, khi tôi làm giỗ hai năm ngày ba tôi mất tại
quán Sumo
ởSanta Ana và gặp anh vô tình đến ăn với bạn. Tôi gọi « Cậu Hoàng !»
vàanh bảo
« Cậu Khiêm ! » đây là tín hiệu giữa anh em. Thì tôi cũng hiền, nhưng
mà sao «
cậu » như anh được, cái hiền của tôi có cái giả vờ.
Như vậy, đến
giờ là 13 năm. Lúc anh mới mang bệnh, một lần Phùng Nguyễn tổ chức phái
đoàn
lên thăm, tôi không đi được. Một bận sau, Nguyễn Hữu Liêm rủ lên, tôi
cũng
không có dịp. Tôi đi đây đi kia nhưng Bolsa/Tully lại là ngăn cách xa
vời.
Tôi không gặp
lại"Cậu Hoàng" và tôi chào anh từ xa vậy, một người anh quý mến.
Đỗ Khiêm FB
Một người ngồi
trong ghế bành
September
14, 2014 at 3:41am
R.I.P nhà
văn Nguyễn Xuân Hoàng.
Hồi ở Hà nội
tôi vẫn hình dung Sài gòn qua lời kể của má tôi, Sài gòn chơi khuya, ăn
cơm tấm,
bận áo dài trắng, quần trắng, đi giày cao gót … má tôi kể chuyện thường
có chút
hu-mua như hầu hết các Phó thường dân Nam bộ : lần đó má tôi bận nguyên
bộ đồ
dài trắng, xách ví đầm trắng giày cao gót trắng vô một tiệm cơm tấm, ăn
xong bà
rót nước uống rồi kẹp cái ví đầm vào nách, sửa tướng thật yểu điệu đi
ra phố,
chưa ra khỏi tiệm bà đã thấy mọi người nhìn bà cười ha há, Rồi khi bà
ra khỏi
tiệm thì người bồi chạy theo, che miệng cười đưa bà cái ví đầm…Té ra
nãy giờ bà
kẹp cái nắp ấm giỏ, loại giỏ ủ nóng bình trà ….vào nách áo dài trắng
!!!!
Má tôi kể
chuyện tỉnh khô, bọn tôi thì cười lăn lóc, trong trí tưởng tượng của
tôi bấy giờ
Sài gòn như vậy thật bình dân, thật vui vẻ và có chút điệu nghệ ….
“Một người
ngồi trong ghế bành” của Nguyễn Xuân Hoàng là một trong số ít truyện
ngắn Sài
gòn cũ được báo Văn nghệ tuyển chọn tôi thấy thích- cùng với truyện của
Nguyễn
Đình Toàn. Hình như truyện này tôi đã đọc đâu đó rồi thời tôi còn hay
lê lết ở
đường sách cũ ĐặngThị Nhu, hồi đó tôi cũng vừa đọc xong cuốn Khải Hoàn
Môn của
Remarque, một cuốn tiểu thuyết cảm động hơi lâm ly, rất dễ làm xao
xuyến con
tim thiếu nữ (hì, tôi cũng có thời là thiếu nữ!) Remarque hay tả cảnh
trong bar
rượu, một cái bàn con , một người đàn ông và một người đàn bà, nghe
nhát gừng ơ
hờ lắm, nhưng tình thì sâu thẳm! trong truyện cũng có một anh bồi bàn
chu đáo tận
tình … nói chung là khung cảnh rất điển hình, à la romantic, đọc những
đoạn tả
này tôi cứ mường tượng như mình cũng có mặt ở đó, nhấm nháp một ly rượu
mạnh và
ngồi theo cái điệu gật gù, làm ra thờ ơ mà không bỏ sót một cử chỉ, sắc
mặt nào
của hai người họ …
Truyện “Một
người ngồi trong ghế bành” của Nguyễn Xuân Hoàng cũng là truyện một
người đàn
ông và một người đàn bà , bên cạnh một cái bàn, trong tiệm nước…..Rất
kiệm lời
và cũng theo mạch ơ hờ, nhưng khác là người đàn bà Việt nam rặc, cô ta
“biết hết,
nhớ hết” về người đàn ông, thứ thuốc anh ta hút, loại báo anh ta đọc…
cô ta
mang một vẻ bao bọc trìu mến đối với người đàn ông, từ ngôn từ, cử chỉ,
trong một
chiều mưa nhợt nhạt, họ có vẻ chỉ là hai người bạn, cô ta đùa nghe âu
yếm,
nhưng e dè như không dám nhận mình có được chút quan tâm của bạn, rất
khác nhân
vật cùng giới bên truyện của Remarque, nũng nịu một cách vô tâm, hoàn
toàn yên
trí đàn ông sinh ra là để phục vụ cô nàng !!!!
Trong màn
mưa rả ríc; đường phố thỉnh thoảng nháng ánh đèn taxi; xe trờ tới và
một người
bước xuống; họ níu tay nhau quay lại căn gác nhỏ; cầu thang hẹp, hôi và
thanh gỗ
vịn rít nhớp ….Căn phòng màu vàng sẫm tối ám và trơ trẽn, nhớp nhúa
(…); người
đàn bà thay áo, quàng khăn ; họ lại đi ra khỏi nhà ; một tiệm nước quen
có bán
đồ ăn điểm tâm….và sau cùng là một cái ghế bành da màu đỏ ….. Người kể
chuyện tả
lại không một chút tô vẽ, mưa dắt dây cho nền câu chuyện thêm ảm đạm,
nhưng
gương mặt đẹp của người đàn bà, những câu nói đùa âu yếm, bộc lộ một
cách dịu
ngọt và bất ngờ mối quan tâm của nàng với người bạn trai là vệt màu ấm
áp khiến
người đàn ông bối rối, Giọng điệu anh ta từ dửng dưng đến xốn xang dần
theo thời
gian ở bên người bạn gái, làm cho cái lý do cô muốn anh có mặt – chỉ để
cùng cô
đến gặp một người đàn ông khác, đang ngỏ lời ao ước được quen cô –
thành ra như
phi lý , như người đàn ông muốn nó là cái cớ kỳ quặc, không có thật.
Thế nhưng
một người ngồi trong ghế bành, cái ghế da màu đỏ .. cắt ngang niềm xốn
xang của
nhân vật hình như lại có thật, người đàn bà đến cái bàn bên đó và người
đàn ông
bắt đầu bữa cơm tối một mình!
Cái hình ảnh
“một người ngồi trong ghế bành” mang ẩn dụ gì thì tôi chịu, không chắc
hiểu…
song khung cảnh câu chuyện cứ dần thực, rõ nét như bức vẽ trên gỗ,
ngược lại
người đàn bà bên cạnh người kể chuyện đang sống động một cách thành
thực với giọng
cười, mùi hương tóc thì lại nhòa dần trong nét liêu trai …mang một nhạc
cảm thấm
thía khiến tôi thán phục. Nghệ thuật tạo dựng không khí và nhân vật
thật đáng nể,
câu chuyện giản dị trở nên sâu thẳm, xa xôi mà gợi như hơi thở của
người đàn
ông bên cạnh người đàn bà !!!!!
Một điều nữa
tôi cho rằng NXH đã vẽ nên một cảnh tượng tôi muốn hình dung về Sài gòn
– cứ
cho rằng đó là Sài gòn - đô thị miền Nam trước năm 1975, nhỏ nhắn theo
cái cách
văn chương điệu nghệ .
Tôi sẽ nói
gì nhỉ nếu có người gườm gờm nhìn tôi và bảo” không phải Sài gòn của
mày
!!!!!!”
À, khó thế !
5/2009
Chị So FB
Đông Thức
Nguyễn
8 hours ago
near Go Vap, Vietnam
Năm 2005 đến
San Jose có ghé toà soạn Viet Tribune thăm anh chị. Vẫn luôn nhiệt
tình, sôi nổi.
Ngoài tờ báo ngày, anh chị còn làm tờ tạp chí Văn, cố giữ ngọn lửa yêu
văn
chương trong tim người Việt ở Mỹ.
Truyện Bất Cứ
Lúc Nào, Bất Cứ Ở Đâu của anh đến giờ vẫn là sách tôi yêu thích. Anh
cũng như
Duyên Anh, Nguyễn Thanh Trịnh (Đoàn Thạch Biền), Từ Kế Tường... là
những tác giả
đã khiến tôi nuôi mộng văn chương khi còn sinh viên.
Hãy
yên nghỉ, nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng.
Xin
chia buồn cùng chị Vy Truonggia và gia
đình...
Phạm
Cao
Hoàng
mây ngừng
bay
Chia tay anh
Nguyễn Xuân Hoàng
cũng đành
thôi, nắng tắt rồi
mặt trời đã
lặn ngày vui đã tàn
một vì sao –
Nguyễn Xuân Hoàng
vừa rơi vào
cõi vĩnh hằng sáng nay
cũng đành
thôi, mây ngừng bay
trái tim ngừng
đập, bàn tay vẫy chào
biết đời là
giấc chiêm bao
mà sao lòng
vẫn thấy đau vô cùng
cũng đành cạn
một dòng sông
người đi đi
mãi và không trở về
bên kia là
phía hư vô
trăm năm còn
lại bóng mồ hư không
Phạm Cao
Hoàng
Virginia,
September 13, 2014
Người uống
rượu góc trời
Thơ
ĐINH CƯỜNG
Vừa nghe tin
Hoàng mất sáng nay rồi
Đinh Cường
Vừa nghe tin
Hoàng mất sáng nay rồi
- Nguyễn
Xuân Hoàng
ghi
vội của Đinh Trường Chinh
September
13, 2014
Còn gì nói nữa.
còn gì nói nữa. Hoàng ơi
chuông nguyện
hồi chuông Notre-Dame
còn gì nói nữa
còn gì nói nữa chị Vy ơi
chiều nay chị
tắt máy, con cháu đông đủ
còn gì nói nữa
còn gì nói nữa bạn bè ơi
khi một người
bạn đã tách ra đi trước
còn gì nói nữa
còn gì nói nữa tôi ơi
chỉ còn chút
thành tâm cầu nguyện
ngày Phạm
Công Thiện mất bạn báo tin
tôi đang ăn
múi cam mà nghẹn
trưa nay Lê
Quế Hương báo tin bạn mất [1]
tay đang cầm
cây cọ. xoáy mạnh vào toile..
Virginia,
September 13, 2014
Đinh Cường
[1] Nguyễn
Xuân Hoàng vừa mất lúc 10 giờ 50 phút
sáng nay ,
Thứ bảy 13 tháng 9 năm 2014 tại San Jose,
California
Thơ NGUYỄN
LƯƠNG VỴ
Tiễn biệt
Nguyễn Xuân Hoàng
Nguyễn Lương
Vỵ
Thân thương
ơi, hãy bay đi thật nhẹ
“Biển, nghe
không?”(*) Câu hỏi vốn không lời
Lời không tiếng,
trời thu cao đợi nhé
Đón người về
ngấn lệ níu xa xôi
Rồi chín suối
mười sông kia sẽ hát
Trần gian
xanh, mộng chín đỏ xin chào
Trang văn
réo khu rừng xưa nhã nhạc
Khúc ru tình
rực lửa gọi chiêm bao
Rồi tóc bạc
sẽ hòa âm mây trắng
Biển trời
kia nghĩa nặng với tình sâu
Bay thật nhẹ
bay thật cao im lắng
Trăng Sài
Gòn – Phan Thiết sẽ tìm nhau
Thân thương
ơi, âm trầm trong tiếng gọi
Nói gì đây?
– Hẹn gặp chốn vô cùng
Vô tận ý vô
tận lời gió nổi
Và sương
chìm tẩn liệm nắng vô chung…
Nguyễn Lương
Vỵ
11:15AM,
Sept. 13.2014
Sau khi được
tin nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng từ trần lúc 10:30AM tại San Jose, Cali.
(*) Thơ Nguyễn
Xuân Hoàng.
TRẦN
HOÀI THƯ
Nhật ký
Trần Hoài
Thư
Mấy hôm nay
tôi cứ phân vân có nên trích lại lá thư xin lỗi của nhà văn Nguyễn Xuân
Hoàng nhan đề: “Thư gởi người đã khuất”
được đăng trên tạp chí Văn số chủ đề Tưởng niệm Doãn Dân trước 1975 vào
trong
bài viết “Hiện tượng văn chương nữ giới miền Nam” của
tôi hay không... Người đã khuất mà ông viết
là nhà văn Doãn Dân. Nhà văn Doãn Dân chết vì một quả đạn pháo rót ngay
vị trí
của anh trên đại lộ Quảng Trị - Huế vào mùa hè 1972 khiến cả thân thể
anh bị
banh như xác pháo.
Tôi muốn chứng
minh về sự may mắn của những nhà văn ở Saigon.
Khoảng 10 AM
hôm nay (tức là 7 AM giờ miền Tây) , tôi
nhận thư của Nguyệt Mai cho hay về tình trạng sức khỏe của
nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng như sau:
“...Anh Đinh
Cường mới chuyển cho em xem thư của học trò thầy Nguyễn Xuân Hoàng. Anh
Hoàng
hiện giờ đã yếu lắm rồi, quai hàm đã cứng nên không ăn uống gì được.
Tin đế anh
và chị hay.”
Tôi đọc, và
thấy lòng mình trĩu nặng. Tôi thấy mình không nên dùng bài viết của nhà
văn
Nguyễn Xuân Hoàng vào trong bài của mình. Tôi không muốn gây thêm sự
phiền não
bận tâm cho nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng. Nhưng mặt khác tôi rất cần tài
liệu để
minh chứng cho những câu hỏi và trả lời
của tôi trước độc giả khi họ dọc bài tôi viết.
10:51
AM giờ miền Đông, tôi gởi hỏi ý kiến của
NM.
10:59 AM NM
trả lời đề nghị nên rút. Chuyện đã qua...
12 AM, tôi đọc
lại bản thảo và delete tất cả những đoạn có liên quan đến Nguyễn Xuân
Hoàng,
khoàng 1 trang.
Xế trưa khoảng
4 PM, tôi đọc được Email cho biết nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng qua đời vào
lúc
10:30 giờ miền tây tức là 1:30 PM giờ miền đông.
Tôi ít khi
viết về người đã khuất. Lý do, tôi cảm thấy rất gượng gạo khi phải dùng
những
danh từ như cực lạc thiên đàng, chín suối,
tiêu diêu. Bởi tôi không có đủ khả năng để hiểu
những danh từ ấy. Nhưng với trường hợp nhà văn
Nguyễn Xuân Hoàng,
tôi viết mà lòng không cảm thấy bất an. Bởi những gì tôi viết là sự
thật. Để chứng
tỏ là đôi khi mình phải tin về một sức mạnh thần bí nào đó đưa đẩy mình
phải chọn
trong khi mình thì bối rối.
Đó là trường
hợp của tôi sáng hôm nay.
Trần Hoài
Thư
New Jersey,
September 13, 2014
Nhà văn Nguyễn
Xuân Hoàng
(1940 –
2014)
SAN JOSE
(NV) - Nhà văn, nhà báo, nhà giáo Nguyễn Xuân Hoàng, sinh năm 1940, tại
Nha
Trang, Khánh Hòa, vừa qua đời tại San José, California, vào lúc 10:50
phút sáng
Thứ Bảy, 13 Tháng Chín, 2014.
Bản tin của
baocalitoday.com đưa tin cho biết, hiền thê của ông Nguyễn Xuân Hoàng,
bà
Trương Gia Vy, nói rằng chồng bà “ra đi rất thanh thản trước sự chứng
kiến của
gia đình,” gồm vợ, con trai, ba con gái cùng các cháu nội ngoại từ xa
về kịp.
Nhà văn Nguyễn
Xuân Hoàng sinh ngày 7 Tháng Bảy, 1940 tại Nha Trang. Ông từng theo học
các trường
Võ Tánh (Nha Trang), Petrus Ký (Sài Gòn).
Ông theo học
và tốt nghiệp Ðại Học Sư Phạm, Ban Triết, tại Ðại Học Sư Phạm Ðà Lạt,
năm 1961.
Sau đó ông giảng dạy bộ môn này tại các trung học Ngô Quyền (Biên Hòa)
và
Petrus Ký (Sài Gòn).
Trong thời
gian 2 năm, từ 1972 đến 1974, ông đảm nhiệm vị trí Thư Ký Tòa Soạn tạp
chí Văn
tại Sài Gòn.
Ông
sang Hoa Kỳ định cư từ năm 1985.
Năm 1986,
ông làm Tổng Thư Ký nhật báo Người Việt tại Quận Cam, California và đảm
nhiệm vị
trí này trong hơn 10 năm.
Từ năm 1998
đến 2005, ông chuyển về định cư tại San José và đảm nhiệm vai trò Tổng
Thư Ký
cho ấn bản Việt Mercury, thuộc San Jose Mercury News.
Nguyễn Xuân
Hoàng là nhà văn nổi tiếng từ rất sớm và có sức viết mạnh.
Theo tài liệu
từ Wikipedia, các tác phẩm của ông gồm có:
Tập truyện
ngắn:
Mù sương
(1966)
Sinh nhật
(1968)
Truyện dài:
Bụi và rác
(1996)
Khu rừng hực
lửa (1972)
Kẻ tà đạo
(1973)
Người đi
trên mây (1987)
Sa mạc
(1989)
Các thể loại
khác:
Ý nghĩ trên
cỏ (tiểu luận, 1971)
Bất cứ lúc
nào, bất cứ ở đâu (tùy bút, 1974)
Căn nhà ngói
đỏ (tạp ghi, 1989)
Hiện ông
cùng gia đình chủ trương tuần báo Việt Tribune, phục vụ cộng đồng Việt
Nam tại
vùng San José.
Trong mấy
năm cuối đời, ông cũng đảm nhiệm, không liên tục, một blog trên trang
nhà của
chương trình phát thanh VOA Việt ngữ.
Bản tin của
baocalitoday.com dẫn lời bà Trương Gia Vy rằng nhà văn Nguyễn Xuân
Hoàng qua đời
tại nhà Dưỡng Lão Mission De La Casa, San Jose, và lễ hỏa thiêu sẽ được
thực hiện
theo ý nguyện của người quá cố. (Ð.B.)
Nguồn: Người
Việt
Khi một cây
bút ra đi
Một người
quen mất: Buồn. Khi người quen ấy lại là một nhà văn/nhà thơ, hơn nữa,
một nhà
văn/nhà thơ mình yêu thích: càng buồn hơn nữa. Cũng là người quen cả,
nhưng với
nhà văn/nhà thơ, qua tác phẩm của họ, bao giờ chúng ta cũng cảm thấy
gần gũi
hơn, thân mật hơn, do đó, việc ra đi của họ, dù muốn hay không, cũng
làm chúng
ta buồn rầu nhiều hơn.
Không những
buồn rầu, tin tức về cái chết của một nhà văn/nhà thơ bao giờ cũng có
vẻ gì như
bất ngờ. Ngay cả khi chúng ta biết họ đã lớn tuổi hoặc bệnh hoạn lâu
ngày,
chúng ta vẫn cứ sửng sốt như thường. Lý do chính là vì một người cầm
bút dường
như không có tuổi. Đọc các tác phẩm của họ, dù chúng được viết lúc họ
đã cao
niên, chúng ta cũng thường có cảm giác như tâm hồn họ vẫn còn rất trẻ
thơ. Để
có thể chìm đắm miên man trong thế giới tưởng tượng. Để có thể rung lên
những
xúc động khẽ khàng và tinh tế trước một cái đẹp có khi rất nhẹ nhàng,
thoáng
qua trong cuộc sống.
Tác phẩm của
họ, ở khía cạnh này, cũng chính là con người của họ. Tôi tiếp xúc khá
nhiều với
giới cầm bút. Nhiều người lớn tuổi hơn tôi, già giặn và uyên bác hơn
hẳn tôi, vậy
mà, nhiều lúc, tôi có cảm tưởng như họ là em tôi. Ở họ thỉnh thoảng có
cái gì
như hồn nhiên, như ngơ ngác, như yếu đuối. Trước, lúc tôi còn sống ở
Paris, hầu
như năm nào, vào đầu mùa thu, nhà văn Mai Thảo cũng tìm cách bay sang
Paris, để,
theo lời ông, ngắm lá vàng trên các đường phố. Những lúc ấy, tôi và ông
hay đi
loanh quanh cà phê cà pháo. Mỗi lần chia tay, thường ở một ga xe điện
ngầm nào
đó, bao giờ tôi cũng dặn dò ông hết chuyện này sang chuyện khác. Tôi
biết ông rất
giỏi tiếng Pháp. Tôi biết ông rất rành rẽ Paris. Thế nhưng, nhìn gương
mặt ông,
ánh mắt ông và dáng đi lênh khênh của ông, tôi lại sợ vu vơ là ông sẽ
lạc. Nghĩ
lại, tôi thấy cái sợ ấy thật buồn cười. Nhưng lần gặp lại sau, tôi lại
có cảm
giác y như vậy. Dưới mắt tôi, ông như một đứa em còn rất khờ khạo.
Với Nguyễn
Xuân Hoàng, nhiều khi tôi cũng có cảm giác ấy. Anh lớn hơn tôi gần 20
tuổi. Lúc
tôi còn là một đứa học trò trung học ngơ ngác và ngơ ngáo ở Đà Nẵng,
anh đã là
một thầy giáo và một nhà văn nổi tiếng ở Sài Gòn. Nhưng những lần gặp
anh, ngồi
lê la cà phê và chuyện trò với anh, tôi vẫn thấy ở anh có nét gì mơ
mộng và hồn
nhiên như một đứa trẻ.
Từ góc độ
thuần tuý văn học, cuộc đời Nguyễn Xuân Hoàng có thể được xem là thành
đạt: ở
miền Nam, trước năm 1975, mới ngoài 30 tuổi, anh đã là tổng thư ký của
Văn, tờ
tạp chí văn học xuất sắc nhất hồi ấy; ra hải ngoại, anh lại tiếp tục
làm chủ
bút những tờ báo, từ thời sự đến văn học, nổi tiếng nhất của cộng đồng.
Các cuốn
sách của anh cũng được nhiều người khen ngợi. Nhưng anh lại rất khiêm
tốn.
Trong những lần trò chuyện, tôi chưa bao giờ bắt gặp ở anh một nét tự
mãn nào cả.
Lúc nào anh cũng than thở là chưa viết được như anh mong muốn. Có lần,
sau khi
khen Hoàng Ngọc-Tuấn và tôi, anh hạ giọng; “Nhìn bọn em, anh mới thấy
thế hệ của
bọn anh cái gì cũng lớt phớt, sách tiếng Pháp đọc được một chút, sách
tiếng Anh
đọc được một chút, chẳng có cái gì biết thật sâu cả.” Tôi không ngạc
nhiên về lời
khen của anh. Nhưng tôi ngạc nhiên về cách khen. Anh không nhất thiết
phải tự hạ
mình và thế hệ của mình xuống đến như vậy. Nhưng càng nói chuyện với
Nguyễn
Xuân Hoàng nhiều, tôi càng nhận ra đó là tính cách của anh. Anh không
gồng
mình. Thậm chí, nhiều lúc anh tự bêu xấu chính mình. Bởi vậy, bạn bè
anh hay
đùa là anh có tật hay than thở.
Bây giờ,
Nguyễn Xuân Hoàng đã theo gót Nguyễn Mộng Giác, Thanh Tâm Tuyền và Mai
Thảo đi
vào cõi khác, nhiều người gọi là cõi vĩnh hằng. Cũng như với mấy người
kia,
nghe tin anh mất, tôi sửng sốt và buồn nhưng tôi lại không thấy hụt
hẫng chút
nào cả. Nhiều người hay nói đến những khoảng trống mênh mông để lại sau
cái chết
của những nhà văn hay nhà thơ lớn. Tôi không nghĩ vậy. Với tôi, cái
chết của những
cây bút lớn, ngay cả những người tôi ít nhiều quen biết, vẫn không gây
nên một
sự hụt hẫng nào cả. Lý do là, dù họ mất đi, tác phẩm của họ vẫn còn
lại, hơn nữa,
còn gần gũi hơn vì chúng không bị ngăn cách bởi tác giả nữa. Trước, đọc
sách,
có khi chúng ta nghĩ đến con người đã sáng tạo nên những cuốn sách ấy.
Sau,
chúng ta chỉ thấy sách, chỉ thì thầm tâm sự với sách. Chúng ta được
giải phóng
khỏi tác giả để được tự do thong dong với chữ nghĩa.
Chính vì vậy,
nghe tin Nguyễn Xuân Hoàng mất, tôi với tay lên kệ, lấy tập truyện ngắn
Căn nhà
ngói đỏ của anh để đọc lại. Đó là cuốn sách tôi thích nhất của anh.
Trong đó có
nhiều truyện ngắn thật hay. Tôi tin truyện “Tự truyện một người vô tích
sự” của
anh là một trong những truyện ngắn hay nhất trong nền văn
học Việt Nam ở hải ngoại từ sau năm 1975. Hay
ở kỹ thuật. Hay ở văn phong. Truyện đầy ắp chi tiết, như một cuốn tiểu
thuyết
được nén lại.
Với những
truyện như thế, tôi nghĩ anh không mất. Tôi tin là chỉ có trong lãnh
vực văn học
nghệ thuật mới có những người mang kích thước bao trùm cả ba chiều thời
gian:
quá khứ, hiện tại và tương lai. Với quá khứ, họ tạo ra được cả một thời
đại để
chúng ta có thể nhận diện được “những người muôn năm cũ”. Với hiện tại,
họ là cả
một thế giới mênh mông để chúng ta tha hồ ngao du. Và với tương lai, họ
là một
tinh tú lúc nào cũng bí ẩn và đầy thách đố để chúng ta phải không ngừng
thám hiểm.
Hiện diện trong ba chiều như vậy, các nhà văn và nhà thơ lớn vừa ở sau
để làm
di sản cho chúng ta, vừa là bạn đồng hành của chúng ta đồng thời cũng
là những
kẻ đứng trước, đâu đó, chờ đợi chúng ta: chúng ta gặp họ trong từng
bước chân.
Đến lúc chúng ta biến mất, họ vẫn còn.
Tôi không muốn
gọi Nguyễn Xuân Hoàng là nhà văn lớn. Nhưng tôi tin một số truyện của
anh, đặc
biệt là truyện ngắn, sẽ còn được đọc và đọc lại. Lâu dài.
NHQ
|
|