Bài viết thứ
nhì của Rushdie, trong Quê Hương
Tưởng Tượng, là về cuốn này, câu chuyện một
nhà làm phim… Ngụy, bị VC đá đít - mấy lần
Gấu không rõ - đếch cho về, bèn giả trang, lén lút, âm thầm,
hồi hộp… về lại quê hương, thực hiện hàng
ngàn thước
phim về xứ Mít sống dưới Cái Ác Đỏ & Cái Ác Bắc Kít.
Gấu đã toan tính thực hiện điều này, nhưng theo chiều ngược lại: Trên TV đã từng viết về chuyến vượt biển của Gấu Cà Chớn, cùng anh bạn cựu nhiếp ảnh viên UPI, đúng vào dịp VC kỷ niệm 10 năm Đại Thắng Mùa Xuân, mang theo tài liệu, hình ảnh, bài viết, phóng sự…. kể câu chuyện 30 năm mới có ngày hôm nay, vui sao nước mắt lại trào.
Tôi trở nên khiếp đảm...
Đêm 23 tháng
Chạp, năm 1985, cùng lúc với ông Táo chầu trời, trên một chiếc tầu vượt
biển sắp
sửa chìm gần ngọn hải đăng ở cửa biển Vũng Tầu, có một ông già bị cậu
thanh
niên đứng kế bên lầm là người yêu của anh. Quá khiếp đảm trước cái chết
có thể
xẩy tới bất cứ lúc nào, cậu thanh niên điên cuồng vò đầu, vò tai người
yêu, tức
ông già, lảm nhảm những lời hoảng loạn. Tuy đang bận tâm vì một chuyện
khác,
ông già vẫn nhận ra, nước biển mặn, lạnh buốt, còn nước mắt của cậu
thanh niên,
mặn, nóng hổi, rát hằn một bên má. Những cột nước như từ trên trời đổ
mãi. Con
thuyền chúi sâu xuống khoảng không đen, sâu thẳm, rồi bị đẩy bắn lên
cao, chót
ngọn sóng. Ông già đang nhớ lại những lần chết trước đó.
Bẩy, tám tuổi,
thấy bạn cùng lớp nhào xuống ao, bơi lội ào ào, ông nghĩ, ai cũng làm
được. Và
cứ thế lao xuống. May có người đứng ngay kế bên, nhìn thấy thằng bé sắp
sửa
chìm nghỉm, bèn nhảy vội xuống, kéo lên.
Khi đã hoàn
hồn, đứng ngơ ngác trên bờ, cậu bé như cảm thấy, cậu biết trước tai
nạn. Như thể,
cậu đã trải qua một lần rồi, và lần này, chỉ là lập lại lần trước. Nó
đã từng xẩy
ra, trong một giấc mơ, có thể.
Cậu có cảm
tưởng, anh bạn lớn tuổi đã "chờ", một sự kiện như vậy, sẽ xẩy ra, và
anh ta sẽ can thiệp, đúng lúc.
Rõ rệt nhất
là lần chơi bắn bi một mình. Nhà có một chiếc hòm [cái rương] lớn,
chiếm cả một
góc gian nhà chính, trên là bàn thờ ông bà, trong đựng lúa, đặt trên
hai tấm mễ
gỗ, hay ngựa gỗ, thấp. Người dân miền Bắc, từ xa xưa vẫn bị ám ảnh bởi
những
cơn lũ lụt, và những năm hạn hán, lúc nào cũng lo mất mùa, nên nhà nào
cũng lo
trữ lúa.
Hòn bi lăn
tít vào gầm hòm. Cậu bò vào. Loay hoay cọ quậy, cả hai tấm ngựa gỗ, quá
mục,
cùng sập xuống.
Như sống lại
giấc mơ, cậu xoài người ra. Chiếc hòm đè cậu bẹp dí, may nhờ hai chiếc
mễ chia
giùm sức nặng. Lần đó, ba hồn bẩy vía đi luôn, mấy người lớn bắt ăn mấy
vắt cơm
để thu hồi lại.
Lớn lên, cậu
mất dần khả năng kỳ cục, và mơ hồ cảm nhận - không tính lần suýt bị bẹp
dí - có
một điều gì liên can đến "nước", trong những lần như vậy.
Như thể gia
đình ông bị trù yểm, bởi nước.
*
Ông già của
ông già bị đảng phái thủ tiêu, bằng cách cột đá vào người bỏ xuống sông.
Đứa em trai,
tử trận tại một khúc sông, do một viên đạn từ bên kia bờ bắn xuống nước
dội
lên.
Bản thân ông
đã từng bị thương nặng tại bờ sông Sài-gòn.
Lần đó, đúng
ra là đi luôn, nếu không có kẻ thế mạng: một chuyên viên Phi Luật Tân
mới chân
ướt chân ráo tới Sài-gòn.
*
Nhưng được bỏ
qua, không có nghĩa là được tha thứ. Ông già thấy nhẫn nhục, cam chịu.
Đó là một
chuyến đi được tổ chức rất chu đáo. Và có lúc ông già nghĩ rằng sẽ
thành
công...
*
"Tôi trở nên
khiếp đảm bởi nghệ thuật".
D. M. Dylan
Thomas mở đầu “Hồi tưởng & Hoang tưởng”.
Với ông, khả
năng thấu thị, nhìn thấy cái chết, trước khi nó xẩy ra, ở một cậu bé,
chính là
"phép lạ" của nghệ thuật, (ở chúng ta). Và ông trở nên khiếp đảm, bởi
nó. "Nghệ thuật là những ngã ba ngã tư tàn khốc, mang tính Oedipe. Nơi
mộng
mị, tình yêu, và cái chết gặp gỡ. Zhivago của Pasternak chiêm nghiệm
một điều,
rằng nghệ thuật luôn luôn là suy tư về cái chết, từ đó sáng tạo ra sự
sống.
Điều ngược lại
cũng hoàn toàn đúng. Cách đây vài năm, tôi [D.M. THomas] đi thăm Lydia,
người
chị/em gái, của Pasternak. Một căn nhà từ hồi Victoria, ọp ẹp, tối
thui. Chủ
nhà, một người bà già nhỏ nhắn, rệu rạo, lưng còng, mang đôi giầy cụt
lủn, lủng
lẳng bị chìa khoá... Bà dẫn vào nhà bếp, mời dùng cà phê. Một cái hũ cà
phê, loại
uống liền, hai cái ly trắng, mẻ. Câu chuyện nhạt thếch. Tôi không làm
sao liên
hệ bà với Boris, người sáng tạo ra Zhivago, và Lara. Sau cùng, bà hỏi
tôi có muốn
đi xem mấy bức họa của ông thân sinh. Một cách biết ơn, tôi nói vâng.
Tôi đi
theo đôi giầy cụt ngủn, bị chìa khoá lên lầu. Bà mở cửa căn phòng.
Một luồng mầu
sắc và ánh sáng làm tôi chới với, nghẹt thở. Đúng là một phòng tranh
tuyệt vời.
Tôi nhận ra ngay Tolstoy, ở nơi Boris trẻ. Sàn ngổn ngang những khung,
giá vẽ.
"Tôi
đang sửa soạn một cuộc triển lãm", bà giải thích.
Như một bóng
ma, tôi đi theo, suốt căn phòng rộng, uống từng hớp thiên tài Leonid
Pasternak.
Có đến vài phút đồng hồ, tôi đứng ngẩn trước một bức họa. Chân dung một
người
đàn bà đẹp, dáng mơ mộng, đang chải tóc.
Tôi yêu liền
ngay nàng.
"Nàng là ai vậy ?"
Bà già còng nhún vai:
"Ôi dào, tôi
đó mà".
Chẳng thèm để
ý đến nỗi mất mát lớn lao, là tuổi trẻ, và nhan sắc, bà quay đi.
Chẳng có gì
đáng kể, ngoại trừ thiên tài bất tử của người cha.
Tôi có cảm giác
những bức họa
đã hút sạch bao nhiêu ánh sáng, bao nhiêu đời sống từ căn nhà của cô
con gái.
"Tôi
nghĩ chắc là bà đã có bảo hiểm những bức họa?"
"Không, nếu bị đánh cắp,
cái gì có thể thay thế?"
Trở lại bếp,
bà cho tôi coi những bức hình gia đình, hầu hết là của Boris và con
cháu của
ông.
Một trong những
đứa cháu trai, Lyovya, đã chết trong những tình huống thật là kỳ bí,
đáng sợ;
bà bảo tôi. Chưa tới 30, đang khoẻ mạnh, nó lăn quay ra chết, vì đứng
tim, ngay
trên đường phố Moscow, đúng chỗ Zhivago bị bịnh tim quật ngã..."
Thomas không
thể không nghĩ đến một điều, cái chết của nhân vật giả tưởng, Zhivago,
đã
"ứng" vào người cháu trai.
Thiên tài
Pasternak đã biến đứa cháu thành một cái bóng, y hệt như cô con gái
Lydia đã trở
thành cái bóng của nghệ thuật, của ông thân sinh.
Liền đó, ông
kể lại một kinh nghiệm của riêng ông, trong một lần đi trị bịnh. Bà bác
sĩ tâm
thần làm ông nhớ đến mẹ, và một lần không vâng lời bà.
(Ở đây có một
cái gì liên can đến mặc cảm Oedipe).
"Thay
vì đi nhà thờ, cậu đã tới một sex shop".
"Đúng
như vậy". "
Rồi trí tưởng
của tôi đầy rẫy những hình ảnh chết chóc, của mẹ tôi, của bạn bè...
Bữa sau, bà
bác sĩ gọi điện thoại:
"Tôi
không thể gặp anh bữa nay. Tôi phải đi đám ma.
"Oh, I am
sorry, tôi mong không phải là một người thân của bà.
"Thảm
thay, đúng như vậy, ông già của tôi."
Và Thomas kết
luận, đâu có gì là đáng ngạc nhiên, nếu tôi trở nên khiếp đảm vì nghệ
thuật ?
"Không phải cuốn sách của tôi là một tên sát nhân, nhưng đâu đó, từ
những
trang sách vang lên, tiếng cười sảng khoái, của quỷ...".
Chỉ là lộng giả thành chân. Bóng ma giả tưởng Zhivago kiếm người thế mạng để đi đầu thai.
Đó cũng là cảm
giác ghê rợn, khủng khiếp khi ông già gặp lại cô bạn ở xứ lạnh. Như thể
cuộc chiến
lập lại, khi giả tưởng "xuất hiện".
Chuyến đi
"liên can" tới lễ kỷ niệm 10 năm đại thắng Mùa Xuân, của những người
CS. Người bạn đi cùng ông già mang theo những danh sách, những bản tin,
những
tài liệu về miền Nam sau mười năm, phóng sự về những sĩ quan đi học
tập, tình cảnh
vợ con ở nhà, và ... MIA.
Ông già quen
anh bạn, những ngày cả hai cùng làm việc cho một hãng tin nước ngoài.
Anh là
nhiếp ảnh viên. Gốc "chệt", người nhỏ thó, tóc xoắn tít, có lần,
trong lúc hơi ngà ngà, anh tỏ ra tự hào về mấy quí tướng của mình.
Ng. quả thực
rất khôn ngoan. Nếu có gì đó, làm anh thất vọng về chính mình, có lẽ
là, anh đã
không theo đuổi nghề "phóng viên chiến tranh" cho tới cùng. Anh giải
thích, làm cho hãng tin Mỹ một thời gian, anh chuyển qua một hãng tin
Nhật. Ông
già không gặp anh từ dạo đó. Rồi bỏ nghề, về nhà đuổi gà cho vợ.
"Mày có
nhớ được bao nhiêu thằng tụi mình quen, đã tử mạng ? Ở chiến trường,
cái máy chụp
hình trông xa giống như khẩu súng. Còn chữ Press ở trên ngực, gặp VC
tụi nó
cũng chẳng tha. Sau Mậu Thân, bà vợ tao hoảng quá, không cho tao làm
phó nháy nữa".
Cũng có thể
còn một lý do. Tuy nhỏ con, nhưng anh có một sức hấp dẫn đặc biệt, với
phụ nữ.
Anh vẫn mơ
tưởng, ngoài người vợ anh đã ly dị, có với nhau một đứa con trai; ngoài
bà vợ
sau anh đang chung sống, có được một đứa bé gái - vì mê bả, anh giải
thích, anh
đã không bỏ đi, những ngày tháng Tư năm đó - còn một việc gì, chiến
cuộc dành
riêng cho anh, những kẻ bỏ cuộc hơi sớm. Như thể nó cho anh "hoãn
dịch",
để thực hiện sứ mạng này.
"Tôi để
dành tôi cho tương lai", Phan Văn Hùm, (hay Tạ Thu Thâu ?), đã nói vậy,
khi từ chối làm việc với những người CS.
Một người quen của ông già
cũng đã nói
một câu tương tự, khi từ chối lệnh nhập ngũ.
Anh bạn
phóng viên mơ tưởng "làm một việc, để trả ơn nhân dân Mỹ," khi đem đến
cho họ tin tức, về những "con mực", mật ngữ của anh. Anh giấu kín những
"tài liệu vô giá" đó, chỉ thêm vào, một bức thư, bằng tiếng Anh, do
ông già viết. Một thứ "bạch thư", đại khái vậy. Thì cũng nhờ mớ tiếng
Anh còn sót lại, ông già đã được "tổ chức", qua anh bạn phóng viên,
chấp nhận.
Sau này, bữa
theo vị linh mục người Pháp, tới văn phòng ODP, tại Bangkok, nằm trong
building
khổng lồ City Bank, ông thấy lại tất cả những đơn từ, thư viết tay,
hình ảnh,
hôn thú, giấy khai sinh..., tất cả những gì ông gửi từ Việt Nam, những
ngày cực
khổ, việc gửi thư là một xa xỉ... Không thấy bức "bạch thư". Như vậy,
ông già nghĩ thầm, nó thuộc về một hồ sơ khác, nằm ở Bộ Quốc Phòng, như
Steel,
nhân viên tại Toà Lãnh Sự Mỹ, tại Vientiane, nói. "Steel, như cái này
này," anh giơ chân đập vào tủ sắt kế bên. Trong bữa gặp gỡ, anh có nhắc
tới
Alan Dawson, một ký giả Mỹ làm cho UPI. "Ông ta là bạn tôi, hiện đang
làm
việc tại Bangkok. Các anh có thể tới đó gặp ông ta. Nhưng tôi không thể
giúp đỡ
gì, trong việc này. Tôi sẽ chuyển bức thư đi, vậy thôi." Trước khi nói
chuyện anh đã cẩn thận đóng cửa văn phòng, không cho nhân viên người
Lào tại sứ
quán biết, về cuộc gặp mặt giữa những điệp viên CIA, hoặc MIA, "dởm".
Sau khi đọc qua hồ sơ ODP, nhìn hình hai người lớn, và mấy đứa nhỏ, vị
linh mục
người Pháp nói, "Bây giờ ta có thể giúp con được rồi. Ta sẽ đưa con tới
sở
cảnh sát Bangkok. Họ sẽ bỏ tù vợ chồng con mấy tháng. Sau đó, Cao Uỷ sẽ
đưa các
con tới trại tị nạn."
Cũng lại một
chuyến vượt biên, nhưng bằng đường bộ. Ông già vốn không tin con đường
Đức
Thánh Trần chỉ bảo. Gia đình ông, bị thần nước trù yểm, kể từ thời Sơn
Tinh,
Thuỷ Tinh, cũng nên. Quê ông vốn vùng núi Tản, sông Hồng.
Trên ghe, đa
số là người theo đạo. Khi đã tuyệt vọng, họ hy vọng vào Chúa. Tiếng cầu
kinh nổi
lên, lúc đầu còn rời rạc, nhưng dần dần át tiếng mưa bão. Phép lạ, phép
lạ, ông
già loáng thoáng nghe có người suýt soa. Vài phút trước đó, ông đã được
anh thợ
máy, sau khi thất bại không thể làm cho máy chạy, từ dưới hầm tầu bò
lên, nhìn
trời, ngó đồng hồ... Sau đó, anh giải thích, bão ven biển vốn vậy. Tới
gần sáng
là ngưng. Vả lại ghe chưa ra xa bờ. Nếu sửa cho máy nổ, chắc là tiêu
rồi, anh vừa
nhìn vào bờ vừa thẫn thờ nói. Trên bờ loáng thoáng những ruộng muối...
Anh bạn đi
cùng đã thả xuống biển những chứng tích cuối cùng, của chuyến đi...
V.S.
Pritchett, phê bình gia “không phải thời nào cũng có” - vì được nữ
hoàng Anh
phong là Sir nhờ viết phê bình – cũng có 1 bài thật là tuyệt về GGM, và
nhất là
về truyện “Mùa Thu của vị Trưởng Lão”, The
Autumn of the Patriarch, trong đó, đã tiên tri cái cú VC bán cả
biển cho Tẫu
để trừ nợ - nhờ chúng mà ăn cướp được Miền Nam.
Ông viết, TNCD cự tuyệt
mọi giải thích, denies interpretation. Người ta có thể nói, một Arcady
nhỏ bé
được sáng tạo rồi bị huỷ diệt bởi những ý nghĩ “Promethe”, chúng chui
vô đầu óc
của kẻ dám tạo ra nó, one could say that a little Arcady was created
and was
ruined by the Promethean ideas that came into the head of its daring
founder.
Hay, những thành phố nho nhỏ đó đã có khoảnh khắc của nó, their moment
– như những
nền văn minh đã từng có – và rồi bị tiêu ma.
Có thể, như Garcia Marquez phán,”những
nòi giống bị kết án trăm năm cô đơn đếch làm sao có 1 cơ may thứ nhì”,
“races
condemned to one hundred years of solitude do not get a second chance
on
earth”. Cái cảnh - trận bão - chấm dứt
100 năm cô đơn, khi hai kẻ cùng huyết thống cố làm sao có được 1 đứa
trẻ không
có đuôi, và rồi thất vọng, và rồi Macondo tiêu ma.... mà chẳng khủng
khiếp sao.
Do… THNM, Gấu lúc nào cũng sợ
sợ, đếch dám đọc
TNCD nữa, vì sợ nó ứng vô xứ Mít, hà hà!
Trong bài viết
mới nhất, tưởng niệm GGM, Rushdie chẳng đã trích dẫn Carlos Fuentes, “I
have
the feeling,” Carlos Fuentes once said to me, “that writers in Latin
America
can’t use the word ‘solitude’ anymore, because they worry that people
will
think it’s a reference to Gabo. And I’m afraid,” he added,
mischievously, “that
soon we will not be able to use the phrase ‘100 years’ either.”, tớ có
cảm tưởng
những nhà văn Mỹ Châu La Tinh đếch dám đụng tới từ “cô đơn” nữa, vì sợ
bị coi
là đàn em
của Gabo!
“Trăm năm”
có lẽ cũng không dám, nhưng cái này còn phải chờ bên y tế, vì tuổi của
con người
bi giờ hết còn đóng khung trong “trăm năm trong cõi người ta” nữa rồi!
Đã có lần, Gấu tui liều cùng mình, khi cho rằng, đối với người dân Miền Bắc, khi tin vào chủ nghĩa Cộng Sản, họ tin rằng đây chính là thứ khi giới tuyệt hảo để chiến thắng thiên nhiên khắc nghiệt khiến con người khắc nghiệt. Nó là cứu tinh của một miền đất, một thứ Thiên Sứ, đại khái vậy. Chính giấc mơ Thiên Sứ này biến Bắc Kít thành... khùng.
Đây là
cách V.S. Pritchett,
một nhà văn nhà phê bình người Anh, đọc Don Quixote, bằng cách đặt nó
kế bên
cuốn Những Linh Hồn Chết của
Gogol, và
từ đó, ông giải thích được một câu hỏi nhức nhối, từ lâu chưa ai trả
lời được:
Tại sao mà Gogol không thể hoàn tất phần thứ hai của cuốn sách tuyệt
tác của
ông, và của nhân loại?
Chính cái giấc mơ phải tìm
cho được một "Thiên Sứ" cho một nước Nga khốn khổ khốn nạn, đã biến
Gogol thành khùng
30.4.2012
Don Quixote
đã không sụp
đổ, như là Phần Hai của Những Linh
Hồn Chết của Gogol sụp đổ, bởi vì Cervantes
không khùng. Ông trở nên [vẫn luôn luôn là] con người thực dụng, hồ
nghi nếu
không muốn nói là bi quan, và khoan dung; trong khi đó, Gogol bị giấc
mơ Thiên
Sứ cắn trúng, và bị nọc độc của nó biến thành khùng.
V.S.
Pritchett: Miguel de
Cervantes [1965], [được in lại trong The
Essential Pritchett, Vintage,
2004]
Nhìn
như thế, Mít, sau cú 30
Tháng Tư, đều trở nên “insane”, mất mẹ nó cái đầu, như Gogol, vì giấc
mơ Thiên
Sứ, của… Sến Cô Nương!
V.S. Pritchett, được phong hiệp sĩ năm 1975, nhưng theo Gấu, chữ nghĩa không sắc sảo, lý luận không sắc bén bằng Thầy Cuốc.
Chính ông nói ra điều này:Tôi rất sốc khi nghe văn chương bị/được dạy, I am shocked to hear that literature is "taught". Tôi nhận thấy mình không đáng là nhà phê bình, nhưng mà là 1 thằng nhung nhăng, nay đây mai đó, du lịch trong văn chương, I was travelling in literature. Chúng tôi [những người như ông] không có “captive audience” [khán thính giả có thể nắm bắt]. Chúng tôi không có dạy. Chúng tôi viết để có thể đọc được, và dấn mình vào cõi mà Virginia Woolf gọi là "độc giả thông thường", "the common reader".
Thua Thầy Kuốc xa.
Giả như bạn quí thổi Người "lên mây”, như thế, thì cũng thấy “ngường ngượng” mà đi xuống mặt đất, thì may ra mới khá được! NQT
Trong bài viết,
nhân GM đi xa, “Thần kỳ làm tà lọt cho sự thực”, Magic in Service of
Truth, Rushdie
lập lại ý của ông trong bài Tin Văn đã giới thiệu, lấy từ cuốn Quê
Hương Tưởng
Tượng. Tuy nhiên ông đưa thêm 1 số chi tiết, sự kiện. Thí dụ, thế hệ
đàn em đếch
khoái cái trò bợ đít độc tài của đàn anh GM, và hiện thực thần kỳ có
mùi thum
thủm.
The most highly regarded writer of the next generation, Roberto Bolaño, notoriously declared that magic realism “stinks,” and jeered at García Márquez’s fame, calling him “a man terribly pleased to have hobnobbed with so many presidents and archbishops.” It was a childish outburst, but it showed that for many Latin American writers the presence of the great colossus in their midst was more than a little burdensome. (“I have the feeling,” Carlos Fuentes once said to me, “that writers in Latin America can’t use the word ‘solitude’ any more, because they worry that people will think it’s a reference to Gabo. And I’m afraid,” he added, mischievously, “that soon we will not be able to use the phrase ‘100 years’ either.”) No writer in the world has had a comparable impact in the last half-century. Ian McEwan has accurately compared his pre-eminence to that of Charles Dickens. No writer since Dickens was so widely read, and so deeply loved, as Gabriel García Márquez.
Trong Quê Hương
Tưởng Tượng, Rushdie đi hai bài về GGM, cả hai đều thật tuyệt. Ông cũng
giải thích
lý do, tại làm sao mà câu kệ ở trong Mùa
Thu của vị Trưởng Lão dài thòng, tất
nhiên, từ Faulkner mà ra, nhưng điều Rushdie giải thích thêm ra mới cực
thú: Câu
kệ trong đó dài thòng vì đó là biểu hiện hình thức, l’expression
formelle, của
cái chế độ độc tài không làm sao chấm dứt, la tyranie interminable, là
đề tài của
cuốn sách. GCC không nhận ra điều này, tuy biết, thuổng Faulkner!
Câu tiếp theo
mới ghê: Quyền uy của tên độc tài làm ngưng thời gian!
Đây đúng là
cú đã xẩy ra sau 30 Tháng Tư 1975, thời gian ngưng lại, với Ngụy, như
Nguyễn Mộng
Giác đã từng dùng ẩn dụ này, để nói về cái đám chống Cộng điên cuồng
tính xin tí
huyết ông, khi đụng tới lính Ngụy. Thời gian cũng ngưng với VC, họ đi
vào địa
ngục, do chính họ xây dựng lên, với những tên như tướng về hưu, quái
vật Núp… và
không hề biết ngày nào ra được.
Bolano,
phán, hiện thực thần kỳ “bốc mùi”, cha đẻ ra nó
ăn nằm với tổng thống, hoặc giám mục. Rushdie cho rằng, nói quá, "trẻ
con", nhưng,
Bolano, một cách nào đó, không nhắm GGM, mà đám đàn em của ông, ở các
nước như
xứ Mít, chẳng hạn. "Rung chuông tận thế" mà chẳng có mùi thúi, và tác
giả
của
nó chẳng phải là 1 tên cớm VC ư?
Rồi những hiện thực thần kỳ "vừa nhắm mắt vừa mở
cửa", "xin cho tôi 1 vé đi tuổi thơ…"
Sunday Book
Review | Essay
Gabriel
García Márquez’s Work Was Rooted in the Real
By SALMAN
RUSHDIE
APRIL 21, 2014
Gabo lives.
The extraordinary worldwide attention paid to the death of Gabriel
García
Márquez, and the genuine sorrow felt by readers everywhere at his
passing,
tells us that the books are still very much alive. Somewhere a
dictatorial
“patriarch” is still having his rival cooked and served up to his
dinner guests
on a great dish; an old colonel is waiting for a letter that never
comes; a
beautiful young girl is being prostituted by her heartless grandmother;
and a
kindlier patriarch, José Arcadio Buendía, one of the founders of the
new
settlement of Macondo, a man interested in science and alchemy, is
declaring to
his horrified wife that “the earth is round, like an orange.”
We live in
an age of invented, alternate worlds. Tolkien’s Middle-earth, Rowling’s
Hogwarts, the dystopic universe of “The Hunger Games,” the places where
vampires and zombies prowl: These places are having their day. Yet in
spite of
the vogue for fantasy fiction, in the finest of literature’s fictional
microcosms there is more truth than fantasy. In William Faulkner’s
Yoknapatawpha,
R. K. Narayan’s Malgudi and, yes, the Macondo of Gabriel García
Márquez,
imagination is used to enrich reality, not to escape from it.
“One Hundred
Years of Solitude” is 47 years old now, and despite its colossal and
enduring
popularity, its style — magic realism — has largely given way, in Latin
America, to other forms of narration, in part as a reaction against the
sheer
size of García Márquez’s achievement. The most highly regarded writer
of the
next generation, Roberto Bolaño, notoriously declared that magic
realism
“stinks,” and jeered at García Márquez’s fame, calling him “a man
terribly
pleased to have hobnobbed with so many presidents and archbishops.” It
was a
childish outburst, but it showed that for many Latin American writers
the presence
of the great colossus in their midst was more than a little burdensome.
(“I
have the feeling,” Carlos Fuentes once said to me, “that writers in
Latin
America can’t use the word ‘solitude’ any more, because they worry that
people
will think it’s a reference to Gabo. And I’m afraid,” he added,
mischievously,
“that soon we will not be able to use the phrase ‘100 years’ either.”)
No
writer in the world has had a comparable impact in the last
half-century. Ian
McEwan has accurately compared his pre-eminence to that of Charles
Dickens. No
writer since Dickens was so widely read, and so deeply loved, as
Gabriel García
Márquez.
The great
man’s passing may put an end to Latin American writers’ anxiety at his
influence, and allow his work to be noncompetitively appreciated.
Fuentes,
acknowledging García Márquez’s debt to Faulkner, called Macondo his
Yoknapatawpha County, and that may be a better point of entry into the
oeuvre.
These are stories about real people, not fairy tales. Macondo exists;
that is
its magic.
Continue
reading the main story The trouble with the term “magic realism,” el realismo mágico, is that when people
say or hear it they are really hearing or saying only half of it,
“magic,”
without paying attention to the other half, “realism.” But if magic
realism
were just magic, it wouldn’t matter. It would be mere whimsy — writing
in
which, because anything can happen, nothing has effect. It’s because
the magic
in magic realism has deep roots in the real, because it grows out of
the real
and illuminates it in beautiful and unexpected ways, that it works.
Consider
this famous passage from “One Hundred Years of Solitude”:
“As soon as
José Arcadio closed the bedroom door the sound of a pistol shot echoed
through
the house. A trickle of blood came out under the door, crossed the
living room,
went out into the street, continued on in a straight line across the
uneven
terraces, went down steps and climbed over curbs, passed along the
Street of
the Turks, turned a corner to the right and another to the left, made a
right
angle at the Buendía house, went in under the closed door, crossed
through the
parlor, hugging the walls so as not to stain the rugs . . . and came out in the
kitchen, where
Úrsula was getting ready to crack 36 eggs to make bread.
“ ‘Holy
Mother of God!’ Úrsula shouted.”
Something
utterly fantastic is happening here. A dead man’s blood acquires a
purpose,
almost a life of its own, and moves methodically through the streets of
Macondo
until it comes to rest at his mother’s feet. The blood’s behavior is
“impossible,” yet the passage reads as truthful, the journey of the
blood like
the journey of the news of his death from the room where he shot
himself to his
mother’s kitchen, and its arrival at the feet of the matriarch Úrsula
Iguarán
reads as high tragedy: A mother learns that her son is dead. José
Arcadio’s
lifeblood can and must go on living until it can bring Úrsula the sad
news. The
real, by the addition of the magical, actually gains in dramatic and
emotional
force. It becomes more real, not less.
Magic
realism was not García Márquez’s invention. The Brazilian Machado de
Assis, the
Argentine Jorge Luis Borges and the Mexican Juan Rulfo came before him.
García
Márquez studied Rulfo’s masterpiece “Pedro Páramo” closely, and likened
its
impact on him to that of Kafka’s “Metamorphosis.” (In the novel’s ghost
town of
Comala it’s easy to see the birthplace of García Márquez’s Macondo.)
But the
magic-realist sensibility is not limited to Latin America. It crops up
in all
of the world’s literatures from time to time, and García Márquez was
famously
well read.
Dickens’s
unending court case, Jarndyce v. Jarndyce in “Bleak House,” finds a
relative in
“One Hundred Years of Solitude” in the unending railway train that
passes by
Macondo for a week. Dickens and García Márquez are both masters of
comic
hyperbole. Dickens’s Circumlocution Office, a government department
that exists
to do nothing, inhabits the same fictional reality as all the indolent,
corrupt, authoritarian governors and tyrants in García Márquez’s work.
Kafka’s
Gregor Samsa, metamorphosed into a large insect, would not feel out of
place in
Macondo, where metamorphoses are treated as commonplace. Gogol’s
Kovalyov,
whose nose detaches itself from his face and wanders around St.
Petersburg,
would also feel at home. The French Surrealists and the American
fabulists are
also of this literary company, inspired by the idea of the fictionality
of
fiction, its made-up-ness, an idea that unshackles literature from the
confines
of the naturalistic and allows it to approach the truth by wilder, and
perhaps
more interesting, routes. García Márquez knew very well that he
belonged to a
far-flung literary family. William Kennedy quotes him saying, “In
Mexico,
surrealism runs through the streets.” And then: “The Latin American
reality is
totally Rabelaisian.”
But, to say
it again: The flights of fancy need real ground beneath them. When I
first read
García Márquez I had never been to any Central or South American
country. Yet
in his pages I found a reality I knew well from my own experience in
India and
Pakistan. In both places there was and is a conflict between the city
and the
village, and there are similarly profound gulfs between rich and poor,
powerful
and powerless, the great and the small. Both are places with a strong
colonial
history, and in both places religion is of great importance and God is
alive,
and so, unfortunately, are the godly.
I knew
García Márquez’s colonels and generals, or at least their Indian and
Pakistani
counterparts; his bishops were my mullahs; his market streets were my
bazaars.
His world was mine, translated into Spanish. It’s little wonder I fell
in love
with it — not for its magic (although, as a writer reared on the
fabulous
“wonder tales” of the East, that was appealing too) but for its
realism. My
world was more urban than his, however. It is the village sensibility
that
gives García Márquez’s realism its particular flavor, the village in
which
technology is frightening but a devout girl rising up to heaven is
perfectly
credible; in which, as in Indian villages, the miraculous is everywhere
believed to coexist with the quotidian.
He was a
journalist who never lost sight of the facts. He was a dreamer who
believed in
the truth of dreams. He was also a writer capable of moments of
delirious, and
often comic, beauty. At the beginning of “Love in the Time of Cholera”:
“The
scent of bitter almonds always reminded him of the fate of unrequited
love.” At
the heart of “The Autumn of the Patriarch,” after the dictator sells
the
Caribbean to the Americans, the American ambassador’s nautical
engineers
“carried it off in numbered pieces to plant it far from the hurricanes
in the
blood-red dawns of Arizona, they took it away with everything it had
inside
general sir, with the reflection of our cities, our timid drowned
people, our
demented dragons.” The first railway train arrives in Macondo and a
woman goes
mad with fear. “It’s coming,” she cries. “Something frightful, like a
kitchen
dragging a village behind it.” And of course, unforgettably:
“Colonel
Aureliano Buendía organized 32 armed uprisings and he lost them all. He
had 17
male children by 17 different women and they were exterminated one
after the
other on a single night before the oldest one had reached the age of
35. He
survived 14 attempts on his life, 73 ambushes and a firing squad. He
lived
through a dose of strychnine in his coffee that was enough to kill a
horse.”
For such
magnificence, our only possible reaction is gratitude. He was the
greatest of
us all.
Salman
Rushdie is the author of 11 novels and, most recently, the
autobiographical
memoir “Joseph Anton.”