Hạ Huyền
Tưởng niệm TTH
Vầng trăng thôi đã
ngàn thu
Nguồn mơ còn lại mấy
tờ thư phai
Gửi về đâu, những dấu
hài
Tóc huyền ai thả theo
lời thơ bay
Hồn trăng trên ngọn
lau gầy
Hắt hiu sông nước sương
đầy bến không
Mây trôi thuyền
lạc muôn trùng
Mênh mang thiên cổ mịt
mùng viễn khơi
Tiếng kêu thương nỗi ngậm ngùi
Trăng tà núi lặng không lời vọng âm
Trong bầu trời xám
của Utrillo của Đà Lạt và em chiếc khăn hồng rực rỡ em bừng
sáng trên phố đông em bừng sáng suốt thời
thanh xuân anh.
Anh ủ dột ngã quỵ trong
bão lốc. Anh chết dấp bên bờ rừng còn vo ve lời
trá ngụy. Gục đầu đi trong bóng chụp ma quỷ chẳng còn
gì đời anh.
Như thế ba mươi năm không thấy
nhau, những buổi chiều rũ nát không còn em dòng
máu anh vẫn tiềm ẩn ảnh hình một buổi chiều đường Lê
Lợi. Ba mươi năm những ngày vỡ vụn buồn chán những ngày
hốt hoảng mù mịt không có em anh đã quên
trong cuộc đời. Vầng trăng sơ huyền mắt trong xanh vầng trăng hạ huyền
trong đêm Sài Gòn khuya lặng lẽ đi.
Huyền vẫn là vầng trăng trong đêm sao vẫn là pháo bông một ngày hội suốt thời thanh xuân anh chưa bao giờ đạt tới.
Đầu mùa hạ cuối mùa xuân, lan đã tàn, quỳnh bắt đầu nở, chùm bông giấy tím cuối bờ tường. Buổi sáng chim gọi nhau ríu rít. Bỗng tưởng như một buổi chiều trong rừng Trảng Táo chim xào xạc. Những ngày tháng hoảng hốt âm u em đã đến như bông hồng rực rỡ sáng trong đời.
Rừng mưa lũ, thác réo như cuốn trôi mọi tồn sinh mọi hy vọng. Một nhánh phong lan còn nằm trong tâm tưởng đợi một mùa êm đềm. Và nhớ mãi một buổi sáng mưa xuân những giọt nước long lanh trên lá cỏ, những bài hát của một thời chiến tranh mà chúng ta lạc lối hoang mang. Anh vẫn nghe và nhớ em nhớ một thời hỗn độn tối tăm và tình yêu như cánh chim trong lửa cháy mịt mù.
Thấp thoáng nắng hàng tre bên kia sông có tà áo xa xa dẫn anh về một nẻo đường như ngày xưa như ngày mai, nhưng hôm ấy nhưng hôm nay còn mộng mị.
Mùa xuân, anh
vẫn sống trong mùa thu buồn bã anh vẫn sống trong mùa
đông ủ dột. Em, em ở đâu bây giờ.
Bạn bè anh em ta đã
chết nơi bìa rừng cuối bãi, và chân lý
vẫn biền biệt như chưa từng hội tụ.
Vang vọng một mùa xuân, vang vọng một mùa đông chiêm bao. Em về đâu giòng thời gian đi mãi. Em về đâu?
Nhớ một tình yêu
ngập ngừng nhớ một quê hương tối tăm.
Giả đò quên thân phận một gã
thợ thúc ép giữa những hãng xưởng căng thẳng.
Giả đò quên một xứ sở xa lạ một bầu trời
đe dọa, trái đất cheo leo vũ trụ hung hiểm.
Làm thơ như đốt lửa
trong đêm Bắc Cực, trong lung linh tìm một bóng
hình.
Như trang kinh những phép lạ hư thực.
Đã hai ngàn năm, đã hơn hai ngàn
năm, một sinh vật nhỏ nhoi còn hốt hoảng.
Ngọc.
Chẳng thể vãn hồi,
đừng bao giờ trở lại.
Nàng đã chết từ muôn ngàn
năm.
Lòng trong xanh ngọn
suối
Cuồn cuộn sóng đời sông
Vòi vợi bao núi rừng
Đêm ngàn sao mong nhớ
Có gì xa xôi
quá
Trời đất một màu mây
Có gì sao xuyến lạ
Chập chùng khói sương bay
Và mùa xuân
buồn bã
Mùa thu qua hoang vu
Biển vỗ vô cùng tận
Trời mênh mông không bờ
Chiều nhuộm đỏ sông xưa
Người tìm hoài đợi mãi
Điều không đến bao giờ.
Nguyễn Hà Tuệ
Thủ bút
thơ Joseph Huỳnh Văn, bản độc nhất còn lại, của TSVC, số ra mắt,
Nhã Tập, trong có bài Truyện Kiều ABC của Đỗ
Long Vân, là của Nguyễn Tân Văn gửi cho Tin Văn
Cả ba thằng, cùng
xuất hiện 1 lúc, có thể nói như thế.
DNM với Rượu Chưa Đủ, trên Sáng
Tạo. Cung Tích Biền, Ngoại Ô, trên
Nghệ Thuật, 1 số trước, thì tới Sơ
Dạ Hương, với Những Ngày Ở Sài Gòn,
Nghệ Thuật số 9, vẫn còn nhớ,
liền sau đó.
Our Gang
Like moths
Around a streetlamp
In hell
We were
Lost souls
One and all
If found,
Returned to sender
Tụi Tớ
Như thiêu thân
Quanh ngọn đèn đường
Ở địa ngục
Tụi tớ
Những linh hồn mất linh hồn
Một và tất cả
Nếu kiếm thấy
Gửi trả người gửi
I KILLED HITLER
IT IS LATE; I am old. I should
finally confess to what happened in the summer of 1937 in a small
town in Hesse. I killed Hitler.
I am Dutch, a bookbinder, retired for some
years now. In the thirties I was passionately interested in the tragic
European politics of the time. But then my wife was Jewish, and my
interest in politics was in no way academic. I decided to wipe out Hitler
myself, with a draftsman's precision, just as one would bind a book.
And I did it.
I knew that Hitler liked to travel in the
summer with a small group, practically without bodyguards, and that
he stopped in small villages, often in outdoor restaurants, in the shade
of linden trees.
What good are the details. I will say only
that I shot him and was able to get away.
It was a humid Sunday, a storm was on its
way, bees meandered as if they were drunk.
The restaurant was concealed beneath enormous
trees. The ground was covered with a fine gravel.
It was almost completely dark, and there
was such drowsiness in the air that it took great effort to press the
trigger. A wine bottle was knocked over and a red blot spread over the
whit paper tablecloth.
Then I sped away in my small car like a
demon. But no one was after me. The storm broke, down came a heavy rain
Along the way I threw the gun into a ditch
overgrown will nettles; I flushed out two geese, which began to run
with an awkward waddle.
Why the details?
I returned home triumphant. I tore off
the wig, burned my clothes, washed the car.
And all for naught, because the next day
someone else exactly like him down to the last detail and perhaps
even crueler than the one I killed, took his place.
The newspapers never mentioned the murder.
One man vanished, another appeared.
The clouds that day were completely black,
the air sticky as molasses.
Adam Zagajewski: Two Cities
Note: Đây là truyện
ngắn “Kinh Kha với con chủy thủ trên đất Tần
bất trắc" của DNM, được nhà thơ Ba Lan mô phỏng,
hoặc viết lại, bằng 1 văn phong nhẹ nhàng hơn nhiều!
Một anh chàng thú tội, đã
từng ám sát Hitler, nhưng lạ làm sao, chẳng ai
phát hiện, và 1 kẻ khác, y chang Hitler, có
lẽ còn hung ác hơn nhiều, thế chỗ tên bị giết!
"Những con dã tràng", truyện
ngắn đầu tay của GCC, là cũng nằm trong dòng văn chương
hục hặc hiện sinh, như truyện Cuối Đường, hay Tư của TTT. Sau này,
đọc Kẻ Xa Lạ, Gấu nhận ra nhân vật chính trong truyện
có dáng dấp của Meursault, và luôn cả Camus,
vì Camus có thời gian ho lao, như nhân vật chính
trong “Những con dã tràng”.
Như thế, có thể nói, Gấu đọc Camus, gián
tiếp, qua TTT.
Bởi là vì thời gian đó, Gấu chưa biết
gì về Camus.
Truyện viết từ chuyến đi Nha Trang, trong dịp hè, sau
khi rớt Tú Tài Hai, Khoá I, và nhân
bà bạn của bà cụ Chất, bà Thời, tổ chức Trại Hè
cho đám con cái công nhân viên hoả xa,
hai cụ cho đi theo luôn. Hết hè về, Gấu thi đậu khoá
hai, bạn bè rớt hết.
Gấu vẫn còn nhớ, là,
khi đọc bản nháp, bài luận Triết của Gấu, đưa về trình
ông anh, TTT không nói gì hết. Chỉ đến khi
Gấu làm được cả hai bài Toán, và Vật Lý,
ông mới gật đầu, phán, đậu, nhưng do Toán và
Vật Lý, chứ bài Triết chỉ đáng 1 gậy!
Như thế, ông không
tin tài văn, tài triết con mẹ gì ở Gấu, và
cũng thế, là nhận xét khi đọc “Những Con Dã Tràng”,
mi sẽ đi xa hơn DNM.
Ông đâu khen Gấu viết hay hơn DNM!
Chỉ đến khi viết được truyện
ngắn “Những Ngày Ở Sài Gòn”, thì Gấu hiểu
ra, mình đã thoát ra khỏi cái bóng
của ông anh, và đã tìm ra được văn phong
của riêng mình, nhờ kiếm ra ông thầy, là Faulkner.
Đây cũng nằm trong lời khuyên của ông anh,
mi hãy đọc, đọc, đọc, đọc thật nhiều, và sẽ có
1 ngày, mi tìm ra cái dòng văn của mi, qua
ông thầy của mi.
Trên số báo sau đây, Asia Literary Review,
Spring 2010, có bài viết “Pico Iyer và Dalai Lama”,
thật là tuyệt, với riêng Gấu.
Thầy của Iyer Pico là
Graham Greene. Và ông nhìn Dailai Lama qua Thầy
của mình.
Không chỉ Dalai Lama mà còn luôn
cả Phật Giáo, qua cá nhân Phật Sống.
Số này có mấy
đấng Mít, Gấu mua là vì mấy đấng Mít, Nguyễn
Quí Đức và Andrew Lam, bỏ qua bài về Pico.
May quá, mới kiếm thấy tờ báo!
by Graham Greene, 1955
The Disquieting Resonance of 'The Quiet American'
Ever since he first discovered Graham Greene's work, Pico Iyer has felt a haunting closeness with the English writer. In The Man Within My Head, Iyer follows Greene's trail from his first novel, The Man Within, to such later classics as The Quiet American, examining Greene's obsessions, his elusiveness, and his penchant for mystery. The deeper he plunges into this exploration, the more Iyer begins to wonder whether the man within his head might not be Greene but his own father, or perhaps some more shadowy aspect of himself.
Drawing upon experiences across the globe, from Cuba to Bhutan, and moving, as Greene would, from Sri Lanka in war to intimate moments of introspection, this is the most personal and revelatory book yet from one of our most astute observers of inner journeys and crossing cultures.
Võ Phiến, khi qua Paris, ở nhà Kiệt Tấn, khi nghe chủ nhà hỏi về TTT, đã phán, nhớ đại khái, thằng chả nổi tiếng nhờ tiểu thuyết.Trong cuốn tiểu luận nho nhỏ trên, đa
số là những phê bình, nhận định, điểm sách,
có hai bài viết về tuổi thơ, phải nói là tuyệt
cú mèo. Tin Văn sẽ post, và lai rai ba sợi về chúng.
Bài “Tuổi thơ đã mất”, The Lost Childhood, viết
về những cuốn sách mà chúng ta đọc khi còn
con nít. “Gánh nặng tuổi thơ”, theo Gấu, tuyệt hơn, phản
ứng của con người, ở đây, là ba nhà văn hách
xì xằng, về thời thơ ấu khốn khổ khốn nạn của họ, và bằng
cách nào, họ hất bỏ gánh nặng này.
Khi Gấu trở về lại Đất Bắc, Gấu thấy mình giống như
một kẻ đi tìm gặp một thằng Gấu còn ở lại Đất Bắc, và,
tìm hiểu, bằng cách nào thằng Gấu đó hất
bỏ được gánh nặng tuổi thơ…
*
Trong bài Gánh nặng tuổi thơ, Graham Greene
viết:
"Có vài nhà văn, khác
nhau, như Dickens khác Kipling, chẳng ai giống ai, nhưng đều có
chung nỗi bất hạnh, chẳng làm sao hất đi được: gánh nặng
tuổi thơ. Đứa con nít bị tống vô một xưởng máy đen
thui, trong trường hợp Dickens, còn với Kipling, là những
ngày tháng ăn cơm thừa canh cặn nhà bà cô
Aunt Rosa, bên một con đường cát bụi vùng ngoại ô,
cả hai đều chẳng bao giờ quên được. Tất cả những kinh nghiệm sau đó
của họ, đều như dính mắc tới những tháng, những năm bất hạnh
đó."
"Thường thì cuộc đời tàn nhẫn nhe bộ nanh hung
hãn của nó ra khi chúng ta đã có
tí ti kinh nghiệm, để mà tự vệ. Thê thảm nhất, là
bị nó cắn vào những năm tháng còn thơ dại
như trên."
*
Giả như phải tìm một lời giải thích cho sự hiện
hữu của một cái xuồng chứa toàn những cay đắng ngày
nào, (1) thì có lẽ những lời phán của Greene
xem ra cũng đặng.
Hai tuổi thơ bất hạnh của Gấu, đực và cái, đã
tìm cách nương tựa vào nhau, đâu lưng tự
vệ, trước nanh vuốt của cuộc đời, "sống sót hai chế độ, trốn thoát
một cuộc chiến, trốn thoát hai quê hương, một Nam, một
Bắc, tìm ra được quê hương đích thực cho dòng
Gấu, và sau cùng, trốn thoát cả một lô những
ông bạn quí hoá."
*
Hai ông nhà văn nhớn trên, bị cuộc đời cắn,
bất thình lình, đúng vào lúc chưa
biết thế nào là tự vệ. Khác thường làm sao,
là cách họ phản ứng, sau khi bị cắn. Dickens học được sự
thân ái, sympathy. Kipling, sự độc ác. Dickens phát
hiện và khai triển một văn phong dễ dãi, tự nhiên,
easy and natural, đến có thể ôm trọn cả nhân loại vào
trong sự hiểu biết của nó.
Kipling chế tạo ra cỗ máy đi dã ngoại, rất ư
là hợp thời, vào thời đó.
*
Câu này, Bonaparte viết cho người yêu Joséphine,
Gấu mượn để tặng Gấu Cái:
Sự nghèo khổ, bị tước đoạt, và sự cùng
cực làm nên vợ nhà văn nhớn. La pauvreté,
les privations et la misère sont l'école du bon soldat.
Napoléon Bonaparte. Extrait d'une Lettre à Joséphine
de Beauharnais.
Note: Tks. Napoléon Bonaparte. Gấu.
(1) Đây là Gấu Cái nhớ lại kỷ
niệm tuyệt vời nhất trong đời, là lần rời Cai Lậy về Sài Gòn,
và, vì nước lụt, xe cô dâu biến thành xuồng.
Bả than: Trên xuồng có đủ cay đắng, đủ dùng
cho... ba người, người thứ ba là cô phù dâu
cũng ngồi trên xuồng!
*
Gấu, nhà văn
Unpredictability, not the inevitable death, Nooteboom seems to say, is at the core of our life.
Nguồn
Winter Poem
The valley resounds
With the sound of the stars
With the vast stillness
Over snow and forest.
The cows are in their byre.
God is in his heaven.
Child Jesus in Flanders.
Believe and be saved.
The Three Wise Men
Are walking the earth.
W.G. Sebald: Across the Land and the Water
Thơ Mùa Đông
Thung lũng dội,
Bằng âm thanh của những vì
sao
Bằng sự tĩnh lặng bao lao
Lên tuyết và rừng.
Bò thì về chuồng
rồi
Chúa thì ở thiên đàng
Chúa Hài Đồng ở Flanders
Tin và Được Cứu Rỗi.
Ba Vì Hiền Giả
Đang lang thang trên mặt đất.
Il ritorno d'Ulisse
Returning from a lengthy trip
he was astonished to find
he had strayed to a country
not his place of origin
For all his encounters in scattered
spots
with the black paper hearts of men
shot by the arquebuse
his bow-and-arrow story
did not happen
Then there was Penelope's
Castilian grandmother
blocking his entry at the garden gate
wordless and busy with embroidery
Sure, the grandchildren
are smiling in the background
apparently better disposed
towards foreigners
Their furtive hopes
still almost too small
for the naked eye
(But the idea is good
and the noise far away
even the building)
Note: Bài thơ này
làm nhớ một, hai bài thơ trong Thơ
Ở Đâu Xa, tả cảnh anh tù, nhà thơ, sĩ
quan VNCH, gốc Bắc Kít, về quê Bắc Kít ngày
nào
Ta Về
Trở về sau 1 chuyến dài
dong chơi địa ngục
Hắn kinh ngạc khi thấy mình lạc vô
1 xứ sở
Đếch phải nơi hắn sinh ra
Trong tất cả những cú
gặp gỡ ở những điểm này điểm nọ rải rác, tản mạn
Với những trái tim giấy đen của những
người bị bắn bởi cây súng mút kơ tông
Thì giai thoại, kéo cây
cung thần sầu, bắn mũi tên tuyệt cú mèo,
đếch xẩy ra.
Và rồi thì có
bà ngoại Tây Bán Nhà của Penelope
Bà chặn đường dẫn vô vườn
Đếch nói 1 tiếng, và tỏ ra
bận rộn với cái trò thêu hoa văn khăn tay
Gửi người lính trận vượt Trường Sơn
kíu nước,
Này khăn tay này, này
thơ này,
Đường ra trận mùa này đẹp
nắm!
Hà, hà!
Tất nhiên rồi, chắc chắn
có lũ con nít
– không phải nhếch nhác kéo
nhau coi tù Ngụy qua thôn nghèo –
chơi ở vườn sau, chúng có
vẻ rất tự nhiên, mỉm cười với khách lạ
Những hy vọng ẩn giấu của chúng
vẫn hầu như quá nhỏ nhoi,
với con mắt trần trụi
(Nhưng ý nghĩ thì
tốt
Và tiếng động thì xa
mặc dù tòa nhà)
Allow me to offer an example
that will take us into the heart of the difficulty of translating
Sebald's poetry. Many of the poems in this volume-which opens
with a train journey-reenact travel "across" various kinds
of land and water (even if the latter is only the fluid of dreams).
Indeed, several, as the writer's archive reveals, were actually
written "on the road," penned on hotel stationery, menus, the backs
of theatre programs, in cities that Sebald visited. Train journeys
constitute the most frequently recorded mode of travel. The following
poem may refer to one such journey. "Irgendwo," translated in English
as "Somewhere," was probably written in the late 1990s and originally
belonged to the sequence of "micropoems" that provided the material
for Sebald's posthumous collection Unerzdhlt (Unrecounted), published
in 2003:
Somewhere
behind Turkenfeld
a spruce nursery
a pond in the
moor on which
the March ice
is slowly melting
Cho phép tôi đưa
ra 1 thí dụ dẫn chúng ta tói trái
tim của sự khốn khó trong việc dịch thơ Sebald. Rất nhiều
thơ trong tập này - mở ra bằng 1
chuyến đi xe lửa – tái tạo, tái kích hoạt, cuộc lữ “qua” những vùng đất đai, sông
nước (ngay cả nếu thứ sông nước này chỉ là dòng
mộng mị). Thực sự, một vài bài thơ, như thư khố của nhà
thơ bật mí, đúng là đã được viết “trên
đường", được gắn, ghim vào những tờ tiêu đề của khách
sạn, thực đơn, đằng sau những tờ chương trình kịch nghệ, trong
những thành phố mà Sebald từng thăm viếng. Những chuyến
đi bằng xe lửa thường được nhắc tới, trong số những phương thức du
lịch. Bài thơ sau đây, có thể là từ 1 trong
những chuyến đi như thế. "Irgendwo," dịch qua tiếng Mít là
“Đâu đó” có thể đã được in ấn vào cuối
thập niên 1990, nguyên thuộc một chuỗi những “vi thơ”, chúng
là chất liệu cho tác phẩm được xb sau khi tác giả
mất, Unerzdhlt (Unrecounted), 2003:
Đằng sau Turkenfeld
Một vườn ương cây thông (1)
Một ao
Vùng truông,
Băng Tháng Ba trên mặt ao
Đang chầm chậm tan
(1) Tuy dịch là "vườn" chứ thực ra, những vườn ương thông này rộng bạt ngàn, như rừng .
K
Tks. NQT
The unadmitted reason why traditional
readers are hostile to e-books is that we still hold the
superstitious idea that a book is like a soul, and that every
soul should have its own body.
ADAM KIRSCH
Cái lý đo đếch làm
sao chấp nhận được e búc, e thơ, là, chúng
ta vẫn khư khư giữ tục mê tín, 1 cuốn sách
thì giống như 1 linh hồn , và mỗi linh hồn nên
có riêng 1 cơ thể của nó.
in Thắp Tạ
Note: Trong cuốn này,
có 1 bài "y chang" bài thơ của TTY tặng TTT!
Cả bài thơ của TTY, là nói
về cú đi ẩn của Lão Tử. Khi qua Ải Tây, người
gác cổng năn nỉ, trước khi đi ẩn, cố để lại cho đời bộ
Đạo Đức Kinh.
Bài của Sebald thì mắc mớ đến
1 địa danh của Lò Thiêu
Cung
Tích Biền và Dương Nghiễm Mậu trong dịp tưởng niệm nhà
thơ Hoàng Trúc Ly ngày 23 tháng 12 năm
2013
(ảnh Huỳnh
Lê Nhật Tấn)
Tôi đã đọc Sáng
Mùa Xuân, trong ấy có một câu, mọi
người có thể lơ đãng đọc qua, nhưng tôi cho là
có nhiều ý nghĩa, anh viết, “Làm kẻ
sống sót, làm kẻ không chết thấy như một bản án…”
Tôi mong đây chỉ là một Cái
Nhìn minh triết, một Cửa Mở để giải tỏa Nỗi Đau phận người,
nhưng đó không là một Hố Thẳm, một Rào
Chắn, có hiệu ứng chấm dứt cuộc Hành Xử đường trường
chông gai, mà chúng ta mong đợi.
Tôi vẫn tin anh có Viết. Chỉ là
chưa công bố mà thôi. Một nhân cách
như anh, anh không thể gác bút, dưới một cường
quyền, trong một hệ thống độc trị phi nhân, mà cả dân
tộc này Không muốn đội trời chung.
Bảo toàn Danh tiết, là một nhân
cách đáng trọng, chẳng bao nhiêu người làm
được. Nhưng sự bảo toàn ấy lại được Bảo Toàn từ một
sự Im Lặng, mãi mãi hơn bốn mươi năm đối với một người
cầm bút đầy tài năng, là một nghi vấn đau lòng.
Bái biệt anh, Ông Mậu.
Gia Định tháng
Vu Lan. 2016
Trên Tin Văn, ngay từ
khi DNM còn sống, GCC đã phán, đúng ra, ông
"đừng" cho phép VC tái bản sách của ông.
Cứ kể như không có vụ Vũ Hạnh đánh
ông, thì cũng vẫn… hỏng!
Nhớ, hồi Thảo Trường còn sống, Gấu biểu ông,
đưa hết tác phẩm lên net, cho trong nước đọc, ông
nghe ra liền, OK liền.
Đọc bài viết tưởng niệm bạn DNM, của tác giả Ngoại Ô Dĩ An và linh hồn tôi, đọc cái câu của DNM thì lại rất ư cảm khái.
Cả ba thằng, cùng
xuất hiện 1 lúc, có thể nói như thế.
DNM với Rượu Chưa Đủ, trên Sáng
Tạo. Cung Tích Biền, Ngoại Ô, trên
Nghệ Thuật, 1 số trước, thì tới Sơ Dạ Hương,
với Những Ngày Ở Sài Gòn, Nghệ Thuật
số 9, vẫn còn nhớ, liền sau đó.
Bientôt… Soon, very soon…. (1)
Anh Mậu, khỏe re
rồi. Thanh thản rất mực. Anh có thể ngồi quán Cái
Chùa trên thượng giới cùng các tiên
ông, Mai Thảo, Quách Thoại, Thanh Tâm Tuyền,
Vũ Khắc Khoan, Nguyên Sa, Thanh Nam…
(1)
Trong bài
Vài kỷ niệm về Mai
Thảo, Gấu có nhắc tới Virginia Woolf. Trong năm bài
essays nho nhỏ về thành phố
Không hiểu những miếu đền, những ngàn
chương sử, mà Mai Thảo mơ ước đó, là về ông,
hay là về Sài Gòn, có Quán Chùa,
hay Tiểu Sài Gòn, có căn phòng, có
một ông già bịnh, mơ mơ màng màng, chẳng
bao lâu, ta sẽ là cả thế giới…
Bientôt,
je serai tout le monde.
Je serai
mort
Borges.
Bài viết này, có thể coi là bài văn tế sống Mai Thảo, viết vội, khi nghe ông sắp đi. Nguyễn Mộng Giác vội vàng mang vô nhà thương đọc cho Mai Thảo nghe. Ông cám ơn Gấu, qua Nguyễn Mộng Giác, và còn nói thêm, bây giờ, sao nó viết dễ đọc, khác hẳn ngày xưa.
Phí Ích Bành,
ông em Dương Nghiễm Mậu & NQT
@ Phạm Phú Phong's
http://www.tanvien.net/tg/tg_duong_nghiem_mau.html
Dương Nghiễm Mậu: Thật chững chạc, thật cảm động...
Dân làng sau đó,
tới nơi chuông ngân, làm lễ thỉnh tiếng chuông
trở về, từ đó, nó bình thường như mọi quả chuông
khác.
Nguyễn Quốc Trụ
Chú thích: (1)
Dương Nghiễm Mậu vào Nam năm 1954.
TƯỞNG NHỚ NHÀ VĂN DƯƠNG NGHIỄM MẬU (1936 - 2016)
Bất ngờ và đau đớn
khi được tin anh mất - anh Phí Ích Nghiễm, một người con
của xứ Hà Đông quê lụa sống ở Sài Gòn
từ năm 18 tuổi, lấy tên mình ghép với hai chữ đầu tên
quê nội ngoại thành bút danh nhà văn Dương
Nghiễm Mậu.
Nhớ anh, lần gặp đầu ở nhà riêng tại Sài Gòn
sau vụ bốn tập truyện ngắn của anh được công ty Phương Nam và
Nxb Văn Nghệ in lại bị "đánh", tôi có bài
viết trên báo Thể Thao & Văn Hóa về bốn tập này
cũng bị "đá...
NON-FICTION, in the right hands, can prove to be more powerful and perplexing than novels. This is the case with Svetlana Alexievich, an author and investigative journalist who won last year’s Nobel prize in literature for her “polyphonic writings”. “Second-hand time”, her latest book to be translated into English, is her most ambitious yet. From the collapse of the Soviet Union in 1991, Ms Alexievich spent two decades writing down the stories of ordinary people in her native Belarus and beyond. Her book is a unique chronicle of that time and place, yet its themes of hope and loss are universal.
The stories pile up over 700 pages, with love, death and everyday concerns jostling for attention. In the cramped kitchens Ms Alexievich visits, the mundane and historic overlap. The voices she records—named and unnamed, literary Muscovites, Belarusian villagers, Party officials and mothers—repeat themselves, and each other. They argue about whether Stalin and Mikhail Gorbachev, the last leader of the Soviet Union, were villains or heroes. As their world crumbles, people seek solace in books, God, alcohol or suicide. Salami becomes one of the symbols of this brave new world; one man calls it the “benchmark of our existence”, suddenly abundant, though not necessarily affordable.
As in the author’s earlier books, war forms an omnipresent backdrop to their narratives. Older people recall the horror and glory of the second world war, the subject of her “War’s Unwomanly Face”. The present is warlike too; street vendors by the metro make one woman think of a “war film”. Reds clash with Whites, like after the October Revolution of 1917, and history seems to be repeating itself. “Were things any different in 1917? Some people were shooting while others were dancing at balls,” one woman wonders. This cyclical element gives the book its title, with one person observing that “the future is, once again, not where it ought to be. Our time comes to us second hand.”
Amid the new uncertainty, people cling to books and words. Lovers reading an underground copy of the memoirs of poet Osip Mandelstam’s widow forget to kiss, “that’s how ardently we believed that the word could change the world”. The language of the book is lyrical but simple, using words that are short, concrete and vivid. Bela Shayevich’s translation from the original Russian runs smoothly, despite the abundance of terms and cultural references that may be unfamiliar to international readers. Some passages read like music.
A professional listener,
Ms Alexievich manages the feat of being present and invisible at
the same time. If voices are her medium, so too is silence; when a
teenager hangs himself in the bathroom, or when no-one says the final
words at a funeral because “they didn’t know how”. Silences have been
inserted in square brackets, like stage directions or punctuation.
In one of her brief asides, Ms Alexievich announces that “I want to
be a cold-blooded historian, not one who is holding a blazing torch.”
Yet the result is always warm and human, however dark the content. Many
of the people the author meets simply want to talk, sharing memories they
had held on to for years or decades. With “Second-hand time”, Ms Alexievich
has built a monument to these survivors of the collapse of the Soviet
Union; a monument in words.
Tờ Người Kinh Tế
đọc "Thời gian xài rồi xài lại", cuốn sách mới
nhất của Bà Nobel văn chương, Svetlana Alexievich.
Đây là thứ viết,
theo GCC, Dương Nghiễm Mậu, vào những giây phút
cuối cùng của cuộc chiến, bỏ ngòi viết nhà văn,
cầm cây viết không-giả tưởng, viết "Địa Ngục Có Thật":
“I want to be a cold-blooded historian, not one who is
holding a blazing torch.” Yet the result is always warm and human,
however dark the content. Many of the people the author meets simply
want to talk, sharing memories they had held on to for years or
decades. With “Second-hand time”, Ms Alexievich has built a monument
to these survivors of the collapse of the Soviet Union; a monument
in words.
Vẫn theo GCC, cách
viết này hợp với DNM
A few days ago, Juan Villoro
and I were remembering the writers who were important to us in
our youth and who today have fallen into a kind of oblivion, the
writers who at the peak of their fame had many readers and who today
suffer the ingratitude of those same readers and who-to make matters
worse-haven't managed to spark the interest of a new generation of
readers.
We thought, of course, of Henry Miller,
who in his day was read all over Spain, and whose name was on everyone's
lips, but whose fame was perhaps due to a misunderstanding: probably
more than half the people who bought his books did so expecting to find
a pornographer, which in some sense was justified, and also understandable
in the Spain that emerged after almost forty years of censure under
Franco and the church.
At the other extreme we remembered
Artaud, the very spirit of asceticism, who in his day also sold
well and had not a few Spanish and Mexican admirers, and if today
one makes the mistake of mentioning his name to someone under the
age of thirty, the response will surely be devastating. These days,
even film buffs have never heard of Antonin Artaud.
The same is true of Macedonio Fernandez:
his books-except in Argentina, I imagine-are impossible to find
in book- stores. And it's true of Felisberto Hernandez, who had a small
resurgence in the 1970s, but whose stories today can only be found after
much searching in second-hand bookstores. Felisberto's fate, I presume,
is different in Uruguay and Argentina, which brings us to a problem
even worse than being forgotten: the provincialism of the book market,
which corrals and locks away Spanish-language literature, which, simply
put, means that Chilean authors are only of interest in Chile, Mexican
authors in Mexico, and Colombians in Colombia, as if each Latin American country spoke a different language
or as if t aesthetic taste of each Latin American reader were determined
first and foremost by national-that is, provincial-imperatives, which
wasn't the case in the 1960s, for example, when the Boom exploded,
or in the 1950S or 1940s, despite poo distribution.
But anyway, that's not what Villoro
and I talked about. We talked about other writers, like Henry Miller
or Artaud or B. Traven or Tristan Tzara, writers who contributed to
our sentimental education and who are now impossible to find in the
depths of bookstores for the simple reason that they have hardly any new
readers. And also about the youngest ones, writers of our generation, like
Sophie Podolski or Mathieu Messagier, who were simply incredible and
highly talented and who not only can no longer be found in bookstores
but can't even be found on the Internet, which is saying a lot, as if
they'd never existed or as if we'd imagined them. The explanation for
this ebb of writers, however, is very simple. Just as love moves according
to a mechanism like the sea's, as the Nicaraguan poet Martinez Rivas puts
it, so too do writers move, and one day they appear and then they disappear
and then maybe they appear again. And if they don't, it doesn't really
matter so much, because in some secret way, they're us now.
Roberto Bolano: Between Parentheses
Đọc bài viết của nhà
phê bình Nguyễn Lệ Uyên về Dương Nghiễm Mậu, (1) GCC bèn nhớ ra bài viết
này.
DNM, nếu nói về khí phách, về nhân cách, về cá nhân anh, thì thật là tuyệt vời, và đúng là “tự do hay là chết”.
Nhưng… văn
chuơng, nó không phải như vậy, chán thế!
Văn của DNM có 1 thời gây chấn động Sài
Gòn, nhưng thời đó qua rồi.
Đúng ra, anh phải biết điều này, và
không để cho VC in lại sách của anh.
GCC đã từng nhận xét
về anh và Nguyễn Đình Toàn, như là hai
“bản sao” của một TTT, và 1 bạn văn, nhận xét, quá
đúng.
Nay post lại ở đây, và sau đó, sẽ
lèm bèm về Miller, “Thầy của Thầy”, tức triết gia
PCT.
“Có người đến hỏi tôi:
Có đi ra ngoại quốc không? Tôi đã trả
lời dứt khoát: Tôi sống và chết tại nơi này.
Người ấy hỏi: Anh chấp nhận sống chung với người Cộng Sản? Tôi
nói: Tôi không phải là một con chó
để nay sống với chủ này, mai sống với chủ khác chỉ vì
miếng xương chúng liệng ra. Tôi tin tưởng con đường tôi
đi. Có một nơi là lẽ phải và ánh sáng.
Có một nơi là lẽ trái và bóng tối.
Có trắng và đen không thể nhập nhằng được. Nếu tôi
có chết chăng nữa, điều ấy tôi không ân hận.
Lịch sử đã chứng minh rằng: Nhiều khi cái chết là
một điều tốt hơn là sống. Chết đi cho người khác sống,
cho lẽ phải và sự thực, sống chết như thế cần thiết. Tôi
bình tĩnh với quyết tâm đó”. (1)
Note:
Đâu có phải chỉ
1 DNM chọn ở lại. Gần như chẳng 1 ai chọn “đi”, trừ những người
không thể ở lại.
Đọc những dòng trên, như không phải
của DNM. Lớn lối quá!
NQT
Cách viết của DNM, thái
độ của anh với cuộc chiến, một cách nào đó,
hợp với những dòng của tờ Người Kinh Tế, khi tưởng niệm
Boris Nemtsov, người hùng Nga Xô vừa bị giết hại:
Ông ta sinh ra không phải để hận thù,
hay làm người hùng. Ông ta có những giấc
mơ, nhưng không hề có ý trở thành 1 chiến
sĩ chống lại chính quyền, nhà nước phát xít.
Ông ta giản dị là 1 người tốt.
Đúng là thái
độ của DNM trong cuộc chiến.
Nên nhớ, chỉ đến những ngày tháng
cuối cùng của cuộc chiến, anh mới thực sự nhập cuộc, qua
vai trò 1 ký sự gia, hay ký giả, hay ký
giả chiến trường.
He was not born for hatred or
heroics. He had dreams, but had never intended to become a fighter
against state-sponsored fascism. He was simply a good man: too good,
in the end, for the country and the times he lived in. +
Obituary: Boris Nemtsov