|
Lire,
Avril 2005
Cùng lo “Một Con Tầu Cho
Việt Nam”.
“Thà lầm với Sartre còn hơn là có lý với Aron”:
Chỉ đến thời điểm này, thì
Sartre mới nhận là ông lầm.
1979: Ba triết
gia Jean-Paul Sartre, André Glucksmann, và Raymon Aron trong cuộc họp
báo
"Một con tầu cho Việt Nam" [Un bateau pour le Viêtnam].
[Hình từ báo Văn Học Pháp, Magazine Littéraire, số đặc biệt 1966-1996:
La
passion des idées, đam mê tư tưởng.]
Về phía
những nạn nhân
Chiến dịch "Một con tầu
cho Việt Nam" huy động một số những nhà trí
thức, trong có Sartre, Aron và Glucksmann, vượt lên khỏi những ý thức
hệ, và những
bản kẽm cũ mèm về chính trị, một bài học tuyệt vời về đạo đức.
Bernard Kouchner [người thành lập hội Y Sĩ Không Biên Giới]
30.4.2005
Gấu @ tòa soạn
báo Văn Hóa, của Lý Kiến Trúc.
Brodsky
trả lời The Paris Review
Trong tiểu
luận Less Than One, Brodsky phán, lịch sử thiệt của ý thức bắt
đầu cùng
với lời nói dối đầu tiên, the real history of consciousness starts with
one’s
first lie. Và ông kể với ông, là lần ở thư viện, làm thẻ mượn sách, tới
mục
"quốc
tịch", ông lúc đó 7 tuổi, và ông biết rất rõ, ông là 1 tên Do Thái,
nhưng ông
nói với nhân viên làm thẻ, ông đếch biết!
Coetzee,
trong bài viết về nhà văn Do Thái Amos Oz, cũng tin rằng, cái cú khủng
hoảng đạo đức đầu
tiên, với 1 đứa trẻ, là lần đầu tiên nó phải đối diện với sự lựa chọn,
giữa
đúng và sai. Cú chọn lựa này sẽ ảnh hưởng lên suốt cuộc đời của nó.
Sartre, phải
đến gần chết mới nhận là ông lầm. Nhưng có vẻ như chính lũ VC cũng đang
đứng
trước sự chọn lựa này!
Nếu nói lầm, thì xổ toẹt hết, khó thế!
Nếu lần
ngược
lịch sử nước Mít, thì cái lời dối trá đầu tiên, chính là giấc
mơ giải phóng Miền Nam, thống nhất Đất Nước, huỷ diệt lời
trù ẻo, “cái
gì gì”, nàng là giống Rồng, ta là giống Tiên, mi là Gấu Cà Chớn,
ta là…
BHD, không thể ăn đời ở kiếp mí nhau được!
Tưởng
niệm 7 năm TTT mất
XVII
I never saw
a moor
I never saw
the sea;
Yet I know
the heather looks,
And what a
wave must be.
I never
spoke with God,
Nor visited
in heaven
Yet certain
am I of the spot
As if the
chart were given (1)
Emily
Dickinson
I wrote at
least 1,775 poems throughout my life although only seven were
published. I am
often regarded as one of the greatest American poets. Most of my life I
lived
in total isolation from the rest of society, dressing only in white and
prohibiting others from seeing me. Even as I grew sicker, I would only
allow
the doctor to observe me from a distance. After two years of fighting
illness,
I died in the same house I was born.
Tôi viết ít lắm
thì cũng chỉ 1,775 bài thơ trong đời mình,
và chỉ 7 bài được in ra.
Ui chao, những
đấng thi sĩ ngày nào cũng in thơ, có thấy nhột không?
Hà, hà!
XVII
Tôi
chưa từng nhìn thấy “moor” (1)
Chưa
từng nhìn thấy biển
Tuy
nhiên tôi biết “heather” ra sao
Và
sóng biển phải như thế nào
Tôi
chưa hề lèm bèm với Chúa
Chưa
từng tham quan thiên đàng
Tuy
nhiên, tôi chắc mẩm
Trong
tôi có tí mầm của… Chúa
Bài
thơ này là về niềm tin và về tôn giáo và về ý tưởng, rằng, ngay cả bạn
không thể
nhìn thấy 1 điều gì đó, thì không có nghĩa, bạn không thể tin điều này,
và nó
không hiện hữu. Bạn vẫn có thể “biết” những điều mà bạn không thể trưng
ra bằng
cớ, rằng chúng có thực.
Bài thơ này,
TTT dịch, chắc hẳn là do cùng 1 “vệt” với bài thơ của Shakespeare được
ông dịch
và dùng làm đề từ cho Một Chủ Nhật
Khác
Phượng
Hoàng và Bồ Câu
Cái
đẹp, sự thật, sự hiếm quí
Ân sủng rất mực giản dị
Táng tro cốt nơi đây.
Cõi chết Phượng Hoàng nương náu
Và ngực Bồ Câu đoan trinh
Trong thiên thu an nghỉ.
Không lưu truyền tông tích
Chẳng bởi tật nguyền
Vì chưng hôn phối thanh khiết.
Vẻ thật không sao thật
Dáng đẹp phô, hão huyền
Sự thật cùng cái đẹp đã mai một.
Trước quanh quách đôi linh điểu
Hằng chân thật hoặc mỹ miều
Vọng gửi khúc kinh cầu ngưỡng mộ.
Thanh
Tâm Tuyền dịch
The
Phoenix and the Turtle
Beauty, truth, and rarity,
Grace in all simplicity,
Here enclosed'd in cinders lie
Death is now the phoenix' nest,
And the turtle's royal breast
To eternity cloth rest,
Leaving no posterity -
"Twas not their infirmity,
It was married chastity.
Truth may seem but cannot be;
Beauty brag, but 'tis not she;
truth and beauty buried be.
To this urn let those repair
That are either true or fair;
For those dead birds sigh a prayer.
William
Shakespeare
TTT dịch
Bài thơ tên,
số 10, trong nhiều bài, làm thành 1 chương có tên là Thời gian và Vĩnh
cửu, Time and Eternity.
Bài thứ 17,
rất hay được nhắc tới:
Part Four:
Time and Eternity
X
I DIED for
beauty, but was scarce
Adjusted in
the tomb,
When one who
died for truth was lain
In an
adjoining room.
He
questioned softly why I failed?
“For
beauty,” I replied.
“And I for
truth,—the two are one;
We brethren
are,” he said.
And so, as
kinsmen met a night,
We talked
between the rooms,
Until the
moss had reached our lips,
And covered
up our names.
XVII
I never saw
a moor
I never saw
the sea;
Yet I know
the heather looks,
And what a
wave must be.
I never
spoke with God,
Nor
visited
in heaven
Yet
certain
am I of the spot
AS if the
chart were given (1)
Tưởng
niệm 7 năm TTT mất
Chia Tay Ải Tây
Tặng Thanh Tâm Tuyền
Mới độ nào chia tay ải Tây.
Đi đâu hay chỉ cốt rời đây?
Mây trôi, dăm mảng nhớ hư hoặc,
Gom chẳng thành câu chuyện thuận tai
Lời kiệm, quanh ba cái ý
quẩn,
Tiễn đưa vừa một quãng mây bay.
Ra về thấy nhật nguyệt điên đảo,
Ray rứt chưa tròn hẹn ải Tây.
Có thật từng chia tay ải
Tây?
Mây qua để bóng cổ thư này.
Tuyệt cùng ý thức như nơi tới
Tin tức ngàn thu biết hỏi ai?
Bao nhiêu đống lửa đêm
quan ngoại
Gió thổi tan tro mỗi sang ngày?
Trong trời, mây ấy cũ hay mới?
Ải Tây, lần nữa, lại chia tay.
Mãi mãi còn chia tay ải
Tây.
Ngày ngày mây lãng đãng qua đây.
Cõi đời giấu một phía mê tưởng
Đi nép ranh, mường tượng ải Tây.
1-2000
Tô Thùy Yên
Lament for
the makers: Khóc người làm thơ
ROBERT
FROST
NEITHER OUT
FAR NOR IN DEEP
The people
along the sand
All
turn and
look one way
They
turn
their back on the land.
They
look at
the sea all day.
As long as
it takes to pass
A ship keeps
raising its hull;
The wetter
ground like glass
Reflects a
standing gull.
The land may
vary more;
But wherever
the truth may be-
The water
comes ashore,
And the
people look at the sea.
They cannot
look out far.
They cannot
look in deep.
But when was
that ever a bar
To any watch
they keep?
Không xa mà
cũng chẳng sâu
Ném mẩu thuốc
cuối cùng xuống dòng sông
Mà lòng mình
phơi trên kè đá
TTT
Đám người dọc
theo cát
Tất cả quay
và nhìn một phía.
Lưng xoay vô
đất
Mắt nhìn biển
cả ngày.
Con tàu dâng thân lên
Chừng nào
nó đi qua
Thân tầu, lóng
lánh như mặt gương,
Phản chiếu một hải âu đứng sững.
Đất có thể
tang thương như thế nào
Một khi sự
thực thì như thế nào đó –
Nước vẫn tạt
vô bờ
Và mọi người
nhìn ra biển
Họ không thể
nhìn xa
Họ không thể
nhìn sâu
Nhưng liệu có
1 cái kè đá nào
Cho bất cứ 1
cái nhìn mà họ giữ?
Ui chao đọc
bài thơ này, thì bèn nghĩ liền đến bài thơ của Gấu!
Biển
Buổi
chiều đứng trên bãi Wasaga
Nhìn hồ Georgian
Cứ nghĩ thềm bên kia là quê nhà.
Sóng
đẩy biển lên cao, khi xuống kéo theo mặt trời
Không gian bỗng đỏ rực rồi đêm tối trùm lên tất cả
Cát
ở đây được con người chở từ đâu tới
Còn ta bị quê hương ruồng bỏ nên phải đứng ở chốn này
Số
phận còn thua hạt cát.
Hàng
cây trong công viên bên đường nhớ rừng
Cùng thi nhau vươn cao như muốn trút hết nỗi buồn lên trời
Chỉ
còn ta cô đơn lẫn vào đêm
Như con hải âu già
Giấu chút tình sầu
Vào lời thì thầm của biển...
“Trong thư,
em viết, có thể, em sẽ ghé thăm Prague trong tháng tới. Tôi muốn nói
liền với em, đừng,
hãy để cho tôi hy vọng, rằng, sẽ có 1 ngày, tôi khẩn cầu em, vào cái
lúc mà tôi tận cùng, kiệt quệ, và em đến liền
tức thì, nhưng lúc này, đừng, đừng”
Thư Kafka gửi Milena
Jesenská, 18 Juillet 1920 (1)
Bản tiếng Tây:
Tu m’écris
que tu viendras peut-être à Prague le mois prochain. J’ai presque envie
de te
dire : ne viens pas. Laisse-moi l’espoir que si, un jour, je te demande
de
venir quand je serai dans la pire détresse, tu arriveras immédiatement, mais maintenant il
vaut mieux que tu ne
viennes pas”
Ui chao, đọc
1 phát, thì bèn nhớ ra cái cảnh Trung Uý Kiệt chạy dưới trời Đà Lạt,
mưa, ướt sũng, như con gà nuốt dây thun, run,
như con
thằn lằn đứt đuôi... vô Bưu Điện, đánh 1 phát điện tín, "cầu kíu"
cô học trò nhí,
Oanh, "S.O.S.
Au secours!"
Rồi chạy ra, rồi lại chạy vô, lấy lại bức điện.
Em cũng… vô
ích, cũng nhảm, chẳng đáng,
chẳng đáng!
Hà, hà!
*
Đúng buổi
sáng ngày Kiệt bị quật ngã, chàng mới có quyết định đánh bức điện tín
cho Oanh.
Chàng đội mưa chạy đến Bưu Điện. Cơn sốt đã bập bùng bên lỗ tai như
tiếng sấm.
Chàng viết bức điện tín, tay run như đuôi con thằn lằn đứt. Chàng viết,
chàng
nhớ đúng như in chàng đã nói: S.O.S. Au secours. Bớ người ta cứu tôi
với. Kiệt.
Kiệt nghĩa là hết sạch, chẳng còn gì, chẳng còn tí tẹo nào. Cô nhân
viên Bưu Điện
vốn quen vì gặp hàng tuần, trợn mắt: Ông không điên chứ ông Kiệt? -Tôi
điên chớ,
rõ ràng là tôi điên đây thôi. –Ông nhất quyết gửi bức điện này? -Chớ sao nữa, còn gì nữa. Tôi đang cần tiền,
hết tiền tiêu rồi, phải kêu kiểu đó mới có tiền. Kiệt cười hộc. Chàng
ra khỏi
Ty Bưu Điện chạy xuống hồ lại vòng lên xin rút bức điện lại. Chàng ướt
còn hơn
buổi sáng đưa Oanh đi. Mưa nhòa hết cảnh vật, nhòa hết cảm xúc, ý nghĩ,
và quyết
định. Oanh cũng bó tay mà thôi.
-Anh coi thường
em quá. Oanh ngăn xúc động, dịu dàng nói.
-Rồi em sẽ
hiểu, nên để người ta coi thường mình. Kiệt trở giọng giận dữ. – Mình
là cái
quái gì. Anh chỉ mong mọi người coi thường anh. Được coi thường, thường
hết, dễ
sống. Không có ai là ghê gớm, là thiết yếu đối với ai ở đời này. Rỡn
chơi vậy.
Em hiểu không, nói rỡn vậy mà chơi thôi. Chẳng đáng một đồng bạc cắc.
Anh đâu
có thiết yếu cho em, mà em đâu có thiết yếu cho anh. (1)
Hay là
cảnh
chính GCC đợi BHD nơi quán cũ, chưa đầy 5 phút, đã bỏ đi!
Lần
cuối
cùng hẹn gặp trước khi Gấu lấy vợ: cô đang học y khoa, ở tít mãi trong
Chợ Lớn.
Chỗ gặp mặt là một quán Tầu ngay Chợ Đũi. Gấu vẫn thường ngồi đó, chờ
cô bé đưa
em đi học tại một trường kế bên, rồi ghé. Cô em gái có lần thấy, đang
bữa ăn
chiều như nhớ ra, kêu "chị, chị ra đây em nói cái này hay lắm: buổi
sáng
em thấy chị đi với anh Gấu."
Bạn bè, cô,
và cô em gái vẫn gọi anh bằng cái tên đó. "Có thể bữa nào giận H. nó sẽ
nói cho cả nhà nghe, nhưng cũng chẳng sao..."; Gấu ngồi chờ, cố nhớ lại
những
kỷ niệm cũ. Khi quá giờ hẹn 5 phút, anh bỏ đi.
Sau này, anh
nghe cô kể lại: Bữa đó, trời mưa lớn, H. đội mưa chạy xe từ Đại học Y
khoa, suốt
quãng đường Chợ Lớn - Sài Gòn. Cũng biết là vô ích, vô phương. Lũ bạn
nói, con
này điên rồi. Tới nơi, đã trễ hẹn. Thường, em vẫn trễ hẹn, anh vẫn chờ
(có lần
anh nói anh có cả một đời để chờ...), nhưng lần đó, em hiểu.
Bữa đó, mưa
lớn thật. Gấu đội mưa đi ra khỏi quán. Đi khơi khơi, không chủ đích, mơ
hồ hy vọng
những đợt mưa xối xả trên thành phố Sài Gòn xóa sạch giùm tất cả những
kỷ niệm
về một cô gái
Hà Nội,
độc,
và
đẹp...
Tưởng
niệm 7 năm TTT mất
Đen
Một người da
đen một khúc hát đen
Bầu trời đen
sâu không cùng
Những giòng
nước mắt
Xé nát thân
thể bằng tiếng kèn đồng
Bằng giọng
của máu của tủy của hồn bắt đầu ngày tháng
Giữa rừng
không lời rừng mãi trống không
Ném mình ném
đám đông vào trần truồng tủi cực hờn xác thịt
Tan vỡ hôm
qua hôm nay kể gì ngày mai
Tội rằng
không quên chẳng thể được quên
Vì Blues
không xanh vì điệu Blues đen
Trên mầu da
nức nở
Trong hộp đêm
Bắt đầu chảy
máu thầm kín khóc cổ họng mình
Ngón tay cấu
lấy ống kèn như bùa thiêng
Chọn ngoài
thể xác ngoài thương yêu ngoài dữ tợn
Chọn thế
giới va chạm những loài kim réo gọi
Thời gian mềm
Không gặp
thời gian
Không gian
quay thành những vòng kỷ niệm
Rồi một buổi
nào Blues hiện về xanh.
Thanh Tâm
Tuyền: Liên Đêm Mặt Trời Tìm Thấy
TTT by Phan Lạc Phúc
Trong "Ghi chú
về Brodsky", Milosz viết: Đời như 1 câu chuyện ngụ ngôn đạo đức. Nhà
thơ
bị bỏ tù,
kết án, rồi bị lưu đày nội xứ, và sau khi chết, nhà nước quỳ bên cạnh
chiếc hòm của
ông. Đúng là 1 câu chuyện thần tiên, và quả đúng như thế, trong thế kỷ
chẳng thể
có chuyện thần tiên của chúng ta.
Có cái gì giống với TTT ở
đây. Chưa từng có 1 tên Ngụy nào được như ông, vào thời
điểm này
của đất nước. Một nhà thơ Ngụy. Một tên sĩ quan Ngụy. Một tên Bắc Kít
bỏ chạy,
đứa con tư sinh của 1 miền đất, như ông viết về mình.
“Tôi phép tôi
mọi chuyện, ngoại trừ phàn nàn”, Brodky phán.
“I permitted
myself everything except complaints."
TTT chẳng thế
sao?
Tưởng
niệm 7 năm TTT mất
Chất bảo
Gấu, lần gặp ở San Jose:
Mấy con ngỗng có thiệt đấy. Hồi nhỏ tớ sợ chúng
lắm!
Anh cho biết thêm, những nhân vật trong BL, đa
số có thực. Tác giả cho nhân vật chính mượn cả cái tên của mình, nhưng
không biết, trong tiềm thức, ông nhận ra, Tâm, Bếp Lửa, Hà Nội là… một?
Trên trang đầu
bản thảo có đề câu của Rimbaud: Je
est un autre [Tôi là kẻ khác], nhưng khi đưa
in tôi đã xóa bỏ.
Tựa, lần in
thứ tư, ấn bản chung quyết.
Moby Dick,
tôi nhớ là đọc khi còn đi học, cùng với bà cụ TTT, nhà xb "Zhiên
Hồng" [?]
của Lê Bá Kông... Hình như cũng nhờ tiền của Xịa! Nhà này còn cho xb
nhiều tác
giả Mẽo khác nữa. Tuyệt lắm. Tôi đọc được rất nhiều nhờ nó.
NQT (1)
Một
trang TV cũ
Tôi không như
Steiner, cái giá để trả cho một cuộc sống không tổ quốc, tôi sẽ không
chịu trả.
Với lũ chúng tôi, đi tới đâu, là mang theo cái bi kịch da vàng, da [Do]
Thái tới đó.
-Oz 'bàn về' rất nhiều phụ nữ, nhưng đa số ghét cái kiểu mà ông ta
bàn về họ. Những nhân vật nữ của ông ta thì như con nít, và khùng khùng.
Tôi không viết về đàn bà hạnh phúc, không viết về đàn
bà, đàn ông hạnh phúc. Đồng Ki Xốt, với một tay chữa trị bệnh lý, chẳng
phải là một thứ khùng khùng và con nít?
Có một thứ văn chương bi thảm ở một phần của thế giới. Nếu Cá Voi Trắng của Melville, ra lò
với cái tên Garcia Marquez, thì đây sẽ là một ẩn dụ về sự độc tài. (2)
Kỷ niệm với
nhà thơ
Fri, 24 Mar
2006 01:14:44 -0800 (PST)
[…] xin chia
buồn với anh về sự ra đi của ông Thanh Tâm Tuyền, một người dường như
đã mang một
phần đời của anh.
Hay, anh
mang một phần đời của ông ấy?
K
Tks
NQT
Nhà bạn Chất
lúc đó chỉ có mỗi một phòng khách, bên trong là phòng ăn, bên trong nữa
là cái
bếp. Kế bên bếp, ở bên ngoài, là nhà tắm. Chỉ có vậy. Lần đầu Gấu tới,
thấy anh
Tâm ngồi góc bên trái, phía cuối phòng khách, đưa cả hai chân lên chiếc
ghế,
trước mặt anh là một cái bàn nhỏ, chẳng thèm để ý đến thằng em, bạn
thằng em.
Có muốn lịch sự chào thì cũng chẳng làm sao cho anh ngẩng đầu lên được.
Bạn bè anh
Tâm dù có muốn ngủ lại cũng chẳng có chỗ. Thất Hiền tối đến, dẹp hai
chiếc ghế
xa lông phòng khách, trải một tấm nệm xuống sàn, là xong. Sau này, cụ
buôn bán
khá ra, bèn mua luôn tầng trên, làm một cái phòng cho anh Tâm, một cầu
thang gồm
mấy bực xi măng lên thẳng sân thượng, không qua nhà dưới, làm thêm một
phòng gỗ,
sàn gỗ, phòng Cậu Chất, như cô người làm thường gọi. Trong nhà có một
cầu thang
gỗ, lên hết cầu thang, phía bên trái, phòng Cậu Chất, bên ngoài có bao
lơn gỗ,
có cây me lòa xoà cành lá. Tới khi hai ông con có gia đình, cụ mua thêm
căn nhà
phía bên cạnh, trước là nhà anh Thu, bạn anh Tâm. Gia đình anh Tâm sau
ở đây,
nhà cũ bên kia thuộc phần Cậu Chất. Cụ ở bên Cậu Chất với Cô Nga, vợ
Cậu Chất.
Buổi tối, những
ngày sau ngày thứ nhất đó, những lúc hai ông con không có nhà, Cụ một
cái ghế
bành, Gấu một cái ghế bành, ngồi cái kiểu đưa cả hai chân lên ghế. Cụ
kể cho Gấu
nghe, những ngày ở Hà Nội. Những ngày "Thằng Tâm" mê đọc sách Mác Xít
ở thư viện Hà Nội bị phòng nhì Pháp ghi tên vào sổ đen. "Thằng Tâm" dậy
học, đạp xe vào tận Hà Đông. Hai bà cháu nói về cô Lara, người tình của
Bác Sĩ
Zhivago, cuốn sách gối đầu giường của Gấu những ngày đó đó. Nói về những nhà văn Mỹ, đọc qua bản dịch tiếng
Việt, của nhà xb Zhiên Hồng. Về Hawthorne, về một truyện ngắn của ông
mà cả hai
bà cháu cùng suýt soa.
Câu chuyện một
người khách lạ lỡ độ đường ghé căn nhà lủng lẳng bám vào vách núi.
Trong đêm
khuya, bên bếp lửa, khách nói về thế giới bên ngoài, và cô gái con chủ
nhà chăm
chú nghe, mơ màng nghĩ đến một cuộc đời khác, ở đâu đó bên dưới, ở nơi
xa xa.
Đêm đó có bão, tuyết lở, núi lở, khách và gia đình chạy ra hầm trú ẩn.
Đá đổ lấp
kín tất cả, nhưng căn nhà lơ lửng bám vào vách núi thì chẳng chút suy
suyển.
Căn nhà y hệt
những ngày cũ. Hồi đó, chưa
có cái cổng sắt.
Gấu đã kiếm
ra nguyên tác, cái truyện ngắn mà Cụ Chất, và thằng Gấu cùng đọc, và
cùng tấm tắc,
những ngày đầu quen bạn Chất, và được bạn đem về nhà, cho tá túc, cưa
đôi bữa
ăn sáng dù lúc đó đang cái tuổi ham ăn ham đói, ham lớn, ham làm người.
Ôi chao nghe
bạn nói mà thấy xót xa, bồi hồi:
Hồi đó sao mà lũ chúng mình sướng thế nhỉ!
Tên cái truyện
ngắn là The Ambitious Guest,
Người Khách Tham Vọng. (1) Hồi đó, được nhà xb
Ziên [hay Zhiên?] Hồng dịch, cùng với những truyện như Mối Tình Thiên Thu, Tiếng
Gọi Của Rừng Thẳm, của Jack London, Phép lạ Miền Núi [?].
Thuở mới lớn
của Gấu được nuôi dưỡng bằng tình bạn Thất Hiền, tình thương của Cụ
Chất, và bằng
văn chương, chiết ra từ những tác phẩm như thế đó.
Sướng thiệt!
Nhớ thiệt!
(1) Lần đầu
được in trong tạp chí The New
England Magazine, June 1835, sau, trong cuốn Những
Câu Chuyện Kể Hai Lần, Twice-told Tales, lần in thứ nhì, 1842.
Đây là một truyện
ngắn dựa trên sự kiện thực.
Khi quen bạn
Chất, Gấu không hề biết hai gia đình, gia đình Cụ Chất, và gia đình
Bông Hồng
Đen, quen biết từ ngoài Bắc. Từ Hà Nội.
Mãi tới sau
này, khi gặp bạn Chất ở San Jose, mới đây, sau khi anh Tâm mất, Gấu mới
biết
gia đình Cụ Chất đã từng ở trong Nam, rồi ra lại Đất Bắc, đến 1954, lại
trở
vô. Chi tiết này giải thích truyện ngắn
Cuối Đường. Với câu mở ra như sau:
Đầu năm 1949
tôi bỏ Sài Gòn về Hà Nội. Từ một thành phố yên ổn vui tươi trở lại, tôi
rơi xuống
một thành phố điêu tàn ngơ ngác
Cung Trầm Tưởng
một bên, ông em, Dzư Văn Chất một bên.
[Hình trên báo Thời Tập của Viên Linh]
Khi Gấu biết
anh ở Đệ Nhất Chu Văn An, thì anh có tên là Phạm Dzư Chất, do mất khai
sinh, phải
là thế vì, lấy họ Phạm, của 1 nhân vật sau đi vô tiểu thuyết với cái
tên Chính,
trong Bếp Lửa.
Đoạn hai đấng
Tâm & Chính đối thoại trong Bếp Lửa,
với 1 bạn văn rất thân quen với Gấu, là đoạn tuyệt nhất trong cuốn
truyện, trong
đó, thay vì người, thì thiên nhiên – mưa - nói, như mưa, trong Giã từ
Vũ khí, của
Hemingway, như bùn, trong Bảy Hiệp Sĩ, Seven Samurai, 1 phim Nhật, hay
như bụi, cũng
trong Bảy Hiệp Sĩ, 1 phim Mẽo lập lại phim Nhật:
Ông Chính đứng lên khép cửa và cửa sổ. Bóng ông in lên vách. Ông
dừng một
chút nhìn qua cửa sổ ra ngoài và hỏi tôi –
mưa lúc ấy đổ mạnh khiến tiếng ông thấp thoáng
và tôi sởn gai ốc khắp người vì lạnh:
“Anh Tâm. Tôi muốn anh thành thật trả lời câu hỏi này của tôi”. Vài
giây cách
quãng, mưa to hơn. “Giữa chúng ta có xẩy ra chuyện gì không đẹp không?
Anh cứ
nói thẳng với tôi.”
Tôi muốn đứng dậy nhưng không rời chỗ. Tôi nghe trong tiếng mưa vẫn còn
vang tiếng
của ông Chính khắp gian phòng.
“Thưa thầy không bao giờ tôi nghĩ lại có thể có câu hỏi ấy giữa thầy và
tôi.”
Tôi bị xúc động mạnh.
Ông Chính quay đầu lại, mắt ông chớp nhanh, ông nói:
“Tôi muốn giữa chúng ta có được sự thẳng thắn.” Ông nuốt nước bọt. “Dù
thế nào
chúng ta cũng đã sống với nhau hơn mười lăm năm, lúc có mẹ cũng như lúc
không.
Lúc nào tôi cũng coi anh là người thân nhất của đời tôi và tôi chắc anh
cũng
như tôi vì anh cũng chẳng còn ai thân thích. Trước khi lấy mẹ tôi đã có
một đứa
con gái nhưng chúng tôi không sống gần nhau…”
Ông Chính không gọi mẹ anh, ông gọi mẹ để tỏ sự kính trọng. Sự có mặt
của người
đàn bà ấy hiện lên giữa chúng tôi. Chính người đàn bà đau khổ cho đến
lúc nhắm
mắt ấy là người buộc chúng tôi với nhau. Ngay những giờ phút monh manh
nhất người
vẫn với sự âm thầm cố hữu nối kết chúng tôi: năm 45 tôi ở miền Nam, còn
ông
Chính ở biên giới Trung Hoa, rồi chúng tôi lại trở về bên người đàn bà
ấy. Và
chính bây giờ vẫn còn người ấy, mãi mãi chăng? Bắp thịt má ông Chính
giật giật.
Tôi bàng hoàng nói:
“Thầy đừng nên có ý nghĩ ấy. Không hề có một câu chuyện nhỏ nào cả. Nếu
có chỉ
là sự vụng về của tôi khiến thầy nghi ngờ thì tôi xin lỗi thầy. Thầy
cũng hiểu
tôi còn những điều dự tính riêng, nhưng bao giờ tôi vẫn là con thầy như
khi còn
mẹ và…”
Mưa dịu hơn trước. Ông Chính ngồi xuống.
Chúng tôi đi nằm vào lúc mười một giờ. Tôi thao thức không sao ngủ
được. Mưa dầm
và lạnh. Ông Chính chong đèn đọc sách khuya. Tôi biết ông cũng không
ngủ được.
Tôi thương ông vô cùng, sự già cả và cô đơn vây lấy ông. Tôi nhớ đến
ngày giỗ mẹ
tôi vừa qua, chúng tôi không ai làm gì cả; buổi tối hôm ấy ông Chính
không về
nhà và tôi đi ngủ sớm. Giá có người đàn bà chúng tôi sẽ thân nhau ở nhau ở những
chuyện nhỏ nhặt ấy. Khi tôi ngủ, đèn đọc sách của ông
Chính vẫn còn sáng.
Gần ba giờ sáng. Mưa rơi sâu vào giấc mơ. (1)
*
Ẩn dụ,
Aristotle nói, là linh hồn của thơ.
Nhà thơ Osip Mandelstam, chắc hẳn có ý nghĩ đó trong đầu, khi viết,
thơ, giống
như chiếc máy bay đang bay ngang trời, đẻ ra một chiếc khác, từ bụng
nó, và, cứ
thế, cứ thế.
Cái phôi tiền sử đẻ ra phôi Gulag, cứ thế, cứ thế. From frozen
salamander to
Gulag and its ‘tribe’ to Archiprlago – to the whole of ‘monstrous’
Bolshevik
Russia as a giant salamander.
Nhưng D. M. Thomas viết, một cách thật tuyệt, "Ở đây,
người đọc cảm thấy, có một nhà văn, với can đảm, sức
mạnh, và thiên tài, huỷ diệt Medusa, bằng cách nhìn thẳng vào con quái
vật, qua
tấm gương nghệ thuật."
*
Đọc, Gấu tưởng tượng ra, cái phôi đẻ ra Thơ Ở Đâu Xa.
Đó là hai câu thơ, trong Tôi Không Còn Cô Độc:
Chúng nó làm Cộng Sản,
Chúng ta làm tù nhân.
*
TTT đã từng toan tính dịch Tầng Đầu!
*
Trên Tin Văn, Gấu cũng đã từng kể, đã từng được thưởng thức cái phôi
tiền sử,
khi đi tù ở Phạm Văn Cội, Củ Chi.
Phôi tiền sử, với Gấu, thì là một con tép nhỏ, trong một con kinh ta
đào đã có
nước chẩy qua. (1)
Ngã trên núi
Việt Hồng Yên Bái khi đi lấy nứa
Tuột dốc té
nhào trên hẻm núi
Chết điếng
toàn thân trong giây lâu
Mưa rơi nhẹ
hạt, mưa phơi phới
Chiều đang
tàn hiu quạnh rừng sâu
Ngửa duỗi
chân tay gối trên nứa
Ngó trời nhá
nhem nghe mưa mau
Tưởng chừng
thi thể đang thối rữa
Hồn viển
vông chẳng chút oán sầu
Mưa tung tấm
lưới trắng dầy khít
Làng xóm dưới
núi ở phương nào?
Gió rét tái
tê bó liệm chặt
Thiếp lịm hồn
quên bãng sước đau
Dầm mình
trong hạnh ngộ ẩn mật
Hoen nhòa mắt
hứng giọt thiên thâu
Dò bước lối
mờ nhắm ánh đuốc
Tiếng người
lùng kiếm gọi dưới sâu
[nguồn talawas]
REQUEST
Teach us too
to fold our fingers
to brace a
door on the other side
Of rooms of
a love already lost
May what
dreamed of happiness
and shielded
a slender flame
when the
need arises form a fist
and after
the struggle is ended
allow us to
straighten our fingers
even if it
leaves us only a void
taking
defeat in an open hand
holding a
skull in soft fingers
at that
moment you start again
the great
cause of open hands
a playful
traveling over strings
the ultimate
grain of salvation
Zigniew
Herbert
Thỉnh cầu
Dạy chúng ta
làm sao khum ngón tay
Ôm cái cửa ở
phiá bên kia
Những căn
phòng tình yêu đã mất
Cái gì mơ hạnh
phúc
Che chắn ngọn
lửa mảnh rẻ
Khi sự cần
thiết dâng lên tạo thành nắm tay
Và khi trận
đấu chấm dứt
Cho phép
chúng ta duỗi ngón tay
Ngay cả khi
cái còn lại chỉ là 1 trống rỗng
Nắm lấy sự
thất bại bằng bàn tay mở rộng
Giữ cái đầu
lâu bằng những ngón tay mềm mại
Vào khoảng
khắc đó, bạn lại bắt đầu
Nghĩa cả
trong bàn tay mở
Cuộc du hành
vui tươi trên những sợi dây
Hạt tối hậu
của cứu rỗi
Note: Gấu đọc
bài thơ của Herbert và bèn nhớ tới bài "vác nứa té núi", của TTT.
Kỷ niệm này có
thực. Lần gặp bạn Chất, khi đó ở cùng Trại với ông anh, anh kể lại, đến
tối mịt,
không thấy ông về, không chỉ ông em, mà cả Trại lo.
Bài thơ của Herbert, khổ thứ nhì, Gấu dịch loạng quạng, nhưng cứ “pốt
[post] phứa” lên TV, hy vọng có bạn nào sửa giùm.
Đọc lại toàn
bài, thì nó lại lòi ra công án “hãy dạy cho ta [nghe] tiếng/cách vỗ của
1
bàn tay. Đây là 1 công án thiền/thơ/cứu rỗi…. theo như
Steiner, qua bài viết thần sầu, “The Retreat
from the Word”, Chữ Lùi, trong “Ngôn ngữ và Câm lặng”:
In an essay
contained in the same volume, "The Retreat from the Word," Steiner
urges
us to follow oriental metaphysics and Wittgenstein and consider silence
as a
response to the ineffable (1)
“Một lần anh
Long và một người bạn nữa đã thách
anh đến vuốt tóc em và anh đã làm thật. Ở con đường ra đồng trước cửa
nhà một
người Pháp có nuôi một đàn ngỗng dữ và em đã về mách nhà anh cái tội
trêu trọc
em và tôi đứng đó ăn cắp trứng ngỗng.”
Tôi nắm chặt hơn tay Hạnh, có cảm giác hổ thẹn về những hành động ngây
thơ táo
bạo và tôi đáp:
“Nhưng em cũng biết là bà ngoại anh chẳng bao giờ trị tội anh cả.”
Hạnh gật đầu và cái búi tóc nghiêng xuống vai về phiá tôi. Hạnh hỏi lại
tôi:
“Học hết lớp nhất anh đi Sài Gòn? Anh làm gì?”
Tôi nói điềm nhiên và thành thật, ngoài ý muốn:
“Anh đã bán báo, làm thợ, và học nghề chữa ô tô.”
BL
Chất bảo
Gấu, lần gặp ở San Jose:
Mấy con ngỗng có thiệt đấy. Hồi nhỏ tớ sợ chúng
lắm!
Anh cho biết thêm, những nhân vật trong BL, đa
số có thực. Tác giả cho nhân vật chính mượn cả cái tên của mình, nhưng
không biết, trong tiềm thức, ông nhận ra, Tâm, Bếp Lửa, Hà Nội là… một?
Có thể vì
thế, ông đã tính để câu “Tôi là kẻ khác”,
lên trang đầu, nhưng phút cuối, trước khi đem in, gạch bỏ.
Nhớ Thanh
Tâm Tuyền...
Phan Lạc
Phúc
Note: Đoạn mới
viết, do sơ ý, Gấu delete mất tiêu.
Sorry.
NQT
Gõ Google,
ra khúc này:
Nói Thêm Về
Thanh Tâm Tuyền (1)
Tôi đã định
kết thúc loạt bài "Tưởng Niệm Thanh Tâm Tuyền" (Thanh Tâm Tuyền, nhà
thơ, nhà văn chủ lực của Sáng Tạo và cũng là nhà giáo, người tù cải tạo
Dzư Văn
Tâm). Loạt bài này được đăng tải ở Úc, Mỹ, Gia Nã Đại và may mắn cho
người viết
có một số "phản ứng" vọng về. Do vậy nên kẻ viết bài này xin được
"nói thêm về Thanh Tâm Tuyền" để hy vọng giải tỏa được phần nào những
nghi vấn còn đọng lại. Như đã thưa trước, tôi chỉ là người bạn "đời
thường"
của Dzư Văn Tâm, nên biết đến đâu, xin thưa đến đó mà thôi.
Một người bạn
"lính" và cũng là bạn tù từ bên Mỹ phone sang hỏi rằng "Tôi đi
HO1 cùng với gia đình Thanh Tâm Tuyền năm 1990 tới Lousiana mà sao bạn
lại nói
Thanh Tâm Tuyền định cư ở Minnesota".
Chất vấn của bạn đúng
nhưng thưa bạn
chỉ đúng ở giai đoạn đầu. Bà Thanh Tâm Tuyền có người anh làm phi công
lập nghiệp
ở Lousiana. Ông anh này bảo lãnh cho gia đình bà em nên khi đi HO 1 cả
gia đình
Thanh Tâm Tuyền tới Lousiana như ông bạn nói. Nhưng một thời gian sau,
những
người bạn của Thanh Tâm Tuyền ở Minnesota như Cung Tiến, Nguyễn Cao Đàm
mới
thuyết phục Thanh Tâm Tuyền từ Lousiana sang Minnesota. Cung Tiến lúc
đó, ngoài
tính cách một nhà soạn nhạc, anh còn là nhà nghiên cứu và phân tích
trong Viện
Bảo Toàn Kinh Tế Minnesota (Minnesota Department of Economics
Security). Cung
Tiến cũng còn là một thành viên tích cực trong Hội Nhân Quyền Quốc Tế
(International Federation of Human Rights) và là một nhà hoạt động
không mệt mỏi
của cộng đồng người Việt Tự Do bắt đầu đông đảo ở St Paul. Còn người
bạn cũ
Nguyễn Cao Đàm ở Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị và trường Cao Đẳng Quốc
Phòng
lúc bấy giờ cũng đang làm cho chính quyền tiểu bang vì ngày xưa anh học
Ph. D ở
đây. Vì những người bạn này nên khi định cư ở Mỹ, nhiều anh em văn nghệ
đã dừng
chân ở Minnesota như Vũ Khắc Khoan, Võ Phiến, sau này như Cung Trầm
Tưởng, Tô
Thùy Yên. Đây là "đất lành" vì ngoài những anh em văn nghệ Thanh Tâm
Tuyền còn có những người bạn thân từ thời đi học ở đây như các anh
Nguyễn Văn Vỹ
(dạy học), anh Nguyễn Ngọc Diễm (Bộ Ngoại Giao). Gia đình Thanh Tâm
Tuyền từ
Lousiana chuyển sang Minnesota có lẽ vì nơi này nhiều bạn bè hơn, đông
vui hơn,
dễ sống hơn.
Tôi không có
những kỷ niệm về "đi dạy" với Thanh Tâm Tuyền nhưng các bạn trong nghề
này như Nguyễn Sĩ Tế, Doãn Quốc Sĩ, Vũ Khắc Khoan... đều nhận định rằng
"tuy mang danh là 'người nổi loạn' (l' homme révolté) nhưng bài giảng
quốc
văn của Thanh Tâm Tuyền trong lớp lúc nào cũng đúng chương trình, nhiệt
thành
và mới lạ. Tôi mới được đọc một đoạn hồi ức của nhà văn miền châu thổ
sông Đồng
Nai Võ Kỳ Điền (VKĐ) viết về "Thanh Tâm Tuyền tỉnh Bình Dương và những
ngày dạy học". Tôi cũng không ngờ VKĐ lại là học trò cũ của Thanh Tâm
Tuyền
vì hai người tuổi tác không xa nhau bao nhiêu. Nhưng tôi chợt nhớ ra
Thanh Tâm
Tuyền đậu tú tài rất sớm (16 tuổi rưỡi) và cũng "thân lập thân" khi vừa
mới lớn lên. VKĐ đã viết về ông thầy học cũ với những lời lẽ chân
thành, xúc động.
"Thanh
Tâm Tuyền đã viết những dòng chữ lạ thường giữa một thời đại cũng hết
sức lạ
thường của dân tộc VN... Nhưng đối với riêng tôi, mãi mãi, Thanh Tâm
Tuyền là một
thầy giáo phẩm hạnh được học trò thương yêu và kính mến. Thầy cực kỳ
thông
minh, nhiều tài năng, kiến thức sâu rộng... Tác phẩm của Thanh Tâm
Tuyền càng bị
đả kích, càng sáng chói. Nhờ thầy Tuyền mà tôi biết mê cái thế giới văn
chương
với những nhận xét độc đáo, kỳ lạ... Những lúc thầy giảng bài, cả lớp ở
dưới
trông lên, không nháy mắt... tôi nhìn bằng cả một cõi lòng say mê, kính
phục...
Mà đâu phải chỉ có mình tôi thấy như vậy. Hình như các chị ở trong
trường ai
cũng đều ái mộ thầy hết... Tôi ước ao mai sau vừa được làm thầy giáo,
vừa viết
văn, làm thơ".
Ở cuối bài,
VKĐ có ghi lại một nhận xét thế này "Nhà văn Kiệt Tấn cho biết Thanh
Tâm
Tuyền cưới vợ là người đẹp Bình Dương ở miệt Búng. Tôi chưa từng nghe
ai nói về
việc này. Tôi hoàn toàn không biết gì về cô. Nếu cô thật là người Búng
thì thi
sĩ Thanh Tâm Tuyền và đất Bình Dương quả thật có duyên nợ, ân tình".
Thưa ông Kiệt
Tấn, người bạn cũ năm ngoái từ Paris sang đây chơi, chúng ta không có
dịp nào nhắc
đến Thanh Tâm Tuyền; không biết ông dựa vào nguồn tin nào mà ông nói bà
Thanh
Tâm Tuyền là người ở Búng. Theo chỗ tôi được biết, ông thân với Cung
Tiến, gần
với Nguyên Sa mà khá xa với Thanh Tâm Tuyền. Bà Thanh Tâm Tuyền, không
phải
"người đẹp Bình Dương' mà là "tiểu thư Hậu Giang' lên Sài Gòn học,
tôi không còn nhớ tại trường Nguyễn Bá Tòng hay Trường Sơn. Nhưng đã là
học trò
ông Thanh Tâm Tuyền thì theo như ông VKĐ vừa kể ở trên, từ sự cảm phục
chuyển
sang sự say mê là một chuyện rất gần. Vả chăng bà Thanh Tâm Tuyền luôn
luôn có
một sự trân trọng đối với nghề dạy học. Tôi còn nghe kể bà chọn trường
cho cậu
con trai lớn Dzư Minh Trí khi Trí vừa học xong trung học lúc Thanh Tâm
Tuyền
chưa được tha về. "Bây giờ con học cái gì hở mẹ?"- "Ngày xưa ông
nội con làm nghề dạy học, bố con cũng thế thì bây giờ con vào trường
Cao Đẳng
Sư Phạm đi" (Sở dĩ phải vào cao đẳng mà không vào đại học vì "con ngụy"
lý lịch kém không được vô đại học).
Cậu con đầu
này cũng ngang tàng, gai ngạnh không kém. Cậu học chuyên văn, các giảng
sư thường
từ Hà Nội chuyển vào. Cao trào khi ấy là hạ nhục miền Nam trên mọi
phương diện:
Xã hội chó sói, kinh tế ăn mày, văn hóa nô dịch. Các văn nghệ sĩ bị cầm
tù hay
đày đọa triền miên. Thân sinh ra Dzư Minh Trí là một trong những cái
tên bị thóa
mạ nặng nề. Cậu sinh viên "con ngụy" nghiến răng chờ đợi. Mãn khóa (2
năm) Dzư Minh Trí nhận một nhiệm sở đầu sóng ngọn gió Cần Giờ. Một bữa
cậu về
trường đứng đợi. Giảng sư "chửi bố" cậu vừa ra, cậu đâm xe vào honda
của người ấy. Trong cơn cãi vã, Trí "đục sặc máu mũi" nhà giảng sư
kia rồi chuồn thẳng. Tình hình như vậy, Trí không thể nào ở lại được
nữa, phải
vượt biên ngay. Nhưng chuyến vượt biên vội vàng ấy, như trong bài trước
đã nói,
không xong. Ngày 29 Tết năm 1987, Thanh Tâm Tuyền lên Trung Chánh hỏi
thăm thì
nhận được tin "chuyến tàu vừa bị CA bắt".
Tôi đã vô
cùng lo lắng cho gia đình bạn nhưng nhờ Trời "cùng tắc biến, biến tắc
thông". Thời "mở cửa" cứ có "cây", có "chỉ"
là muôn sự đâu vào đấy hết. Minh Trí lại được về, mưu tìm một chuyến đi
khác nữa.
Nhưng bây giờ
có một chuyện không biết giải quyết cách nào? Tôi gần đây mới hỏi Dzư
Văn Chất
(em ruột Thanh Tâm Tuyền) là cụ bà (thân mẫu Thanh Tâm Tuyền và Chất)
đã biết
tin về Thanh Tâm Tuyền chưa? Chất trả lời: "Em và các cháu chưa dám cho
cụ
biết. Cụ đã trên 90 rồi, yếu lắm. Không biết em phải làm thế nào đây?"
|
|