|
Có hai nơi, ở Việt
Nam, Gấu chưa được “đi”, là Hội An, và Pleiku. Nhiều nơi chưa đi, như Qui
Nhơn, thí dụ, nhưng chỉ thèm, tự hỏi, và tự trách mình, tại làm sao mà chưa
“đi” Pleiku và Hội An.
Huế cũng chưa,
nhưng lại có 1 kỷ niệm thật thê luơng về Huế. Lần bỏ chạy quê hương,
trên đường từ Sài Gòn tới Lao Bảo, có nghỉ 1 đêm ở Huế. Buổi chiều, xe
chạy trên 1 con cầu, ngó xuống, thấy xa xa, 1 anh chạy xích lô, dừng cái
xế, chìa cái tay ra cho 1 anh bán ken chích cho 1 phát.
Ui chao, nhớ hoài.
Ði, ở đây, có
1 “gia nghĩa”, connotation, thật thú vị, và liên quan tới 1 nhà thơ, bạn
của Gấu từ hồi còn đi học. Anh học sư phạm, ra trường, được bổ về Pleiku.
Tuổi trẻ, xa nhà, làm thơ, sống rất bụi, chẳng có tí giáo sư nào trong
cách sống cả.
Nghe truyền tụng, giường anh nằm, nơi nhà trọ, chăng đầy nội y của
bướm. Mỗi 1 lần đi là xin bướm nội y về treo quanh giường làm kỷ niệm. Một
lần có 1 anh bạn, trưởng 1 cái tầu hải quân, ghé thăm. Thì lại rủ đi thăm
bướm. Trong câu chuyện anh có nói cho anh bạn biết, học trò tao có 1 em
làm nghề này, 1 lần tao gặp, thầy trò đều ngượng. Anh trưởng tầu vô ý
kể lại cho 1 anh bạn, dân Pleiku. Anh này lại có 1 đứa con gái học ông
thầy, thi sĩ cà chớn.
Thế là ầm lên. Ông bạn nhà giáo thi sĩ sau phải đưa đi tỉnh khác.
Kết
Nối Huế Thương
Số báo tuyệt
vời, Tháng Tư 1975
Bản tiếng
Anh, của Lyn Coffin:
1.
When they bury an epoch,
No psalms are read while the coffin settles,
The grave will be adorned with a rock,
With bristly thistles and nettles.
Only the gravediggers dig and fill,
Working with zest. Business to do!
And it's so still, my God, so still,
You can hear time passing by you.
And later, like a corpse, it will rise
Ride the river in spring like a leaf,-
But the son doesn't recognize
His mother, the grandson turns away in
grief,
Bowed heads do not embarrass,
Like a pendulum goes the moon.
Well, this is the sort of silent tune
That plays in fallen Paris.
Khi họ chôn một thời kỳ
Không tụng ca được đọc khi hạ huyệt
Ngôi mộ sẽ được điểm trang bằng 1 cục
đá.
Với cây kế tua tủa và tầm ma
Chỉ mấy đấng thợ, đào, và sau đó lấp,
mồ.
Họ háo hức, hăm hở. Công việc mà!
Và thật câm lặng, Chúa ơi, thật câm
lặng!
Bạn có thể nghe thời gian qua đi.
Và sau đó, như 1 cái thây ma, nó
trỗi dậy
Bay trên mặt sông vào mùa xuân
như 1 chiếc lá –
Nhưng ông con trai không nhận mẹ
Đứa cháu trai bỏ đi trong đau khổ
Những cái đầu cúi xuống đâu làm
phiền ai
Như con lắc, mảnh trăng đong đưa
Đúng rồi, đúng điệu nhạc âm thầm đó
Dân Sài Gòn chơi, ngày mất Sài
Gòn.
[Bản của GCC]
Trần Hồng Tiệm FB
khi người ta chôn thời đại
trước huyệt không hát thánh ca
cúc gai cùng với tầm ma
sẽ phải tô điểm cho mộ
chỉ có phu huyệt hối hả
chôn cất. đợi chờ được sao
lặng im, chúa ơi, im quá
nghe thấy mỗi thời gian đi
sau khi thời đại nổi lên
giống thây trên dòng sông xuân
nhưng con không nhận ra mẹ
còn cháu quay lưng trong buồn
đầu người cúi xuống thấp nữa
như con lắc ở mặt trăng
và thế - trên paris đã chết
lặng im hiện đang bao trùm
ngày 5 tháng 8 năm 1940
tại nhà sheremetevsky
anna akhmatova
* đề từ lấy từ bài thơ khu latin của
nhà thơ vyacheslav ivanov
* tháng 6 năm 1940 paris đầu hàng phát
xít đức. bài thơ này được làm trong bối cảnh đó.
Август 1940
То град твой, Юлиан!
Вяч. Иванов
Когда погребают эпоху,
Надгробный псалом не звучит,
Крапиве, чертополоху
Украсить ее предстоит.
И только могильщики лихо
Работают. Дело не ждет!
И тихо, так, Господи, тихо,
Что слышно, как время идет.
А после она выплывает,
Как труп на весенней реке,-
Но матери сын не узнает,
И внук отвернется в тоске.
И клонятся головы ниже,
Как маятник, ходит луна.
Так вот - над погибшим Парижем
Такая теперь тишина.
5 августа 1940
Шереметевский Дом
Анна Ахматова
#thodichdonga #thongadonga
https://www.facebook.com/donga01?fref=nf
Note: Tks. NQT
THE WILLOW
And a decrepit bunch of trees.
Pushkin
I grew up where all was patterned
and silent,
In the cool nursery of the age, itself young;
I didn't like human words, spoken or sung,
But I understood what the wind meant.
I liked burdock and nettles but the willow tree,
The silver willow, I liked especially.
It lived gratefully with me till now
And with its weeping branches seemed
To make dreamlessness like something dreamed.
It's hard to believe I outlived it somehow.
There's a stump. And in alien tongues, other willows
will
Be saying whatever it is they say
Under our skies, under theirs. I'm completely still.
It's as if my brother had died today.
1940
Anna Akhmatova
Liễu
Và một nhúm cây già
Pushkin
Tôi lớn lên khi tất cả đều tỏ
ra gương mẫu và im lặng
Trong cái thời đại mát mẻ của vườn ươm cây, chính
nó thì cũng trẻ măng;
Tôi không ưa tiếng người, nói cũng thế, mà
hát thì lại càng chính thế;
Nhưng tôi hiểu, gió nghĩa là gì.
Tôi mê burdock, tầm ma, nhưng đặc biệt, liễu, cực
mê liễu bạc
Tôi sống thật biết ơn cùng với nó cho tới bây
giờ
Và với những nhánh liễu rưng rưng, thì một điều
gì không mơ mộng cũng trở thành mộng mơ
Thật khó mà tin được tôi sống dai hơn nó, cho
tới lúc này.
Một cái gốc cây. Và trong những âm điệu ngoại
lai, những loài liễu khác sẽ nói bất cứ điều gì chúng nói
Dưới bầu trời của chúng ta, dưới bầu trời của chúng.
Tôi nín thinh.
Như thể người anh của tôi
mất bữa nay.
11 juin [1960]. De l'hôpital
Botkine, Anna Akhmatova écrit à la mémoire de Pasternak:
Oedipe aveuglé guidé
par sa fille,
La muse l'a conduit jusqu'à sa mort.
Un tilleul fou, auprès de ma fenêtre
A fleuri seul en ce mai de douleur,
Juste à l'endroit où il m’avait confié
Qu'il voyait serpenter devant ses yeux
Un sentier d'or aux ailes déployées
Où le gardait la volonté des cieux
Traduction Michel Aucouturier,
Revue des Belles-Lettres,
mars 1996.
Source: Pasternak,
éd Quarto Gallimard [NQT]
Like
the daughter of Oedipus the blind,
Toward death the Muse was leading the seer.
And one linden tree, out of its mind,
Was blooming that mournful May, near
The window where he told me one time
That before him rose a golden hill,
With a winged road that he would climb,
Protected by the highest will.
1960
Akhmatova
Boris Pasternak: 1890-1960, renowned
Russian poet and novelist.
Oedipe mù, được cô con gái
dẫn dắt
Nữ thần thi ca đưa anh tới cái chết của mình
Một bông hoa đoan, khùng, độc nhất,
Nở, vào đúng Tháng Năm đau buồn đó
Ở gần cửa sổ
Nơi ông đã có lần tâm sự cùng tôi
Ông nhìn thấy dựng lên một cảnh đồi vàng
Cùng con đường dốc có cánh
Và ông trèo lên
Được bảo vệ bởi Thánh Ý.
Viet Thanh Nguyen’s The Sympathizer:
from overlooked to Pulitzer winner
This year’s Pulitzers have been awarded
to books that, while highly praised, were not the most talked-about of
last year. Thanks to the prize, that is set to change.
Cuốn sách không được chú ý tới, lúc
mới ra lò.
Bằng cách nào ban giám khảo Pulitzer nhận ra, highly praised, nó ?
Liệu, Mẽo nhận ra,
XỊA thất bại khi trao giải thưởng cho đám hạng bét?
http://lithub.com/talking-to-pulitzer-prize-winning-writer-viet-thanh-nguyen/
“ALL WARS are fought twice,”
Viet Nguyen has written, “the first time on the battlefield, the
second time in memory.”
Cuộc chiến nào thì cũng phải trải qua hai lửa.
Lần thứ nhì, là qua hồi nhớ.
Đây là giải thường văn học đầu tiên giới văn
học Mẽo trao cho Mít, 1 tên tị nạn sau 30 Tháng Tư 1975.
Trước đó, chúng ta chỉ có giải thưởng của
XỊA:
VHTQ, Nếu đi hết biển, Miễn xong 1 sô...
Gấu thú thực chưa đọc "Cảm Tình Viên".
JF:
In Nothing Ever Dies, you describe how—at least from
the Vietnamese side—the ways of remembrance had yet to incorporate
an anti-hero. And yet that’s what you precisely have done in The
Sympathizer, having a narrator who is a spy, deceitful, murderous,
and deeply problematic.
Trong Chẳng có
gì chết, ông miêu tả như thế nào - ít nhất là từ phía Mít - những phương
hướng tưởng nhớ chưa làm sao nhét vô được 1 đấng phản diện.
Tuy nhiên, chính ở trong Cảm Tình Viên,
đó là điều mà ông đã từng làm, khi tạo ra 1 nhân vật, là người kể chuyện, 1 điệp viên,
dối trá, giết người, cực kỳ vấn nạn, gây tranh cãi.
VTN:
I think by the time I wrote The Sympathizer I knew I
wanted to write an antihero, someone dark, metaphorically speaking,
because I had already thought through this issue of the inhumanity
of narrators in the fiction of writers of color. I had already decided
that the biggest challenge was to write about characters who were
capable of doing bad things—this was a sign not of inhumanity, but of
full fledged humanity. Of three-dimensionality. That’s a privilege
of the whole western cannon, to have flawed characters, and in order
for this novel to make a case to be read—not only as minority literature,
but as literature that contests with the majority and is in some ways
spy fiction, crime fiction, existentialist fiction—I had to reject this
claim, however invented, that my character had to be either good or
bad.
Vào lúc
viết Cảm Tình Viên tôi muốn có 1 nhân vật phản diện, một người
nào đó, u ám, nói theo kiểu ẩn dụ, bởi là vì, tôi đã nghĩ, về/bằng/qua giải pháp như vậy - một giải pháp về tính vô
nhân của những nhân vật kể chuyện ở trong giả tưởng của những nhà văn
da màu. Tôi bèn quyết định, cái thử thách bảnh nhất, là viết về những
nhân vật dư sức làm những điều xấu – đây không phải là dấu hiệu của
vô nhân, nhưng đầy ứ nhân tính, phải nói như vậy, thứ nhân tính mới tinh,
ba chiều [như không gian ba chiều theo kiểu của Einstein. NQT]
JF:
How has this response been in your family?
VTN:
We don’t really talk about the books in my family, I don’t shove
my books into the dinner table conversation, I think it’d be really
tiresome. My dad was proud of the novel, he insisted on having his
picture taken with it when I brought it home. I think part of him
appreciates the reception of the book in the American press, but
when the nonfiction book was about to come out, I think maybe he
thinks of it differently, when I came home I told him I wanted to
dedicate it to him and my mother, their sacrifices are absolutely what
made me the person I am today. But he said, please, don’t put our names
in the book. For him the history I deal with has not died, and to be
associated with the book would be too dangerous. As if the history which
put him through decades of war and made of him an immigrant is out
there waiting to grab him or to grab me. A couple of weeks ago when we
talked ago he said, “Are you done writing books now?” So I think there
is something much more dangerous about the nonfiction work for him.
That is something that I respect, and maybe something that shows that
books are still dangerous, words are still dangerous, and he is a person
that wants to put them back.
JF:
But you’re not going to stop, you’re working on stories which
will be out next year—by the way, I believe I read one or two at
Granta, sorry we turned them down!—and a sequel to the novel.
Nguyen Trong
Khoi with Nam Dao NM Hung
and Chan Phuong.
Phó Giáo
sư gốc Việt đoạt giải Pulitzer 2016
Phó Giáo sư gốc Việt đoạt giải Pulitzer
2016
Phó Giáo sư Nguyễn Thanh Việt và tác phẩm The
Sympathizer nguồn: VOA Phó Giáo sư người Mỹ gốc Việt Nguyễn Thanh
Việt hôm 18/4 đã nhận Giải thưởng…
vanngheboston.wordpress.com
Note: Chỉ có
Mít mới giật tít kiểu vậy. Mũi lõ chúng viết, nhà văn này, nhà
văn kia đoạt giải....
Phó giáo sư gốc Việt!
Kinh thật!
Tất nhiên, nguồn của VOA.
Không lẽ của 1 ông họa sĩ, 1 ông nhà văn, 1 ông
thi sĩ Mít?
NQT
http://www.nytimes.com/2015/04/05/books/review/the-sympathizer-by-viet-thanh-nguyen.html?_r=2
https://www.facebook.com/nguyen.h.anh.92560/posts/10153755087483075
Đất nước
càng mạnh thì người dân càng có xu hướng coi nước mình là
nhân vật chính trong những hoạt cảnh đôi khi nhốn nháo, nhưng
thường là đầy bi thảm của lịch sử. Chúng ta là như thế, những công
dân của một siêu cường, đã coi cuộc chiến tranh Việt Nam là một bi
kịch của riêng nước Mỹ, trong đó,những vùng đất hừng hực của
voi và hổ chỉ là bối cảnh còn người Việt Nam thì chỉ những diễn
viên phụ.
Quan điểm đó
được phản ánh trong văn học – và Việt Nam từng là một cuộc
chiến văn chương, nó đã tạo ra một thư viện khổng lồ các tác phẩm
hư cấu và phi hư cấu. Trong tất cả những tác phẩm đó, bạn sẽ chỉ
tìm thấy một ít (tác phẩm A Good Scent From a Strange Mountain của
Robert Olen Butler xuất hiện trong đầu) với các nhân vật nói tiếng
Việt.
Hollywood còn
dĩ Mỹ vi trung (coi Mỹ là trung tâm) hơn nữa. Trong những
bộ phim như “Apocalypse Now” và “Platoon”, người Việt Nam (thường
thì những người châu Á khác đóng vai người Việt) chỉ là những
vai phụ, nhiệm vụ chính dường như chỉ là chết hoặc than khóc giữa
những đống tro tàn của ngôi làng đã bị thiêu rụi.
Điều đó
đã đưa tôi đến với cuốn tiểu thuyết đầu tay tuyệt vời – “The
Sympathizer” của Nguyễn Thanh Việt. Nguyễn, sinh ra ở Việt Nam nhưng
lớn lên ở Hoa Kỳ, mang tới cho ta bức tranh đặc biệt về chiến tranh
và hậu quả của nó. Cuốn sách của ông lấp đầy khoảng trống trong văn học,
cho những người trước đây chưa có tiếng nói lên tiếng, trong khi
buộc những người còn lại trong chúng ta nhìn vào các sự kiện
cách đây 40 năm với ánh sáng mới.
Nhưng cuốn tiểu
thuyết bi hài kịch này vượt ra ngoài bối cảnh lịch sử, đủ sức
rọi sáng chủ đề phổ quát hơn: quan niệm sai lầm và sự hiểu lầm liên
tục giữa Đông và Tây, và tình trạng tiến thoái lưỡng nan về
đạo đức mà người ta buộc phải lựa chọn không phải giữa đúng và
sai, mà giữa hai cái đúng. Nhân vật chính là một người vô
danh – người kể chuyện, một nhân vật đáng nhớ dù nặc danh, là một
người Việt đã Mỹ hóa với một trái tim và tâm trí bị phân chia.
Tài khéo của Nguyễn trong việc mô tả tính cách nước đôi này có thể
sánh với các bậc thầy văn chương như Conrad, Greene và le Carré.
Note: Bài
điểm sách trên tờ Nữu Ước Thời Báo, được Phạm Nguyên Trường dịch,
cách nhìn của tay tác giả bài viết này, theo GCC sai, quá ấu trĩ.
Mỹ là siêu cường thực, nhưng không, về văn học. Bao nhiêu
năm rồi Mỹ không được Nobel, là vậy. Khi chất vấn tay thư ký Nobel, ông
ta nói thẳng, văn học Mỹ chỉ là văn học di dân.
Nhà văn gốc Tẫu Ha Jin, viết cả 1 cuốn tiểu luận về đề tài
này, là cũng để
biện minh cho thứ văn học "thiểu số" đó.
Nhưng, ấu trĩ, còn là do sự kiện này, nếu văn học Mỹ chưa có tác
phẩm có tầm mức về nó, thì là do Mẽo chưa đau nó tới mức như thế,
để đẻ ra tác phẩm tầm mức, chứ không phải nhân vật mũi
tẹt đóng vai phụ ở trong đó!
Cuộc chiến Mít gây cơn bịnh hậu
chiến ở Mẽo, cái gì gì...
"VN syndrome", đâu có thường?
Cái nhìn những tác phẩm cổ điển của Graham Greene, Conrad,
rồi khoác nó lên 1 Nguyễn Thanh Việt cũng sai.
Nên nhớ, phim Tận Thế Là Đây, Apocalyse Now, tay
đạo diễn, khi được hỏi,
đã tuyên bố, đây LÀ Việt Nam.
Đâu cần phải Mít đóng vai chính, lead actor?
"Cái gì" làm Coppola dám hãnh diện phán, Tận Thế Là
Đây, LÀ, Việt Nam?
Tờ Nữu Ước Thời Báo, theo GCC, không phải báo
văn học. Phải chờ Người Nữu Ước, hay NRYB có bài về
Cảm Tình Viên,
thì mới biết được giới phê
bình Mẽo nghĩ gì về nó.
Cũng chỉ là tình cờ, tờ Người
Kinh Tế mới có bài
về Graham Greene, liên quan tới vấn đề chúng ta đang bàn.
TV sẽ lèm bèm về GG, về Cảm Tình Viên, theo cái
đường hướng khác hẳn cả tác giả của nó, nhìn nó, mà theo cách Sebald
nhìn, nhân ngày 30 Tháng Tư:
Tại làm sao Mít cố vờ, tưởng niệm, và hơn thế nữa, cố
xoá sạch trong hồi ức của nó, về 1 số tội ác, mà chúng coi như là sự
tủi hổ trong gia đình, không nên phô ra cho thiên hạ biết?
Note: Gấu đọc bài
trả lời phỏng vấn, và lôi ra được 1 chi tiết thần sầu: Sebald là
"hero" của Nguyễn Thanh Việt.
Bài trả lời phỏng vấn tuyệt lắm, Tin Văn sẽ đi liền bản tiếng
Việt.
John Freeman:
The Sympathizer and Nothing Ever Dies
are published fast on the heels of one another, I wonder if you could
talk about how their thinking was linked.
Viet Thanh
Nguyen: Both of these books come out of a line of me wanting
to deal with Vietnam, and more broadly, the question of war and memory
in general. The ideas in Nothing Ever Dies grew slowly—I worked
on it for over a decade, but the book itself I wrote in a year. I threw
out all the articles I’d written and then wrote it from scratch after
I had finished The Sympathizer. Some of those ideas
had filtered into the fiction—but all the work of the fiction worked itself
into the writing of the nonfiction. The ambition in the back of my mind—I
may not be there yet—is that I would love to be able to write fiction
like criticism and criticism like fiction. I think of W.G.
Sebald—a hero of mine—I can’t tell the difference in his work, whether
it is fiction or nonfiction, it all feels like literature. So as I was writing
these books closely together, I was doing the best to incorporate criticism
into the fiction, and fiction into the criticism, so with The Sympathizer
I was hoping to construct a narrator who could say dramatically very
critical things, but who wouldn’t be restricted as an academic to source
his beliefs. In Nothing Ever Dies, I couldn’t find a way to
find a sense of humor into that book, but I really did try to take everything
I had learned from the novel—narrative rhythm, for example—even working
my basest unsaid feelings into the very shape of the thing. One of things
I want both books to do is to move the reader both emotionally and intellectually.
Writers who spied
Còn 1 vấn đề, liên quan tới sự
thành công của tác gỉa da màu, như Nguyễn Thanh Việt tự nhận, là, chính
vì viết bằng tiếng Anh, mà nó thành công!
Đây là đề tài được 1 tác giả trên NYRB đề cập, trong bài viết "Tại sao viết bằng tiếng Anh?"
Có thể, 40 năm rồi, có lẽ đã đến lúc nhìn lại cuộc chiến,
khác đi chăng?
http://www.nybooks.com/daily/2016/04/18/why-not-write-in-foreign-language/
http://www.nytimes.com/2014/04/26/books/writing-in-english-novelists-find-inventive-new-voices.html?_r=2
Nhận xét và cảm phục của Nguyễn Thanh
Việt, với Sebald, thuần có tính văn học. Cách anh đọc Sebald, nếu chỉ như
thế, khác hẳn GCC. Với GCC, Sebald là lương tâm của nước Đức thời hậu chiến,
ông không ở về phía nước mắt, ở vào cái phần hồi ức mà nước Đức, do tủi hổ
nhục nhã, cố tình quên đi, và nhân tưởng niệm 30 Tháng Tư năm nay, Gấu muốn
đọc ông, như là 1 cách tưởng niệm Miền Nam đã mất của GCC, như thế.
30.4.2016
On Monday afternoon, the winners of the 2016 Pulitzer Prize were
announced, and Viet Thanh Nguyen, the author of The Sympathizer,
took home the coveted…
www.bustle.com|By Cristina Mari Arreola
http://www.ew.com/article/2016/04/18/pulitzer-prize-winners-2016
Fiction: Viet Thanh Nguyen for The
Sympathizer
On
Monday afternoon, the winners of the 2016 Pulitzer Prize were announced,
and Viet Thanh Nguyen, the author of The Sympathizer, took home the coveted
Pulitzer Prize for Fiction. Who is Viet Thanh Nguyen? Well, the author is
actually a professor by day. In fact, he's worked as an associate professor
of English and American Studies & Ethnicity at The University of Southern
California since 2003. He previously served as an assistant professor in
the same department.
Notably, Nguyen is an immigrant. He was born in Vietnam, but came to
the United States as a refugee in 1975 with his family. According to his
personal website, his family initially settled in Fort Indiantown Gap, Pennsvylania,
one of four camps for Vietnamese refugees in the United States. They lived
in Pennsylvania until the late '70s, but later moved to San Jose, California,
where they opened one of the first Vietnamese grocery stores in the area.
He graduated with honors from University of California, Berkeley with
degrees in English and Ethnic Studies. He later pursued his Ph.D. at the
same institution, graduating with a doctorate in English in 1997. From
there, he moved to Los Angeles to teach at USC. In addition to teaching
and writing, he also serves as cultural critic-at-large for the Los Angeles
Times and as the editor of diaCRITICS, a blog for the Diasporic Vietnamese
Artists Network.
Nguyen has penned academic books and works of short fiction in the past,
but The Sympathizer is his first novel. The novel won The Center for Fiction
First Novel Prize for best debut novel published in 2015. The novel also
won the Carnegie Medal For Excellence In Fiction from the American Library
Association and the Asian/Pacific American Award for Literature in Fiction
from the Asian/Pacific American Libraries Association. It is a finalist for
the PEN/Faulkner Award for Fiction and the PEN/Robert W. Bingham Prize for
Debut Fiction.
The Sympathizer is a "story of a man of two minds, someone whose political
beliefs clash with his individual loyalties." The novel centers upon a double
agent in 1975 Vietnam and, later, in Los Angeles. It's billed as a spy
novel, an "astute exploration of extreme politics," and a love story all
rolled into one. This is definitely the novel everyone will be reading over
the coming weeks, so add it to your TBR now. Plus, stay tuned for more from
this acclaimed author. His newest book, Nothing Ever Dies: Vietnam and
the Memory of War, is a comprehensive look at the war that Americans call
the Vietnam War and Vietnamese call the American War.
Cú trúng
quả này quả đúng là mừng
ngày 30 Tháng Tư năm nay.
https://www.facebook.com/vietnguyenauthor/
30.4.2016
Dalat 1964 - Lieutenant Colonel Lucien
Conein, CIA agent and Vietnamese generals who conspired to overthrow Diem
Các Tướng Kim,
Đính, Đôn, Vỹ và Xuân vào thời gian bị quản thúc tại gia ở Đà Lạt (14 tháng
9 năm 1964), thời Nguyễn Khánh. Hình này chụp trong dịp Trung tá CIA Lucien
Conein đến thăm họ.
từ trái qua: (1)
Lê Văn Kim, (2) Tôn Thất Đính, (3) Trần Văn Đôn, (4) Nguyễn Văn Vỹ, (5)
Mai Hữu Xuân.
https://www.flickr.com/photos/13476480@N07/26495927025/in/photostream/
30.4.2016 Memo
TTT 10 years Tribute
Hqcbm Thanh Thuý
đọc bài này chưa? Một bài rất hay viết về quê hương Dran.
Khói
sương như không muốn rời khỏi Dran. Hẳn đây là những dải lụa trời rồi.
Nó cứ quần quanh thung lũng, kéo nhau lê thê từ đỉnh cao sườn bắc Trạm Hành
vòng theo cánh cung sườn núi xuống đầu đèo Sông Pha, qua suối Cát, vắt các…
By BAOMOI.COM
Note: Bài này tưởng niệm DC & TTT thật tuyệt.
But
can poetry address the terrible, barbaric violence now engulfing
Syria? One thinks of Adorno’s claim about poetry after Auschwitz.
Thơ làm gì được, trước... VC?
Sau.... VC mà còn làm thơ thì thật là dã man!
This is talk. Auschwitz was a catastrophic disaster, but
humanity has gone through many catastrophic disasters. On the contrary,
I believe that writing starts with asking questions and uncovering
the sources of evil, wherever they come from. Because with Adorno’s
words, he prevents us from posing questions and forces us to accept.
This is wrong. I do not agree with him. Now the writing starts, after
Auschwitz.
Còn lèm bèm được thì cứ lèm bèm. Tớ không đồng ý với xừ Adorno nào đó!
Văn Học số Xuân Đinh Sửu [129&130],
trong phần Tạp Ghi, ông Nguyễn Quốc Trụ viết: "... rằng sau Auschwitz,
'nếu cá nhân nào đó mà còn làm được thơ thì thật là dã man'
(sic), và 'mọi văn hóa sau Auschwitz chỉ là rác rưởi'.
Tôi chưa từng được quen biết,
trong lãnh vực văn học, ông Adorno này, nên không lạm bàn rông rài. Chỉ
"trộm" nghĩ rằng câu nói của ông [ta] có vẻ như... "vung tay quá trán".
Có thể đổi được chăng những câu phê phán này thành... "sau Auschwitz mà còn làm thơ... Trời ơi,
Tuyệt!"? Hay là, "Mọi văn hóa sau Auschwitz là những nhánh kỳ
hoa bung lên từ bãi dơ bầy nhầy, ruồi nhặng sâu bọ lúc nhúc, thối um"?
Đêm
Tận Thất Thanh là một nhánh kỳ hoa đó...
Tôi không may mắn (?) từng đọc tác giả Adorno nói trên....
Loxahatchee, Florida 5-2-97
24 tiếng trước Tết Đinh Sửu, ở Việt Nam
Võ Đình
TO THE MEMORY OF A POET
Like a bird, echo will answer me.
B.P. (Boris Pasternak)
[Như một con chim, tiếng dội sẽ trả lời tôi]
1.
That singular voice has stopped: silence is complete,
And the one who spoke with forests has left us behind.
He turned himself into a life-giving stalk of wheat
Or the fine rain his songs can call to mind.
And all the flowers that hold this world in debt
Have come into bloom, come forward to meet this death.
But everything stood still on the planet
Which bears the unassuming name ... the Earth.
2.
Like the daughter of Oedipus the blind,
Toward death the Muse was leading the seer.
And one linden tree, out of its mind,
Was blooming that mournful May, near
The window where he told me one time
That before him rose a golden hill,
With a winged road that he would climb,
Protected by the highest will.
1960
Akhmatova
Boris Pasternak: 1890-1960, renowned Russian poet
and novelist.
Oedipe mù, được cô con
gái dẫn dắt
Nữ thần thi ca đưa anh tới cái chết của mình
Một bông hoa đoan, khùng, độc nhất,
Nở, vào đúng Tháng Năm đau buồn đó
Ở gần cửa sổ
Nơi ông đã có lần tâm sự cùng tôi
Ông nhìn thấy dựng lên một cảnh đồi vàng
Cùng con đường dốc có cánh
Và ông trèo lên
Được bảo vệ bởi Thánh Ý.
*
It seems that the voice we humans own
Will never sound, never celebrate,
Only a wind from the age of stone
Keeps on knocking at the black gate.
And it seems to me that under the sun
I alone remain-this honor's mine,
Simply because I was the first
Who wanted to drink the deadly wine.
1917
Akhmatova
Có vẻ như cái thứ tiếng người mà chúng ta
có đó
Nó sẽ chẳng bao giờ kêu lên
Chẳng bao giờ ăn mừng
Chỉ là tiếng gió từ thời kỳ đồ đá
Liên tục gõ lên chiếc cổng đen
Và hình như chỉ còn tôi, đơn độc dưới ánh mặt trời
Và đây là niềm vinh quang của tôi
Giản dị, ấy là vì tôi là người đầu tiên
Muốn uống ly rượu độc
TTT 2012
http://www.tanvien.net/Tribute_1/30.4.2016.html
Kafka’s Only Enemy
Kafka's social life is striking for the fact that he was
generally well received by all: by men and women, Germans and Czechs,
Jews and Christians alike. Not only was Kafka popular among his colleagues
and superiors, who had known him for a long time, he was also at ease
with the tables of strangers he might join at a hotel or sanatorium,
and he was well liked by the more distant acquaintances of his close
friends. In his everyday life, Kafka was friendly, helpful, charming,
a sensitive listener, but also discreet. His witty, self-ironizing observations
prevented anyone from seeing him as a sexual or intellectual rival.
Kafka kept his distance from any sort of public feuds,
and we find no harsh words for him in the diaries or letters that his
close contemporaries left behind.
With one notable exception.
"The longer I'm away from Kafka, the more
I dislike him, with his slimy maliciousness."
These words were written by the doctor
and writer Ernst Weiss in a letter to his lover, the actress Rahel
Sanzara. Weiss had been one of Kafka's few friends not from Max Brod's
circle, and he competed with Brod in a certain sense. In Weiss's view,
the only way that Kafka could conceivably solve all of the problems
in his life was to extract himself from his many obligations and entanglements
in Prague, and begin a new literary existence in Berlin.
It is not entirely clear what led these two men
to part ways, but it seems Weiss was angry that Kafka, who had long
promised to write a review of his novel Der Kampf (The Struggle),
ultimately declined. The novel was published in April 1916, at a time
when Kafka was suffering from a long spell of unproductivity and felt
himself incapable of even the slightest literary work, but Weiss saw
that as an excuse. "We plan to have nothing more to do with one another
until things begin to go better for me," Kafka wrote to Felice Bauer.
"A very reasonable solution."
In the years after the war, the two writers managed
a half-hearted reconciliation, but this did not quell Weiss's latent
animosity, which experienced a resurgence after Kafka's death. Thus
Weiss assured Soma Morgenstern, an admirer of Kafka, that Kafka had
behaved "like a scoundrel" toward him. And as late as the 1930S, Weiss
was still portraying his one-time friend as socially autistic, as he
did in the magazine Mass und Wert (Measure and Value), even while expressing
admiration for his literary work.
Kẻ thù độc nhất của Kafka.
Nhờ viết bài thổi cuốn sách mà cũng vờ, sao không thù?
GCC có nhiều kẻ thù là vậy!
Writers who spied
The unsurprising link between authorship and espionage
Nhà văn cớm
Cái link
chẳng có gì là ngạc nhiên giữa viết văn và làm nghề gián điệp
Of
the CIA spy, Alden Pyle, Greene’s narrator in “The Quiet American”, observes,
“I never knew a man who had better motives for all the trouble he caused.”
Về tên Xịa, Alden Pyle, nhân vật kể chuyện – anh ký giả già,
ghiền Hồng Mao, Fowler
- trong Người Mỹ Trầm Lặng nhận xét, tôi chưa từng biết 1 tên với
nhiều thiện ý, về tất cả trouble, do anh ta gây ra.
*
Greene chọn Norman Sherry, giáo
sư văn chương đại học Trinity San Antonio, Texas, là người viết tiểu
sử, là do mê ông này, khi viết về Joseph Conrad [Conrad’s Western World].
Nhất là sự kiện Norman Sherry, để viết về Conrad, đã thực hiện những chuyến
đi thực tế tới vùng Viễn Đông và đặc biệt là những khám phá của Norman Sherry
ở Tây Phi về Trái Tim Của Bóng Đen, của Conrad. Chính Greene đã tìm cách
tiếp cận Sherry, qua một nhà báo, William Igoe. Ông này nói với Sherry,
trong một bữa cùng ăn trưa, “Có một tay, đúng là một huyền thoại của chính
thời đại của anh ta, và tay này rất mê tác phẩm của bạn”. Sau đó, hai người
gặp gỡ, vào lúc đó, như Sherry sau này mới biết, Greene đang bị gia đình
và bạn bè đòi hỏi, phải kiếm cho ra một tay viết tiểu sử về mình. Và trong
khi ông đang tỏ ra thích thú bởi nụ cười rất ư là đặc biệt, và cặp mắt xanh
của Greene, bất thình lình, ông này nói: “Bạn khó mà viết về tôi, như
là bạn viết về Conrad. Bạn khó có thể viết về tôi, bởi vì bạn không thể
tới Sài Gòn." [Bối cảnh của cuốn Người Mỹ Trầm Lặng là Sài Gòn thập niên
1950. Câu nói của Greene là vào năm 1974, tình hình chiến sự và thái độ
của nhà cầm quyền miền nam không cho phép Sherry tới đây, như đã từng
tới Phi Châu, khi viết về Conrad.]
*
Khó khăn thứ nhì, Greene
đòi hỏi, Sherry, người viết tiểu sử của mình, phải "theo từng bước chân
của tôi". Thế là Sherry phải đi thực tế tới những nơi từng làm bà đỡ cho
những tác phẩm lớn của Greene, như Mexico, Liberia, Cuba, Việt Nam, và cả
lố những vùng chẳng hề thân thiện với đám mũi lõ. Trong khi cố gắng hoàn
thành lời hứa, đi theo những vết chân của tôi, ông đã tới những vùng như
Haiti, Argentina, Paraguay, Japan, Malaya, Sierra Leone, và nhiều nơi khác
nữa, và trong những chuyến đi thực tế như vậy, đã bị mù sáu tháng, bị
sốt rét tại Africa, và hoại thư, khiến ông mất một khúc ruột tại Panama.
Sherry gần như xục xạo tới từng chi tiết trong đời Greene,
và ông khám phá ra, tất cả những nhân vật của Greene đều có nguyên
mẫu ở ngoài đời, và nguyên mẫu số một, còn ai trồng khoai xứ này nữa, nếu
không phải là chính chàng!
Điều này gây trở ngại lớn. Greene sống, đến mút chỉ
đời mình, và có rất nhiều mối tình, tình nào cũng lâm ly bi đát. Có nhiều
mối tình cùng xẩy ra một lúc, sóng đôi sóng ba mí nhau. Ông làm điệp
viên cho MI6, phản gián Anh. Ông hít tô phe. Đi xóm hằng bữa! Càng "đi"
nhiều càng viết khỏe. Làm sao nhuần nhuyễn tất cả, mà vẫn tôn trọng sự kín
đáo, vẫn bảo vệ đời tư của tất cả, và nhất là của Greene? Bản thân Greene
cũng chơi tới hai cuốn nhật ký, viết song song, hai ấn bản khác nhau, để giấu
giếm những lần đi chơi điếm, hoặc tới động hút. Có lần ông viết cho Catherine
Walston, một trong những cô bồ lâu ngày của mình: "Nếu có ai cố tìm cách
viết tiểu sử của tôi, người đó sẽ thấy rắc rối, phức tạp làm sao, và rất
dễ lầm đường lạc lối như thế nào."
Nhưng như trên đã viết, cái chiều sâu thăm thẳm của tác
phẩm của Greene chỉ được vén mở, nếu chúng ta nhìn lại giá sách của ông,
và nhận ra rằng, người đi trước, “thần tượng” của ông, chính là Henry
James, hay nói theo Zadie Smith, trong tiểu thuyết của Greene cũng như
của James, tất cả những thăng trầm của một kiếp người, “những thói đời”,
đều được đem lên bàn mổ. Cá tính nhân vật, mà người đọc cảm thấy như là
nói về chính mình, và hãnh diện về chúng [“Tốt lành như tôi đây, còn
nó, bạn thấy đấy, chỉ là một tên đểu giả”], đột nhiên bị lột trần, và chẳng
là cái đếch gì cả khi bị đẩy tới cực điểm: Chiến Tranh, Chết Chóc, Mất
Mát, Đổ Vỡ, Tình Yêu…. Đúng như Greene nhận xét: Bản chất con người không
đen và trắng, mà là đen xám, hay đúng hơn, xám xịt.[Human nature is not
black and white but black and grey].
Chính trong cái bầu khí xám
xịt đó, là Sài Gòn thập niên 1950, mà cuộc tình tay ba, trong Người Mỹ
Trầm Lặng, với ba đỉnh của nó, được mở ra: tính dễ bị mua chuộc, mà cũng
rất ư là thành thực, không mầu mè, của một cô Phượng [với giấc mơ lấy chồng
Mẽo, làm dâu Mẽo, hay tệ hại hơn, làm dâu Đài Loan, Đại Hàn… như những cô
Phượng hiện nay ở Việt Nam…], tính dãn ra, chẳng còn muốn vướng vào những
vấn đề của một xứ xở thuộc địa như Việt Nam, của anh mũi lõ già nghiền thuốc
phiện, là Fowler, và sự ngây thơ của một anh Mẽo trẻ tuổi đẹp trai, thiện
nguyện viên, hay cố vấn Pyle! Đúng là một tam giác lý tưởng để dựng nên
một cuốn tiểu thuyết lý tưởng! Nó làm cho Zadie Smith [trên tờ Guardian]
nhớ tới trò chơi “jack straw”, trong đó mỗi người chơi, tới lượt mình,
rút một cọng rơm mà không đượcđụng những cọng rơm còn lại. Tài nghệ của
tiểu thuyết gia ở đây, là làm sao cân bằng cả ba, bắt từng nhân vật đối
diện với chính mình, và với hai kẻ kia, trong tấn trò đời, với tất cả những
lên voi xuống chó, những hy vọng, những thất bại - và nhất là, phải làm
sao cho độc giả đừng trông mong có được một nhận định, đánh giá sau cùng,
khi gấp sách lại, [và thở phào, rằng, việc đọc của ta như vậy là xong!].
Greene không thích những độc giả của ông có được sự hài lòng, thoải mái,
theo nghĩa này: “Khi chúng ta không chắc chắn, như vậy là chúng ta vưỡn
còn sống!”
Trường hợp Người Mỹ Trầm Lặng, bầu khí mang chất đạo hạnh trong
đó được xây dựng từ từng mỗi viên gạch của nó, như Zadie Smith đã nói
tới, về một hệ thống đạo đức được so đo đong đếm đến từng chi tiết. Nó
làm Zadie Smith nhớ tới Henry James trong tác phẩm Những Người Âu Châu,
nhưng có khác, với Greene, câu chuyện không xẩy ra ở trong một căn phòng,
mà là ở trận địa. Có gì là chắc chắn khi lọt vào một trận địa. Độc giả,
như Greene, bị đẩy vào trong những cuộc tranh chấp dơ dáy, bẩn thỉu, tởm
lợm nhất của thế kỷ, thí dụ như cuộc chiến Việt Nam, và rất nhiều cuộc chiến
khác, một khi con người vẫn cứ lăn xả vào nhau, chém giết nhau, cho dù
những “nghĩa cả” đã trở nên tối mò mò, chẳng ai còn tin tưởng vào chúng
nữa. Những nhân vật của Greene làm bật ra sự bất toàn, tính không thể
nào xác định được, của cái gọi là đạo đức, đạo hạnh, sự lẫn lộn, chẳng biết
đàng nào mà lần, một khi con người sống ở trong một cuộc chiến không
[làm sao] chấm dứt. Nhưng, cho dù vậy, tại Việt Nam, trong Người Mỹ Trầm
Lặng, Phượng và tay phóng viên Fowler đã tìm được nhau, đúng là một sự
chúc phúc, quá mức mong đợi ít ra là đối với Fowler. Đây đúng là một sự
cứu nguy vào phút chót, sắp sửa chìm lỉm thì vớ được sợi thừng cứu mạng!
“Tôi là một kẻ có niềm tin lớn
lao vào Lò Luyện Ngục”, Greene đã từng trả lời như vậy, trong một cuộc phỏng
vấn. “Lò Luyện Ngục, với tôi, là có ý nghĩa…. một khi bị ném vào đó, con
người có ấn tượng về sự du di, chuyển động. Tôi không thể nào tin vào Thiên
Đàng. Mọi người cứ ỳ ra, ở đó. Đâu còn có điều gì để mà làm nữa!”
Ở Lò Luyện Ngục
đó - ở cuộc chiến Việt Nam đó – Fowler vô trước, sau tới anh chàng thiện
nguyện, cố vấn Mẽo, đẹp trai, trẻ măng. Anh này tin vào Thiên Đàng. Anh
ta tới, được trang bị bằng cả một tự sự lớn [a great narrative], về Việt
Nam. Anh ta sẽ bắt ép Việt Nam phải “thích hợp” với nó – Tiền Đồn Chống
Cộng cho cả một trái đất sẽ không còn Cộng Sản nữa, thí dụ vậy. Anh ta có
một câu chuyện của anh ta về Fowler, và ngược lại, Fowler cũng có một câu
chuyện riêng của mình, về tên thực dân mới ngu si đần độn, cứ tưởng mình
sẽ đem tự do dân chủ theo kiểu Mẽo đến cho thuộc địa cũ của Tây, và đây
là giọng kể chính của cuốn tiểu thuyết. Cả hai tay này lại có những câu
chuyện của riêng của họ về Phượng. Chẳng có một câu chuyện nào tin được.
Chúng đều được dựng lên, theo yêu cầu của từng cá nhân, cho hợp với vai
trò của mình. Greene hiểu rất rõ, những toan tính vị kỷ, nằm nơi đáy
sâu con người, sẽ đẩy con người đi tới đâu. Ở trong Người Mỹ Trầm Lặng,
những toan tính cá nhân này được hiện rõ ra, trên cái nền chính trị,
và cùng với nó, là một xứ sở. Qua Phượng, người đọc cảm thấy, đây là một
người đàn bà thực, đang hít thở không khí, không phải là một ý tưởng về
một người đàn bà mà Pyle đang chôm từ Fowler.
Gừng càng già càng cay, càng
ngày, tính ngây thơ ngốc ngếch, mù tịt về thế giới của anh chàng cố vấn Mẽo
Pyle càng nổi lên cùng với cuốn truyện, kể từ khi được xuất bản, đúng như
Fowler cảnh cáo anh ta:
“Tôi cầu mong Chúa làm cho
anh hiểu được những gì anh đang làm ở đây. Ôi, tôi hiểu rất rõ, những
nguyên nhân, những mục đích, những ý hướng tốt đẹp của anh. Chúng luôn luôn tốt… Tôi chỉ mong, đôi khi
anh có được một vài ý hướng xấu, có lẽ anh sẽ hiểu thêm được một tí, về
thế thái nhân tình, về con người. Điều này áp dụng luôn cho cả cái xứ Mẽo
của anh đấy, Pyle ạ.”
Nhưng theo Zadie Smith [Guardian],
Pyle không chịu học. Sau cùng, anh ta cho rằng, niềm tin quan trọng
hơn hoà bình, tư tưởng sống động hơn con người. Sự ngây thơ của anh ta,
trên bình diện thế giới, chẳng khác gì một thứ chính thống giáo [fundamentalism].
Đọc lại cuốn truyện càng củng cố thêm lên nỗi sợ của
Zadie Simith, về tất cả những me-xừ Pyle trên toàn thế
giới. Họ đâu có muốn làm cho chúng ta bị thương tổn. Chúng tôi tới với bạn
là do thiện ý, do niềm tin, cơ mà? Nhưng chính những me-xừ Pyle này làm
chúng ta đau khổ, làm thương tổn chúng ta. Thành quả lớn lao của Greene
ở trong Người Mỹ Trầm Lặng, là cho tên già đểu giả, Fowler, nhân danh
“nghĩa cả”, khi chỉ vào đống xác người mà Pyle coi, đó chỉ là biểu tượng.
Fowler, và những người như anh ta, đều lý tưởng quá đủ, để mà chứng minh
rằng, trên trái đất này, chẳng có một lý tưởng nào xứng đáng để mà lăn
xả vào nhau, chém giết lẫn nhau, vì nó. Khi Pyle hỏi
Fowler, như vậy, anh tin vào điều chi, “Tôi tin, tin chứ. Tôi tin, mình đang
tựa lưng vô tường, và có một họng súng ở đằng kia kìa”. Pyle lắc đầu: “Tôi
đâu tính hỏi bạn như vậy”.
Nhưng tác phẩm của Greene
là đúng như vậy đó. Ông mang tới cho người đọc, một hy vọng, thứ hy vọng
mà một người quan sát viên dán mắt vào sự kiện đem lại cho chúng ta. Theo
nghĩa đó, Greene là tay ký giả bậc thầy. Ông dâng hiến cho chúng ta những
chi tiết, và những chi tiết chính chúng, sẽ chiến đấu, trong một cuộc
chiến đấu nhằm chống lại những thùng rỗng kêu to, nói rõ hơn, những ý nghĩ,
tư tuởng lớn lao, nhưng vô ngã, vô vị, vô hình, vô ảnh, như của Pyle.
Ruth Franklin trên tờ Người Nữu
Ước, tìm ra, Thượng Đế là ở trong những chi tiết, ngược hẳn với Zadie Smith,
trên tờ Guardian, bà thấy Ma Quỉ ở trong những chi tiết, khi đọc Greene. Nhưng
bà thêm vô, cứu chuộc cũng là từ đó.
Và có thể, đó cũng là của
Greene, như ông từng có lần cầu nguyện, “Một vài người trong chúng ta có
thiên hướng tin yêu Chúa. Một vài người khác, có thiên hướng tin yêu con
người. Cầu xin làm sao thiên hướng của tôi đừng bị phí phạm”.
Cầu sao được vậy.
Nó quả đã không bị phí phạm.
NQT
Trở lại với Zadie Smith. Greene,
1 cách nào đó, là Thầy của Gấu. Thế là bèn mò đọc thêm về Zadie Smith.
Mua vài cuốn của bà, trong có cuốn Changing my mind, On beauty… Hoá ra
bà này còn mê cả Barthes. Rồi lại thấy Thầy Đạo dịch ZS trên Gió O nữa
chớ!
30 Tháng
Tư mà đọc bài này cũng thú.
Rảnh thì đọc thêm bài của đệ tử của GG, viết cả 1 cuốn sách về
thầy của mình.
GG by Pico
Pico Iyer
Theo GCC, cuốn Người
Mỹ Trầm Lặng được
phát sinh, là từ cái tên Phượng, đúng như trong tiềm thức của
Greene mách bảo ông.
Cả cuốn truyện là từ đó mà ra. Và nó còn
tiên tri ra được cuộc xuất cảng người phụ nữ Mít cả trước và sau
cuộc chiến, đúng như lời anh ký giả Hồng Mao ghiền khuyên Pyle, mi
hãy quên “lực lượng thứ ba” và đem Phượng về Mẽo, quên cha luôn
cái xứ sở khốn kiếp Mít này đi!
Sách Báo
http://www.economist.com/news/books-and-arts/21695369-fun-and-philosophy-paris-smokey-and-bandits
Existentialism
Smokey
and the bandits
Fun and philosophy
in Paris
Mar 26th 2016 | From
the print edition
Quán
Chùa ở Paris: Khói, Sex, và Hiện Sinh
At the Existentialist Café:
Freedom, Being and Apricot Cocktails.
By Sarah Bakewell.
Other Press; 439 pages; $25. Chatto & Windus;
£16.99.
EXISTENTIALISM is
the only philosophy that anyone would even think of
calling sexy. Black clothes, “free love”, late nights of
smoky jazz—these were a few of intellectuals’ favourite
things in Paris after the Simone de Beauvoir was “the prettiest
Existentialist you ever saw”, according to the New Yorker
in 1947. Her companion, Jean-Paul Sartre (pictured) was no
looker, but he smoked a mean Gauloise. Life magazine billed their
friend, Albert Camus, the “action-packed intellectual”.
Certainly there was
action. One evening in Paris, a restaurant punch-up
involving Sartre, Camus, de Beauvoir and Arthur Koestler
spilled out on to the streets. In New York another novelist,
Norman Mailer, drunkenly stabbed his wife at the launch of his
abortive campaign to run for mayor on an “Existentialist Party”
ticket in 1960. In addition to such excitements, existentialism
offered a rationale for the feeling that life is absurd.
Countless adolescents,
both young and old, have discovered the joys of angst
through the writings of Sartre and his ilk. In her instructive
and entertaining study of these thinkers and their hangers-on,
Sarah Bakewell, a British biographer, tells how she was
drawn as a teenager to Sartre’s “Nausea” because it was described
on the cover as “a novel of the alienation of personality and
the mystery of being”.
It was over apricot
cocktails on the Rue Montparnasse that Sartre and
de Beauvoir glimpsed a novel way to explore such mysteries.
The year was 1932, and their friend Raymond Aron, a political
scientist and philosopher, had just returned from Germany
with news of the “phenomenology” of Edmund Husserl and Martin
Heidegger. “If you are a phenomenologist,” Aron explained,
“you can talk about this cocktail and make philosophy out of
it!” The idea was to glean the essence of things by closely observing
one’s own experience of them, preferably in mundane settings.
Sartre and de Beauvoir set out to do just that.
Drawing on considerable
personal knowledge, Sartre delved into “the meaning
of the act of smoking”, among other things. Observing the
behavioural tics of waiters, he noted that they sometimes seemed
to be play-acting at being waiters. This led to labyrinthine
reflections on the nature of freedom and authenticity. De
Beauvoir’s efforts were more focused. By dissecting female
experience of everyday life, she illustrated the ways in which
gender is shaped by self-consciousness and social expectations.
Ms Bakewell plausibly suggests that de Beauvoir’s pioneering
feminist work, “The Second Sex”, was the most broadly influential
product of European café philosophy of the period.
When Norman Mailer
was asked what existentialism meant to him, he reportedly
answered, “Oh, kinda playing things by ear.” Serious existentialists,
such as Sartre, earned their label by focusing on a
sense of “existence” that is supposedly distinctive of
humans. People are uniquely aware of—and typically troubled
by—their own state of being, or so the theory goes. Human existence
is thus not at all like the existence of brute matter, or, for
that matter, like the existence of brutes. People, but not animals,
find themselves thrown into the world, as existentialists liked
to say. They are forced to make sense of it for themselves and
to forge their own identities.
The café philosophers
came to regard each other’s existence as particularly
troubling. Except for Sartre and de Beauvoir, who remained
an intellectually devoted pair until his death in 1980,
the main characters in post-war French philosophy drifted apart
with varying degrees of drama. So did the German philosophers
who inspired them.
Sartre’s embrace of
Soviet communism, which he abandoned only to endorse
Maoism instead, led Aron to condemn him as “merciless
towards the failings of the democracies but ready to tolerate
the worst crimes as long as they are committed in the name
of the proper doctrines”. Ms Bakewell credits the existentialist
movement, broadly defined, with providing inspiration to
feminism, gay rights, anti-racism, anti-colonialism and other
radical causes. A few cocktails can, it seems, lead to unexpected
things.
Bài Tạp Ghi
đầu tiên của GCC, là viết về Quán Chùa Saigon. Và về đám bạn hữu Tiểu
Thuyết Mới, Hiện Sinh và không khí văn chương của thời mới lớn của GCC
@ Saigon
Vào cái thời bây giờ, cả
ba tờ báo, Người Kinh Tế, Văn Học Tẩy, và tờ điểm sách Ăng Lê,
đều viết về cái mùi hiện sinh thời đó, ở Paris, toát ra từ bướm de Beauvoir!
Có 1 thứ triết học, là,
hiện sinh,
mà cái mùi của nó, là, sexy!
EXISTENTIALISM
is the only philosophy that anyone would even think
of calling sexy. Black clothes, “free love”, late nights
of smoky jazz—these were a few of intellectuals’ favourite
things in Paris after the Simone de Beauvoir was “the prettiest
Existentialist you ever saw”, according to the New
Yorker in 1947.
Sài gòn bảnh hơn nhiều, có hơn 1 bướm de
Beauvoir:
Bướm anh lên em nhé, mưa không ướt đất, bướm
mèo đêm, lao vào lửa, bướm vết thương dậy thì, vòng tay học
trò.
Ra tới hải ngoại, vẫn còn bướm, nhà có cửa
khóa trái!
Khí hậu ẩm ướt trong thế giới tiểu
thuyết Nguyễn Đình Toàn
Những ngày sau này, kể từ
ngày quán cà phê La Pagode phải đóng cửa để sửa chữa, chỗ
gặp mặt dễ dàng và quen thuộc của một số bè bạn quen thuộc không
còn nữa. Cũng không còn trông thấy một bóng dáng gầy ốm, gầy
ốm đến nỗi không thể gầy ốm hơn được nữa, lọt thỏm trong chiếc ghế
bành thấp và rộng, một ly trà đá hoặc trà sữa ở trên mặt bàn, một
tờ báo mở rộng che kín khuôn mặt, và có thể, một người bạn, thời gian:
buổi chiều khoảng 4, 5 giờ, có thể sớm hơn, 4, 5 giờ, nếu buổi chiều
hôm đó là buổi chiều thứ bẩy hoặc chủ nhật; câu chuyện trao đổi thường
tầm thường, giản dị, thứ chuyện trò của những người đàn ông sau
một ngày làm việc mệt nhọc, Toàn thường than phiền buổi tối hôm trước
không ngủ được và phải dùng thuốc ngủ, buổi sáng lại phải dậy sớm
để viết những bài chẳng dính dáng gì đến văn chương nghệ thuật, và để
có thêm một chút tỉnh táo, Toàn phải dùng cà phê để đánh tan tác dụng
chậm trễ của những viên thuốc ngủ… Khi những phiền nhiễu của công
việc mưu sinh đã bị xua đuổi, Toàn nói, Toàn không nói về tương lai,
Toàn kể chuyện lại những dòng chữ đầu tiên của cuốn tiểu thuyết thứ
nhất của Toàn, cuốn Chị Em Hải đã bị ngắt quãng, bị gián đoạn, bởi những
cơn xuất huyết, những bất tỉnh, vì những giây phút chới với giữa sự cố
gắng sống, hoặc cố gắng chết. Tôi bảo Toàn là chính ở trong cuốn tiểu
thuyết đầu tay của anh đó, tôi lại nhận ra tác giả, hay nói khác đi,
những nhân vật của tác giả vẫn còn nhiều yêu thương và hy vọng, và
những vụng về của người viết lại trở nên rất hợp, rất thực, đối với vụng
về sống, vụng về suy nghĩ của những cô gái tên Dung, tên Hải….
Ui chao, đọc lại bài viết
của chính Gấu, vào lúc mới bước chân vô làng văn, thì lại nhận
ra bóng dáng của những vị thầy của Gấu: Rõ ràng là vào lúc
viết bài này, Gấu đang đọc… Beckett, “Toàn nói, Toàn không nói….”,
cái thứ văn phong mà sau này ra hải ngoại, đọc tờ Le Monde &
Documents, gọi là “chủ nghĩa anh hùng của cái gọi là… hư vô”, hay
cái kiểu lập lại từ, “quen thuộc” rồi lại “quen thuộc”…. để nhấn mạnh
Page-Turner
April 7, 2016
How a Poet Named Ocean Means to Fix the English Language
By Daniel Wenger
http://www.newyorker.com/books/page-turner/how-a-poet-named-ocean-means-to-fix-the-english-language
Một tên GI mần thịt 1 cô mần ruộng Nam Kít.
Cô đó là má tôi.
Ocean Vuong is not an experimental poet, but he is a poet of the American
experiment. In “Notebook Fragments,” a long poem of questions and collisions,
he writes, “An American soldier fucked a Vietnamese farmgirl. Thus my mother
exists. / Thus I exist. Thus no bombs = no family = no me.” Then: “Yikes.”
A few lines down, the speaker kisses a man’s body,
lightly, the way one might kiss a grenade
before hurling it into the night’s mouth.
Maybe the tongue is also a key.
Yikes.
I could eat you he said, brushing my cheek with his knuckles.
Vuong was born in 1988, on a rice farm outside Saigon; two years later,
he and six relatives emigrated to Hartford, Connecticut, where they lived
together in a one-bedroom apartment. At school, Vuong was buffeted by English
long before he could use it—his family was illiterate, and he didn’t learn
to read until he was eleven.
“For an American who was born here, the mundane might be boring, but
for me colloquial English was a destination,” Vuong told me on a recent
Tuesday evening, folded into a booth at Caffè Reggio, the Greenwich Village
haunt. Now twenty-seven, he is a recent recipient of the Whiting Award,
and this week the Copper Canyon Press published his first book, “Night
Sky with Exit Wounds.” Two years ago, when Vuong was told over the phone
that his manuscript had been accepted, he was riding the elevated train
from his home in Astoria to his first workshop at New York University,
where he’s about to complete his M.F.A.
At Caffè Reggio, Vuong drank jasmine tea and wore a black silk shirt
with white polka dots. “This place is a time warp,” he said, pointing out
a silvery vat that once produced espressos—America’s first such machine,
Italian-made—and the counter where Joseph Brodsky, another English-language
poet who did not start with English, once retrieved his mail. It was an
appropriate setting for someone influenced by both the plainspoken ironies
of Frank O’Hara and the exotic folklorism of Federico García Lorca.
Reading Vuong is like watching a fish move: he manages the varied currents
of English with muscled intuition. His poems are by turns graceful (“You,
pushing your body / into the river / only to be left / with yourself”)
and wonderstruck (“Say surrender. Say alabaster. Switchblade. / Honeysuckle.
Goldenrod. Say autumn”). His lines are both long and short, his pose narrative
and lyric, his diction formal and insouciant. From the outside, Vuong has
fashioned a poetry of inclusion.
In his right ear, Vuong wears a tiny pearl stud that once belonged to
his mother’s mother. He often speaks of having been brought up by women—his
father was imprisoned for hitting Vuong’s mother shortly after the family’s
arrival in Hartford, and the couple soon divorced. When Vuong was a boy,
his mother and grandmother taught him their field songs and aphorisms.
One of the “Notebook Fragments” is a paraphrase of such a saying: “Even
sweetness can scratch the throat, so stir the sugar well. —Grandma.”
It was Vuong’s mother, a manicurist, who gave him his name. (He was born
Vinh Quoc Vuong.) On a summer day at the nail salon, she told a customer
that she wanted to go to the beach. She kept saying, “I want to go to the
bitch,” Vuong told me. The customer suggested that she use the word “ocean”
instead. Upon learning that the ocean is not a beach but a body of water
that touches many countries—including Vietnam and the United States—she renamed
her son.
The ocean is a poetic cliché, and Vuong takes clichés very seriously.
“They come out of a crisis in language,” he said. “They have lost their use.”
In “Someday I’ll Love Ocean Vuong,” published last year in this magazine,
Vuong imbues his name with new significance. It begins:
Ocean, don’t be afraid.
The end of the road is so far ahead
it is already behind us.
Don’t worry. Your father is only your father
until one of you forgets.
Later, Vuong fuses oceanic address with another familiar trope, the language
of self-motivation: “Ocean, / are you listening?” “Ocean— / get up.” The
sea becomes an organism in need of impossible repair, and the speaker becomes
the sea itself, protean and powerful. The idea, Vuong said, is that “we
can be more than one thing at once.” He referred me to “Katy,” by O’Hara.
Its penultimate line reads “Someday I’ll love Frank O’Hara.” Its final line:
“I think I’ll be alone for a while.”
Vuong also likes O’Hara and the other New York School poets for their
frank sex talk. “What can I do?” he said. “I like penises.” Growing up, he
answered phones at the nail salon, and watched Oprah and Ellen while working.
He read a little poetry in middle school, mainly Dr. Seuss and the children’s
magazine Stone Soup. In high school, he had the notion to record his family’s
wisdom in a journal. On the blank facing pages, he jotted down his own “little
things,” as he described his first poems.
In 2008, he went to Pace University to study marketing, in the hope of
supporting his family, but quit after three weeks. At Brooklyn College,
he became an English major, writing poems on postcards and handing them
to friends. Sonnets, he told me, were once passed around like little notes—“in
the time of Shakespeare, before texting.” When the poet-novelist Ben Lerner
joined the faculty, he introduced Vuong to the notion that a life of writing
might be possible. Before that, Vuong said, “I thought all poets were preordained.
The government decided. Obama or Bush or whatever said, ‘You, you, you.’
”
Vuong’s grandmother died, of bone cancer, while he was studying at Brooklyn.
She was buried in Vietnam, and Vuong travelled there for the funeral. “I
was overwhelmed, because everyone looked like my family,” he told me. I
suggested that some people might find this familiarity a source of comfort.
“I like to be more precarious,” Vuong said. “Then strange things can happen.”
He finished his tea. Outside, Thompson Street had darkened; inside, the
college crowd had thinned. “My mother would unfold and count dollar bills
in tips, and with that we would go and buy dinner,” Vuong said, as we got
the check. “Every dollar was tangible, a felt symbol.” His family finds his
career difficult to fathom, so they call him “scholar,” and he doesn’t correct
them. “Their voices are in my head when I’m writing, when I’m thinking, and
I don’t think there’s ever a day when I don’t ask myself what I should be
doing with these hands.”
Trên Tin Văn, đã từng giới thiệu Vương Ocean, khi anh xuất hiện trên
tạp chí Văn Học Á Châu, trong bài thơ viết về cú Loan làm thịt VC.
Mới đây, là số Tạp Chí Thơ, về anh.
Nay thêm bài trên The New Yorker, nhờ cái link của Bà Tám.
Tks
LA NUIT D'AVRIL 1915
A L. de G.-G.
Le ciel est étoilé par les obus des Boches
La forêt merveilleuse où je vis donne un bal
La mitrailleuse joue un air a triples-croches
Mais avez-vous le mot
Eh! oui le mot fatal
Aux créneaux Aux creneaux Laissez la les pioches
Comme un astre éperdu qui cherche ses saisons
Coeur obus éclaté tu sifflais ta romance
Et tes mille soleils ont vidé les caissons
Que les dieux de mes yeux remplissent en silence
Nous vous aimons ô vie et nous vous agacons
Les obus miaulaient un amour à mourir
Un amour qui se meurt est plus doux que les autres
Ton souffle nage au fleuve où le sang va tarir
Les obus miaulaient
Entends chanter les nôtres
Pourpre amour salué par ceux qui vont périr
Le printemps tout mouillé la veilleuse l'attaque
II pleut mon âme il pleut mais il pleut des yeux morts
Ulysse que de jours pour rentrer dans Ithaque
Couche-toi sur la paille et songe un beau remords
Qui pur effet de l'art soit aphrodisiaque
Mais
orgues
aux fétus de la paille où tu dors
L'hymne de l'avenir est paradisiaque
Apollinaire: Calligrams
APRIL NIGHT 1915
For L. de C-C.
The night is spangled with the Boche's shells
The enchanted forest where I live is throwing a ball
The machine-gun plays in three-four time
But do you have the word
Alas the fatal word
To your posts To your posts Drop your picks
Like a lost star that seeks its seasons
Heart burst shell you whistled your romance
And you thousand suns have emptied the wagons
Which the gods of my eyes silently refill
Life we love you and we irk you
Shells whined a love to end all love
Love dying is sweeter than all other
Your breath swims the stream where blood will run dry
Shells whined
Hear ours sing
Crimson love those about to die salute
Soaking springtime the nightlight the attack
It is raining my soul it is raining but raining dead eyes
Ulysses so many days to make it back to Ithaca
Lie down on the straw and conjure fine remorse
Aphrodisiac pure effect of art
But
Straw-strewn organ music
where you sleep
Future's hymn is paradisal
Note: Bài thơ này làm nhớ bản nhạc sến, "những ánh mắt hỏa châu là hoa
đăng ngày cưới"
Shells whined a love to end all love
Love dying is sweeter than all other
Một tình yêu chết thì dịu dàng hơn tất cả những thứ [tình] khác.
Nhưng câu thơ "les obus miaulaient...." thì lại làm nhớ "ngoài kia súng
nổ đốt lửa đêm đen tầm đạn thay tiếng em"!
Marina Tsvetaeva
Penguin Russian Poetry
for Natalia Rikova
Mere skin and bones, we were tied,
Beaten, left to die in the brutal cold.
Death's black wings capsized the sky.
Why this lightness of being in my soul?
Sun-burnt scent of cherry blossoms
From the woodland outside of town.
New summer stars flare on a July
Night at the deepest end of the sky-
Something miraculous will soon be sown
In this ramshackle neighborhood ...
Something none of us has ever known,
Something dreamed of since childhood.
Anna Akhmatova
[In Strong Words]
Gửi Natalia Rikova
Gầy, da bọc xương, chúng ta bị trói
Bị đánh, bị bỏ ngoài cái lạnh giá Bắc Kít tàn bạo
Đôi cánh đen của Thần Chết chụp xuống bầu trời
Tại làm sao mà hồn ta nhẹ hẫng
Cái nhẹ hều của cuộc nhân gian?
Da cháy nắng mùi anh đào lối xóm ngoại thành
Những vì sao mùa hè lấp lánh trên nền trời Tháng Bảy
Đêm thăm thẳm cái chiều sâu thăm thẳm của tận cùng bầu trời
Một điều gi thiêng liêng giống như là một phép lạ
Sẽ được gieo trồng vào Mùa Tháng Tư năm nay
Nơi lối xóm ngoại thành đổ nát, hoang tàn, xiêu vẹo
Một điều gì mà chúng ta chưa từng được biết tới
Một điều gì, mơ từ thời trẻ thơ Bắc Kít, của GCC
Gửi Natalya Rykova.
Bị trộm, bị phản bội, bị bán đi tất cả
Cánh tử thần đen tối thoáng hiện ra
Và nỗi sầu đói khát đang nhai sống
Cớ sao mặt trời vẫn sáng trong ta?
Ban ngày cánh rừng ngoại ô thành phố
Lộng lẫy thở đầy hơi thở anh đào
Ban đêm vòm trời tháng bảy sâu thăm thẳm
Lấp lánh thêm nhiều những chòm sao.
Và điều kỳ diệu đến gần, gần lắm
Tới những ngôi nhà sắp đổ nát mất rồi
Điều mà còn chưa ai được biết
Nhưng chúng ta mong mỏi muôn đời.
Nina dịch từ nguyên tác tiếng Nga
Tks All of U and take care
NQT
Bài dịch nhảm của GCC lầm," ánh sáng" thành "nhẹ".
19/12/2006
Anh ấy yêu …
Anna Akhmatova
Trên đời này ba thứ anh ấy yêu
Những con công trắng và khúc hát ban chiều
Bản đồ Mỹ châu đã nhòa nét vẽ
Anh ấy không yêu tiếng khóc nhè con trẻ
Không yêu uống trà với mứt mâm xôi
Không yêu khi đàn bà cười khóc lúc dở người
… Vợ anh ấy là tôi …hồi ấy.
Он любил…
Анна Ахматова
Он любил три вещи на свете:
За вечерней пенье, белых павлинов
И стертые карты Америки.
Не любил, когда плачут дети,
Не любил чая с малиной
И женской истерики
…А я была его женой.
9 ноября 1910, Киев
Bản tiếng Anh, trong Strong Words
He loved three things
He loved three things in life:
White peacocks, evensong,
And old maps of America.
He hated hearing a child's strife,
Hated tea with raspberry,
And womanish hysteria .
.. .I was his wife.
THE LAST TOAST
I drink to the house, already destroyed,
And my whole life, too awful to tell,
To the loneliness we together enjoyed,
I drink to you as well,
To the eyes with deadly cold imbued,
To the lips that betrayed me with a lie,
To the world for being cruel and rude,
To God who didn't save us, or try.
1934
Anna Akhmatova
Bữa nhậu chót
Ta uống mừng căn nhà đã hoàn toàn bị tiêu huỷ
Mừng trọn đời ta, thật dễ sợ nếu phải kể ra
Mừng nỗi cô đơn ta và mi cùng chia sẻ
Mừng mi nữa chứ, làm sao không?
Mừng đôi mắt lạnh lùng chết người
Mừng cặp môi thốt lời dối trá
Mừng thế giới quá tàn nhẫn, thô bạo
Mừng Ông Trời đếch thèm cứu vớt chúng ta
và cũng chẳng thèm thử .
Blessed is he who visited this world
In its fatal moments
Akhmatova: Third Elegy [1945]
Hạt bụi nào hoá kiếp thân tôi,
Vào đúng lúc thê thảm như thế này.
Somewhere there is a simple life and a world,
Tranparent, warm, and joyful..
There at evening a neighbor talks with a girl
Across the fence, and only the bees can hear
This most tender murmuring at all
Đâu đó có một cuộc đời bình thường, giản dị, và một thế giới
Sáng trong, ấm áp, và vui vẻ...
Ở đó, vào lúc xẩm chiều, một người lối xóm nói chuyện với một cô gái
Qua hàng dậu, và chỉ có mấy con ong mới có thể nghe
Những lời thì thầm, ôi sao ngọt ngào như thế.
But had I observed from there
The life I am living today,
I would finally discover envy...
Giả sử như từ đó tôi nhìn về
Cái cuộc đời mà tôi đang sống hôm nay
Như vậy có thể sau cùng tôi khám phá ra ham muốn...
*
Âm nhạc của TCS đã thành một sự nghiệp lớn, một bộ phận hữu cơ của đời
sống tinh thần văn hóa dân tộc. Điều đó đã là một giá trị, không cần phải
bàn cãi, và không thể nào phủ nhận.
PXN: Minh bạch lịch sử [Blog Nguyên Đầu Bạc]
Gấu sợ ông hơi bạo ngôn. Trong sự nghiệp lớn của dân tộc đó, có nhiều
bản nhạc vẫn chưa được “dân tộc” cho phép hát! Thí dụ: Cho một tên Ngụy
vừa nằm xuống!
Bài viết của TC, thì cũng... dzui thôi mà, như cuộc mua dzui chót đời
của ông ta, đâu có ảnh hưởng gì tới TCS?
Giá như ông ta viết, khi TCS còn sống, thì bảnh hơn, để cho TCS còn
có dịp lèm bèm. Đợi bạn quí chết rồi, dù đúng cách mấy thì cũng thật là
đáng tởm.
Đây là vấn đề tư cách, đạo đức của bản văn, và của tác giả của nó. Không
liên can gì tới TCS. Cứ coi như tất cả những gì TC viết ra đều đúng, thí
dụ như, tham vọng chính trị của TCS, thì cũng vô phương biện minh cho bài
viết.
Một khi bạn đã vi phạm trầm trọng những yêu cầu ngoài lề của bản văn,
thì bản văn kể như vứt đi.
Nếu bản văn dở, thì thiệt hại của nó cũng.... đỡ. Thê thảm nhất, là
bản văn hay! Mọi điều tố cáo đều đúng hết!
Thảm thế đấy!
Đây là quan niệm của phương trượng Thiếu Lâm, trong Lục Mạch Thần Kiếm,
khi đứng trước cơ nguy liên can đến thanh danh ngàn đời của ngôi chùa Thái
Sơn Bắc Đẩu: Thà là một viên gạch bể, còn hơn là một viên ngọc quí!
*
Minh bạch Lịch sử?
Liệu, lịch sử sau này sẽ minh bạch, và gọi cuộc chiến thần thánh, là
ăn cướp?
Học tập cải tạo, là đi tù?
Nguỵ cũng là người? Cũng dân Mít?....
*
Mỗi một người đàn ông chết để lại một tài sản nho nhỏ, hồi ức của người
đó, và yêu cầu được chăm sóc. Với những người không có một người bạn, thì
ông quan tòa sẽ cung cấp một người…
Tòa này là Lịch Sử. (1)
(1)
THE BENCH OF HISTORY
Each soul, among vulgar things, possesses certain special, individual
aspects which do not come down to the same thing, and which must be noted
when this soul passes and proceeds into the unknown world.
Suppose we were to constitute a guardian of graves, a kind of tutor
and protector of the dead?
I have spoken elsewhere of the duty which concerned Camoens on the deadly
shores of India: administrator of the property of the deceased.
Yes, each dead man leaves a small property, his memory, and asks that
it be cared for. For the one who has no friends, the magistrate must supply
one. For the law, for justice is more reliable than all our forgetful affections,
our tears so quickly dried.
This magistracy is History. And the dead are, to speak in the fashion
of Roman Law, those miserabiles personae with whom. the magistrate must
be concerned.
Never in my career have I lost sight of that duty of the Historian.
I have given many of the too-forgotten dead the assistance which I myself
shall require.
I have exhumed them for a second life. Some were not born at a moment
suitable to them. Others were born on the eve of new and striking circumstances
which have come to erase them, so to speak, stifling their memory (example,
the Protestant heroes dead before the brilliant and forgetful epoch of
the eighteenth century, the age of Montesquieu and of Voltaire).
History greets and renews these disinherited glories; it gives life
to these dead men, resuscitates them. Its justice thus associates those
who have not lived at the same time, offers reparation to some who appeared
so briefly only to vanish. Now they live with us, and we feel we are their
relatives, their friends. Thus is constituted a family, a city shared by
the living and the dead.
1872. Histoire du XIXe siècle, II, Le Directoire, Preface
Roland Barthes: Michelet
Tòa án lịch sử.
Mỗi linh hồn, trong những tầm phào của nó, có tí ti ‘đặc sản’ khiến
chúng phân biệt với nhau, và cần được ghi nhận, khi nó từ bỏ cõi đời này
đi vô cõi vô biên, biền biệt.
Giả như chúng ta lập ra một thứ ông từ, của những đền đài, là những
ngôi mộ?
Một thứ giám hộ chuyên lo bảo vệ những người chết?
Tôi có lèm bèm ở đâu đó, về trách nhiệm mà Camoen quan tâm tới, ở trên
những bến bờ chết người ở Ấn độ: Người lo quản lý những tài sản của những
người đã chết.
Đúng như thế, mỗi người chết để lại tí ti tài sản, là hồi ức của người
đó, và yêu cầu được chăm sóc. Với người không bạn bè, quan tòa phải cung
cấp một người như vậy.
Nước mắt của chúng ta thì khô ráo thật lẹ, và luật lệ, công lý thì đáng
tin cậy hơn là ba thứ tình cảm rất mau phai nhạt của chúng ta.
Thứ tòa này là Lịch sử.
*
I am a complete man, having both sexes of the mind.
Tôi là người đàn ông đầy đủ, có cả hai giới tính của trí tưởng.
Michelet
Tôi đào họ lên và cho họ một đời thứ nhì. Có những người sinh ra vào
lúc không hợp với họ. Có những người khác, sinh ra vào đúng buổi đêm mà
những hoàn cảnh kinh hồn khiếp đảm sắp sửa mò tới vào buổi sớm mai, là để
làm thịt họ, thì cứ nói như vậy, là để bóp nghẹt hồi ức của họ.
Lịch sử chào đón và làm mới những vinh quang bị tước đoạt; nó đem đời
sống đến cho những người đã chết, tái sinh họ.
Michelet [sử gia Pháp] nói về vai trò sử gia của ông.
Ui chao, đúng là thứ lịch sử mà đám Mít Miền Nam cần.
[Cái câu ... 'mò tới vào buổi sáng mai... ", chẳng đúng là cảnh buổi
sáng 30 Tháng Tư 1975 sao?]
*
Liệu có thể coi TC, cũng làm cái công việc sử gia như Michelet vừa bốc
phét về vai trò của ông?
No! I Can U, U tha cho Me!
TC, khi TCS còn sống, có dư dả thì giờ để viết. Bi giờ, viết, là khốn
nạn.
*
Lịch sử thật khó minh bạch, nhất là thứ lịch sử của kẻ mạnh.
Không hạch hỏi lịch sử, mà nhờ cậy hồi ức, là đề tài của tờ Granta,
số mới nhất: Mất đi Tìm lại được. Lost and Found.
Có một cái gì thật sống động đang mất đi tại Trung Quốc. Tuy nhiên cái
sự trống vắng đó vẫn cảm nhận được, như một ngón tay bị cắt đi.
*
The vanishing point.
When something is lost, our first instinct is often towards preservation:
either of the thing itself, its memory and its traces in the world, or of
the part of us that is affected by what is now missing. The pieces in this
issue of Granta reflect on the complex business of salvage and try to bring
into the light what we discover when we come face to face with loss.
Điểm biến
Khi một điều gì đó bị mất, bản năng đầu tiên của chúng ta thường là,
cố níu kéo nó: Hoặc chính điều mất đi, hồi ức của nó, và dấu vết của nó trong
cuộc đời, hay là cái phần ở trong chúng ta bị thương tổn, do cái sự mất
mát đó.
Nhật Ký TV
*
Nhà văn bậc nhất của chế độ, ông Nguyễn Khải viết trước khi chết hai
năm: “Tôi là nhà văn của một thời, thời hết thì văn phải chết, tuyển tập,
toàn tập thành giấy lộn cho con cháu bán cân. Buồn nhỉ?” Lịch sử văn học
thế giới từng ghi nhận nhiều bằng chứng về các thế lực cầm quyền đã đánh
giá rất sai các tác phẩm có tư tưởng vượt thời đại của nghệ sĩ. Ví dụ như,
coi tác phẩm của Lawrence là dâm thư, coi E. M. Remarque là phản dân tộc…
Thiện Ý [talawas].
Ở đây, có một sự so sánh hơi bị nhảm. Nguyễn Khải biết rất rõ tác phẩm
của ông sống dai tới mức nào, và nhà cầm quyền chẳng hề đánh giá sai tác
phẩm của ông.
Nguyễn Khải là nhà văn rất có tài. Nhưng, như nhạc sĩ Tô Hải, trong
một bài viết đang nổi đình nổi đám trên thế giới blog, [xem Blog mới] ông
viết về cái hèn của ông, và những người như Nguyễn Khải.
Nguyễn Khải chỉ dám “hết hèn” khi mình đã chết, đã hưởng đủ mọi quyền
lợi không ai có thể đòi lại được nữa!
Cái sự đánh giá sai tác phẩm, nó cũng nhiêu khê lắm. và có khi chẳng
mắc mớ tới nhà cầm quyền.
*
Ông Nguyễn Khải biết rất rõ, ông chưa nằm xuống là văn của ông đã phân
hóa, biến thành cái gì gì rồi, bởi vì chính ông ta đã từng nhận xét, văn
của ông là của một thời “lẫm liệt”, như Tin Văn có lần viết về ông.
Benjamin đã từng phán, có những cuốn sách nằm ngủ trong thư viện hàng
ngàn năm, chờ đến khi có một độc giả của nó lù khừ mò tới…
Trong bài viết "Những viên gạch của tháp Babel", in trong "The City
of Words", Thành phố chữ, Manguel viết:
“…Độc giả tạo ra nhà văn, và đến lượt mình, nhà văn tạo ra độc giả,
cứ mỗi một cái đọc mới và một cái viết mới phải dậy cho độc giả cách đọc
nó.”
"Cái sự không thể đọc được tác phẩm Moby Dick của Melville của những
người đương thời của ông, cho chúng ta thấy ra một điều: nếu nói về tốc
độ, thiên tài văn chương của Melville quá nhanh, so với tiến trình đọc,
cái việc dậy dỗ độc giả, cách đọc."
"Nhưng về một mặt khác, có những tác giả đòi hỏi những thời kỳ dài trước
khi dám bắt tay viết về thời của mình. Đôi khi những tai ương lớn lao, thí
dụ như Đệ Nhất Thế Chiến, hay Lò Thiêu, có ngay những tác giả viết về chúng,
thí dụ như Mặt Trận Miền Tây Vẫn Yên Tĩnh, viết về Đệ Nhất Thế Chiến, của
Erich Maria Remarque. Lò Thiêu thì có Đây có phải một người, If This Is
A Man, của Primo Levi, hay Tẩu Khúc Của Thần Chết của Celan, cùng ra lò
năm 1947. Tuy nhiên nỗi đau của Đức, thì phải đợi đến khi W.G. Sebald xuất
hiện, với cuốn Lịch sử tự nhiên của huỷ diệt 1999.
Cuộc chiến Iraq cũng chưa sản xuất ra một tác phẩm nào cho ra hồn, chính
là do thế trên đe dưới búa của nó. Một cuộc chiến, một bên là nhà độc tài,
một bên là đế quốc xâm lược.
Liệu nhà văn Mít chúng ta cũng ở thế trên đe dưới búa hơn ba muơi năm
sau khi cuộc chiến chấm dứt?
La musique peut rendre fou et peut aider à guérir l'esprit brisé. Si
elle peut être 1'« aliment de l'amour », elle peut aussi déclencher des
festins de haine.
Beyond true and false, beyond good and evil. The two dichotomies are
closely, though complexly, intermeshed. Music can be abused when it is composed
and executed in glorification of political tyranny, of commercial kitsch.
It can be, indeed it has been, played loud enough to cover the cries of
the tortured. Such abuse, of which exploitations of Wagner's music, but even
of Beethoven's Ninth (we recall Adorno's jotting) are emblematic, is wholly
contingent. It does not arise from, it does not negate the ontological and
formal extraterritoriality of music to good and evil. In fear of Wagner, Lukacs
asked whether even a single bar of Mozart can be politically abused, can
be made expressive of inherent evil. To which, when I reported the challenge,
Roger Sesssions, that most thoughtful of composers, replied by sitting down
at his piano and playing the menace-aria of the Queen of the Night in The
Magic Flute. Adding at once, however, 'No, Lukacs is right.'
G. Steiner: ERRATA
Liệu, trong cái sự thù ghét nhạc Trịnh, có nỗi đau lòng của những kẻ
đã từng mê nhạc Trịnh, và, coi đó là nguyên nhân khiến cho họ “lơ là cảnh
giác”, và “làm mất Miền Nam”? Đây là cái mặc cảm “giận 'dao' nên chém thớt
cho bõ tức” ? [Giận cá chém thớt].
Những gì gì mà Steiner lèm bèm: “La musique peut rendre fou et peut
aider à guérir l'esprit brisé. Si elle peut être 1'« aliment de l'amour
», elle peut aussi déclencher des festins de haine: Âm nhạc có thể làm
khùng, và có thể hàn gắn một tinh anh bể nát. Nếu nó có thể là “thức ăn
của tình yêu”, nó cũng có thể làm nổ tung ra những cuộc bữa tiệc của hận
thù.
Vượt quá thực và giả, tốt và xấu, thánh thiện và quỉ ma. Hai cõi đối
nghịch tưởng như cách biệt hẳn nhau, nhưng thật gần gụi đến trộn lẫn vào
nhau một cách thật là nhiêu khê, rắc rối.
Âm nhạc có thể bị lợi dụng, khi nó được soạn ra để tấu lên nhằm vinh
danh độc tài, bạo chúa, nhằm mục đích thương mại hạ cấp, rẻ tiền, sến! Nó
còn được tấu lên một cách thật là ồn ào, nhằm che lấp tiếng khóc than của
những kẻ bị hành hạ, tra tấn.
Bạn chỉ sống hai phùa. (1)
Một phùa, Bố Mẹ ban cho,
Phùa kia,
Khi bạn nhìn vào tận mắt Thần Chết.
You only live twice
Once when you are born
And once when you look death in the face
Ian Fleming: You only live twice
(1) Phùa: Từ "fois", lần, tiếng Tây.
Coetzee viết về Brodsky: Thi sĩ đòi cho thơ cái quyền giáo dục và cứu
rỗi con người. Và nếu như thế, vị trí của ông, về vấn đề này, gần gụi với
Cổ Athens, khi họ dậy nam sinh viên [không có nữ], thế chân vạc của âm nhạc
[nhạc làm cho tâm hồn nhịp nhàng, hài hòa: to make the soul rythmical and
harmonious], thơ, và thể dục.
Plato đạp đổ thế chân vạc, ba còn hai: nhạc nuốt thơ, và trở thành môn
học chính về tâm thần và tinh thần [the principal mental/spiritual discipline].
Những quyền năng mà Brodsky phán, thuộc về thơ, có vẻ như thuộc về âm
nhạc nhiều hơn, theo Coetzee. Thời gian là chốn đồng vọng, the medium,
của nhạc hơn là của thơ: Chúng ta đọc thơ trên trang giấy in, nhanh cỡ
nào tùy theo chúng ta thích hay không thích, trong khi chúng ta nghe nhạc,
ở trong thời gian của riêng nó.
Thời gian của riêng nó, với nhạc vàng nhạc sến của Miền Nam, đúng là
cái thời để yêu, để hát, và để chết!
Gấu này đã kể, về cái lần đầu nghe Tình Nhớ, của TCS, khi nó vừa mới
ra lò, trong đêm khuya, khi đối diện với cái giường sắt lạnh lẽo nơi Trung
Tâm Ba Tuyển Mộ Nhập Ngũ, và tưởng tượng ra rằng, có thể đứa em trai đã
từng nằm, chính cái giường này, trước khi bỏ đi xa.
*
Bài viết
Một thời để yêu, để hát, và để chết,
không hiểu có phải vì biến cố 30 Tháng Tư mà đứng đầu liền tù tì hai
tháng, trong số những bài được đọc nhiều nhất.
Thừa thắng xông lên, Gấu bèn viết, về một thời để yêu, để hát, và -
vì không chết - để đi tù... VC!
Những ngày
TCS
http://www.art2all.net/tho/tho_nqt/nhungngaytcs.html
Trong
số những người tưởng niệm TCS khi anh vừa nằm xuống, GCC là thằng
đầu tiên.
Một bài viết, thoạt đầu ngắn, sau đây, sau, phát triển thành
1 bài dài thòng.
Liền sau đó, GCC nhận được 1
cái mail, của 1 người bạn, kèm một đoạn trong bài viết của DT, về
TCS, khi bài chưa được post, "xoa đầu" GCC tới chỉ!
Giữa một rừng than khóc ki khu, thì
bài Nguyễn Quốc Trụ, nhanh, ngắn nhưng giá trị. Vì chính xác và dũng cảm.
DT
Đoạn
ngắn này, sau GCC được biết, bạn Lý Kiến Cắn [Lý Kiến Trúc] chơi liền,
trong 1 số báo Văn Hoá của anh, ở Tiểu Saigon, tưởng niệm TCS.
Tờ Văn của NXH, liền sau đó, cũng lấy đăng.
Cái tít bài viết, thuổng Sơ Dạ Hương, Những ngày ở Saigon.
Tks all. NQT
Tôi biết Trịnh Công Sơn khi anh chưa nổi tiếng, và qua Nguyễn
Đình Toàn, tại một bàn cà phê ở quán Cái Chùa, đường Tự Do, Sài Gòn.
Nói chưa nổi tiếng, là đối với đa số công chúng thưởng ngoạn. Cùng với
đà cuộc chiến leo thang, người dân miền nam ngày càng thấm nhạc của anh.
Anh ngồi chung bàn với Toàn và tôi, nhưng cứ chốc chốc lại
có một anh bạn trẻ nào đó, từ một bàn nào đó, tạt qua bàn, chỉ để nói
chuyện hoặc hỏi thăm anh, và thường là về Huế, và cứ mỗi lần như vậy,
anh đổi giọng nói. Khi nói với hai đứa chúng tôi, anh dùng giọng bắc.
Toàn lúc đó phụ trách chương trình nhạc chủ đề trên đài
phát thanh Sài Gòn, và hai người hình như có hẹn gặp nhau tại quán,
ấy là tôi suy đoán ra như vậy. Thời gian này, tôi chưa để ý đến nhạc
Trịnh Công Sơn. Nói rõ hơn, nó chưa thấm vào tôi.
Phải tới khi đứa em trai mất, tới lượt tôi vào Trung Tâm
Ba Quang Trung, trong những đêm cận Tết, nằm trên chiếc giường sắt
lạnh lẽo, một anh chàng nào đó, chắc là quá nhớ bồ, cứ thế huýt sáo bài
Tình Nhớ gần như suốt đêm, thế là tiếng nhạc bám riết lấy tôi, rứt không
ra… Lúc này, tiếng nhạc của anh, đối với riêng tôi, qua lần gặp gỡ trên,
như trút hết những âm tiết địa phương, và trở thành tiếng nói chung của
cả miền nam, tức là của cả thế giới, vào thời điểm đó, khi cùng nói: hãy
yêu nhau thay vì giết nhau. Bởi vì chưa bao giờ, và chẳng bao giờ miền
nam chấp nhận cuộc chiến đó. Chính vì vậy, họ lãnh đạm với chính quyền,
ưu ái với miền bắc, vì họ đều tin một điều, miền bắc sẽ kết thúc cuộc chiến,
và người Mỹ sẽ ra đi. Như cả nhân loại tiến bộ, họ chỉ có thể tiên đoán
đến đó. Nhạc Trịnh Công Sơn nói lên tiếng nói đó. Tính phản chiến của
nhạc của anh, chính là tính phản chiến của cả một miền đất.
Và cũng như cả nhân loại tiến bộ, chỉ tới sau vòng tay lớn
rã ra, Trịnh Công Sơn mới hiểu. Một bạn văn của người viết, còn ở lại
Sài Gòn, nhân lần gặp gỡ tại xứ người, đã kể chuyện, sau "giải phóng",
có thời gian Trịnh Công Sơn bị Cộng Sản địa phương làm khó dễ, anh
phải vô Sài Gòn, và có than thở với anh bạn văn kể trên. Anh nói, thì
cứ dzô đây, gì thì gì, chắc cũng dễ thở hơn.
Sài Gòn cưu mang Trịnh Công Sơn không phải chỉ lần đó. Theo
như tôi được biết, những ngày cuộc chiến dữ dội, trong khi chúng tôi
cứ thế theo nhau lên Trung Tâm Ba, Trịnh Công Sơn may mắn đã được đại
tá không quân Lưu Kim Cương che chở. Trong số những quân cảnh tại thành
phố, có người chỉ mong cơ hội "chộp" được Trịnh Công Sơn!
Đại tá Lưu Kim Cương tử trận trong biến cố Mậu Thân, khi
bảo vệ vòng đai phi trường Tân Sơn Nhất.
Riêng tôi, tôi mong được như anh: được chết tại Sài Gòn.
Xin vĩnh biệt.
manhhai
SAIGON, 7 May 1968 - Đại tá Lưu Kim Cương tại vành đai phía
Tây Nam sân bay TSN
Location: RVN, Tan Son Nhut. Photographer: SP5 J.F. Fitzpatrick,
Jr. A Vietnamese Air Force Col, and the Tan Son Nhut CO, (right),
fire a 50 cal. machine gun into enemy positions in the Old French
Cemetery from atop a tank on the southwestern perimeter of Tan Son Nhut
Air Base.
Một Đại tá Không quân VN Chỉ huy trưởng căn cứ TSN (bên
phải), bắn đại liên .50 vào vị trí địch tại Nghĩa trang QĐ Pháp từ trên
một xe tăng tại vành đai phía tây nam Căn cứ KQ Tân Sơn Nhứt, [đó là
Đại tá Lưu Kim Cương]
7 May 1968
Số báo tuyệt vời, Tháng Tư
1975
"Tôi mang cái chết đến cho
những người thân của tôi
Hết người này tới người kia
gục xuống.
Ôi đau đớn làm sao! Những
nấm mồ
Đã được tôi báo trước bằng
lời."
"I brought on death to my dear
ones
And they died one after another.
O my grief! Those graves
Were foretold by my word."
Anna Akhmatova
Saigon, qui meurt…
Khi người ta chôn một thời
đại
Chẳng lời hát tang chế nào
cất lên.
Để trang trí cho mộ phần kia
Chỉ thấy cúc gai với tầm ma
Và chỉ có bọn đào huyệt hối
hả
Ra tay nhanh gọn vùi lấp nó.
Giữa niềm im lặng sâu không
đáy
Khiến ta nghe được thời gian
đi qua.
Rồi thời đại nổi lên như thi
thể
Lênh đênh sông nước lúc xuân
về.
Nhưng đứa con chẳng còn nhìn
ra mẹ
Và thằng cháu quay lưng vì
quá chán.
Nhựng các cái đầu càng cúi
thấp hơn
Dưới đòn cân chậm chạp của
vầng trăng .
Niềm im lặng ấy trị vì
Trên Paris đang chờ chết.
Chân Phương dịch
Tháng Tư 1975! Ban Mê Thuộc,
Đà Nẵng, Nha Trang mất…Dân tình nhốn nháo, một số tìm cách ra đi,
bạo lực chiến tranh trùm phủ bầu khí Sàigòn, ngoại ô xa đã
bị pháo kích…
Một buổi trưa rời đại học Văn Khoa và đám sinh
viên đang hoảng loạn, tôi phóng mô tô qua Institut – viện
Văn Hóa Pháp ở Đồn Đất – tìm chút tĩnh lặng trong mấy trang sách
báo, cố duy trì thói quen trầm tư với chữ nghĩa dù binh lửa cận kề.
Cầm trên tay LA NOUVELLE REVUE FRANCAISE , Avril 1975 – nguyệt san từ
Paris vừa gửi đến – tôi mở ra trang đầu và gặp phải bài L’année quarante
của nữ thi hào Anna Akhmatova. Đây là bài thơ khóc Paris vào năm
1940 khi nước Pháp thua trận và thủ đô bị quân Đức chiếm đóng. Tại sao
nhà Gallimard lại cho đăng bài thơ này khi Sài gòn đang hấp hối từng
ngày? Ban biên tập của NRF có chủ ý gì chăng? Dân Pháp làm gì không
biết là Nam Việt Nam sắp mất!
http://damau.org/archives/36641
V/v Câu hỏi của CP, có câu
trả lời của 1 blogger dưới đây:
* đề từ lấy từ bài thơ khu
latin của nhà thơ vyacheslav ivanov
* tháng 6 năm 1940 paris đầu hàng phát xít
đức. bài thơ này được làm trong bối cảnh đó.
Bài thơ làm năm 1940, tức là
cùng thời với Kinh Cầu.
Bản tiếng Anh, của Lyn Coffin:
1.
When they bury an epoch,
No psalms are read while the coffin settles,
The grave will be adorned with a rock,
With bristly thistles and nettles.
Only the gravediggers dig and fill,
Working with zest. Business to do!
And it's so still, my God, so still,
You can hear time passing by you.
And later, like a corpse, it will rise
Ride the river in spring like a leaf,-
But the son doesn't recognize
His mother, the grandson turns away in grief,
Bowed heads do not embarrass,
Like a pendulum goes the moon.
Well, this is the sort of silent tune
That plays in fallen Paris.
Khi họ chôn một thời kỳ
Không tụng ca được đọc khi hạ huyệt
Ngôi mộ sẽ được điểm trang bằng 1 cục đá.
Với cây kế tua tủa và tầm ma
Chỉ mấy đấng thợ, đào, và sau đó lấp, mồ.
Họ háo hức, hăm hở. Công việc mà!
Và thật câm lặng, Chúa ơi, thật câm lặng!
Bạn có thể nghe thời gian qua đi.
Và sau đó, như 1 cái thây ma, nó trỗi
dậy
Bay trên mặt sông vào mùa xuân như 1
chiếc lá –
Nhưng ông con trai không nhận mẹ
Đứa cháu trai bỏ đi trong đau khổ
Những cái đầu cúi xuống đâu làm phiền ai
Như con lắc, mảnh trăng đong đưa
Đúng rồi, đúng điệu nhạc âm thầm đó
Dân Sài Gòn chơi, ngày mất Sài Gòn.
[Bản của GCC]
Trần Hồng Tiệm FB
Yesterday at 3:36pm ·
tháng 8 năm 1940
thành phố của người, julian
vyach. ivanov
khi người ta chôn thời đại
trước huyệt không hát thánh ca
cúc gai cùng với tầm ma
sẽ phải tô điểm cho mộ
chỉ có phu huyệt hối hả
chôn cất. đợi chờ được sao
lặng im, chúa ơi, im quá
nghe thấy mỗi thời gian đi
sau khi thời đại nổi lên
giống thây trên dòng sông xuân
nhưng con không nhận ra mẹ
còn cháu quay lưng trong buồn
đầu người cúi xuống thấp nữa
như con lắc ở mặt trăng
và thế - trên paris đã chết
lặng im hiện đang bao trùm
ngày 5 tháng 8 năm 1940
tại nhà sheremetevsky
anna akhmatova
* đề từ lấy từ bài thơ khu latin của nhà thơ
vyacheslav ivanov
* tháng 6 năm 1940 paris đầu hàng phát xít
đức. bài thơ này được làm trong bối cảnh đó.
Август 1940
То град твой, Юлиан!
Вяч. Иванов
Когда погребают эпоху,
Надгробный псалом не звучит,
Крапиве, чертополоху
Украсить ее предстоит.
И только могильщики лихо
Работают. Дело не ждет!
И тихо, так, Господи, тихо,
Что слышно, как время идет.
А после она выплывает,
Как труп на весенней реке,-
Но матери сын не узнает,
И внук отвернется в тоске.
И клонятся головы ниже,
Как маятник, ходит луна.
Так вот - над погибшим Парижем
Такая теперь тишина.
5 августа 1940
Шереметевский Дом
Анна Ахматова
#thodichdonga #thongadonga
https://www.facebook.com/donga01?fref=nf
Note: Tks. NQT
|
|