M Ộ
T Đ Ố M L Ử A T H Ơ
Trần Kiêm Đòan
Mạnh Xuân 2007, anh
Hoàng
Xuân Thiệu đi du lịch Trung Quốc, khi qua chùa Hàn San, anh có chép lại
tặng tôi bài tứ tuyệt lưu danh thiên cổ của Trương Kế. Đó là bài
Phong Kiều Dạ Bạc. Nguyên tác bài thơ nầy đã được Khang Hữu Vi
đời nhà Thanh khắc lên trên một tấm bia đá, dựng trong chùa Hàn San.
Đồng thời, giáo sư
Thiệu gởi
kèm một loạt cả chục bài dịch Việt do các thi nhân, bút giả Việt Nam
xưa nay chuyển ngữ. Nhưng tôi đã thành thật nêu lên nhận xét của
mình rằng, chưa có một bài dịch Việt nào chuyển được cụm chữ tài hoa
bậc nhất của Trương Kế trong Phong Kiều Dạ Bạc là “… đối sầu miên”
ra ngữ điệu u trầm miên man và ngữ cảnh đầy phiêu lãng tương đương
trong tiếng Việt cả.
Chỉ có 4 câu thơ mà cổ
kim đã
có cả núi rừng bạt ngàn giấy mực bình phẩm đến nay vẫn chưa thôi. Giờ
thêm một cọng rơm nữa thì bốn câu thơ trên vách chùa Hàn San vẫn im ắng
nghe kinh, như như bất động…
Nguyên bản chữ Hán:
楓橋夜泊
月落烏啼霜滿天
江楓魚火對愁眠
姑蘇城外寒山寺
夜半鐘聲到客船
Phiên âm Hán-Việt:
Phong Kiều Dạ Bạc
Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên
Giang phong ngư hỏa đối sầu miên
Cô Tô thành ngoại Hàn San tự
Dạ bán chung thanh đáo khách
thuyền
Một vài bài Việt dịch tiêu
biểu:
Đỗ Thuyền Đêm Ở Bến Phong
Kiều
Trăng tà
chiếc quạ kêu sương
Lửa chài
cây bến sầu vương giấc hồ
Thuyền ai
đậu bến Cô Tô
Nửa đêm
nghe tiếng chuông chùa Hàn San
Tản Đà dịch
Ban Đêm Thuyền Đậu Bến
Phong Kiều
Trăng tà
tiếng quạ vẳng sương rơi
Sầu đượm
hàng phong giấc lửa chài
Ngoài lũy
Cô Tô chùa vắng vẻ
Nửa đêm
chuông vẳng đến thuyền ai
Trần Trọng San dịch
Quạ kêu,
trăng lặn, trời sương
Lửa chài
le lói sầu vương giấc hồ
Thuyền ai
đậu bến Cô Tô
Nửa đêm
nghe tiếng chuông chùa Hàn San
Nguyễn Hàm Ninh dịch
Bên trời
trăng xuống quạ kêu sương
Lửa rọi bờ
phong đối mộng trường.
Thuyền
khách Cô Đài đêm vắng vọng
Chuông
chùa buông nhẹ chút sầu vương.
Thích Quảng Sự dịch
Trương Kế (张继 Zhang Jì), là
một tác giả
sống
vào khoảng trước sau năm 756- đời
vua
Đường Túc Tông.
Tự là Ý Tôn, Trương Kế thi đậu tiến sĩ và làm quan trong triều với chức
vụ Tự bộ viên ngoại lang, về sau bị đổi ra
Hồng Châu
coi việc tài phú và mất tại đây. Sinh thời, ông là người học rộng, đa
tài; thích đàm đạo và bàn bạc văn chương, thế sự...
đặc biệt rất thích làm thơ.
Tương truyền, Trương
Kế sau
bao nhiêu năm trải qua nhiều chặng đời vinh nhục thăng trầm với chữ
nghĩa khoa bảng, đã tìm thơ để ghi lại cái chí và cái tâm của
mình. Cũng có những khúc quanh của hoàn cảnh và tri thức làm cho
người nghệ sĩ muốn thoát ra khỏi thực tại bon chen đã vây bủa cái tâm
bản nhiên an tịnh và cái chí phiêu dật của mình. Phong
Kiều Dạ Bạc là bài thơ sáng
tạo
trong cơn mưa nguồn của sáng tạo thi ca đó.
Một hôm du thuyền trên
bến
sông Vân Kiều, trăn trở hoài không ngủ được, Trương Kế ngâm hai câu thơ
đối cảnh sinh tình:
Nguyệt lạc ô đề
sương mãn
thiên,
Giang phong ngư hỏa
đối
sầu miên...
(Quạ kêu trăng lặn
sương
mờ,
Đèn chài gió sóng
khơi bờ
sầu dâng...)
Được hai câu thì thơ
bỗng
chững lại, loay hoay mãi không tìm ra tứ thơ cho hai câu tiếp.
Vẫn theo tương truyền,
động
lực “gỡ bí” cho Trương Kế sau khi làm được hai câu thơ đầu bị bí là
quanh quất đâu đó có thầy trò sư cụ chùa Hàn Sơn. Sư cụ dạo quanh
hồ nơi sân chùa trong ánh trăng thượng huyền mới chớm với chú tiểu đi
theo. Sư cụ cũng “đối cảnh sinh tình” nên ngẫu hứng ngâm:
Sơ tam, sơ tứ nguyệt mông lung,
Bán tợ ngân câu bán
tợ
cung...
(Mồng ba, mồng bốn
trăng
non,
Nửa cong câu bạc
nửa tròn
cánh cung...)
Ngang đây thì cũng như
Trương
Kế trên bến Phong Kiều, sư cụ bí không làm tiếp được... Chú tiểu theo
hầu, cũng là một tay hay thơ, cúi đầu thi lễ sư cụ và xin phép làm nối
thêm hai câu sau:
Nhất phiến ngọc hồ
phân
lưỡng đọan,
Bán trầm thủy để,
bán
huyền không
(Ngọc bình một mảnh
chia
hai
Nửa lưng đáy nước,
nửa cài
trên không...)
Hai thầy trò sư cụ đã
hoàn
thành bài thơ tứ tuyệt “Vọng Sơ Nguyệt”. Sư cụ ngâm tràn bốn câu
thơ ngắm trăng non với nỗi cảm khoái dâng trào đầy thi vị trong đêm
khuya, nên đã sai chú tiểu lên chùa thỉnh một hồi đại hồng chung để
cúng dường Tam Bảo. Tiếng chuông lọt vào tai Trương Kế đang thao
thức với tâm trạng lòng buồn, thơ cạn... Tiếng chuông như điệu
kèn đam mê sâu đắm thoát ra từ cõi thơ. Hồn thơ của Trương Kế
tưởng như đã lụi tàn trong nỗi buồn “đối sầu miên” bỗng trỗi dậy khi
hốt nhiên từ ngoài thành Cô Tô, tiếng chuông chùa Hàn Sơn ngân nga vọng
lại. Ông lắng nghe tiếng chuông và chợt tỉnh. Tiếng chuông nửa
khuya vang lên rửa sạch lớp bụi trần gian của tâm thức đầy tục
lụy. Cảm nhận giải thoát đến từ tiếng chuông. Tiếng chuông
đến từ vô ngã. Một đời bôn ba trên trường khoa bảng của Trương Kế
đã bị tiếng chuông cuốn phăng vào quá khứ. Hiện hữu là một sự
tỉnh thức: Là tâm trạng thoát tục; là khách cửa thiền.
Nhà thơ bỗng cảm
thấy tâm hồn lâng lâng thoát tục và ý thơ từ đâu ùa vào như nước
lũ. Ông cầm ngay quản bút làm tiếp hai câu sau:
Cô Tô thành ngoại
Hàn Sơn
tự
Dạ bán chung thanh
đáo
khách thuyền
(Thành Cô Tô, chùa Hàn Sơn
Chuông khuya lay
động tâm
hồn thiền nhân)
Những câu chuyện văn
học nghệ
thuật xưa nay thường nói đến… “thoáng nhiệm mầu” (greatest moments) của
nghệ sĩ. Đấy là khi tràng hạt trân châu của nghệ thuật thình lình
từ “Trời” rơi xuống và người nghệ sĩ tài hoa bỗng dưng nắm bắt được –
sau những gian nan đợi chờ không giới hạn! Leonardo da Vinci bắt
gặp nét mỉm cười của Mona Lisa trên khung vẽ. Beethoven dừng lại
ở Dấu Lặng Tuyệt Vời trong Concerto số 5. Nguyễn Du bắt gặp Mầu
Quan San của rừng thu chia biệt… Trương Kế trên bến Phong Kiều đã bắt
gặp được cái thoáng chốc nhiệm mầu của sáng tạo. Thoáng xuất thần
thi vị ấy đã thổi phăng những uẩn khúc của chính ngã sở trong tâm thức
nghệ sĩ đang phủ lên mình tạo vật. Theo giới thiền môn thì Trương
Kế bị tắc nghẽn hồn thơ sau hai câu đầu là do cái tâm của thi nhân còn
đeo nặng nghiệp chướng của dòng đời đầy bi phẫn nên không thoát
được. Nhưng đối với một người cầm bút sáng tác văn chương – mà
nhất là người làm thơ – thì rõ ràng (hay ít lắm thì cũng là “rất có
thể”) Trương Kế bị chững lại vì đã dùng hết tuyệt chiêu diễn đạt bằng
ngôn ngữ tinh túy của thi ca khi ông điểm xuống một chữ “thần”
tuyệt tác, đó là chữ “miên”. Nếu chỉ là “đối sầu”
thì xưa nay đã có nhiều người nói đến trong thơ. Nhưng mà “đối
sầu miên” thì quả thật là tuyệt bút nên nhà thơ đã ngất lịm trong
thơ, không còn gì hơn đáng để nói nữa.
Khi nói đến hai câu
thơ đầu
của sư cụ chùa Hàn Sơn thì có người cho rằng, hai câu của sư cụ tả cảnh
trăng thượng huyền đã quá hoàn chỉnh. Nên sau sự viên mãn ấy,
dường như chẳng còn gì để nói nữa. Nhưng đối với một người mang
cái hồn phách lãng tử thi ca, người ta lại nghĩ khác về lý do “bí” của
sư cụ. Hai câu thơ tả cảnh trăng thượng huyền của sư cụ là hai
câu thơ tả cảnh tầm thường chẳng có bóng dáng nào của “thoáng nhiệm
mầu” mà một nghệ sĩ tàì hoa chân chính phải đợi trong bao nhiêu
năm. Cuối sự tầm thường thì thơ không còn bay xa được nữa.
Hai câu thơ khá hay trong bài “Vọng Sơ Nguyệt” là hai câu sau của chú
tiểu. Sư cụ không có được cái “thoáng niệm mầu” của nghệ sĩ như
Trương Kế nên phải dựa vào chú Tiểu mới... ra thơ. Trong khi đó,
Trương Kế “ngộ” trong thơ nên thơ không còn là phương tiện chuyển tải
cảm xúc mà thơ đã biến thành linh hồn của nhà thơ. Thơ, hồn thơ,
nhà thơ đã hòa quyện vào nhau chung hồn, chung phách.
Đốm lửa thơ đã đốt
cháy rụi
cánh rừng vô minh lạnh lẽo không thơ.
Thơ, từ đó ra đi và
không bao
giờ về lại, nên thế gian không có hai vần thơ tuyệt bút lập lại, giống
nhau. Trương Kế đã tìm được cho mình một thoáng nhiệm mầu của sáng tạo,
một đốm lửa thơ?
Trần Kiêm Đoàn
Sacramento, đầu Hè 07