*


2



Ẩn Dụ

Nhưng phải đến chót đời thì GCC mới hiểu ra được, trong ‘ẩn dụ’, trong “liên tưởng” - lấy cái này, để chỉ cái kia; cái này làm nhớ tới cái kia - còn có cái gọi là ‘nhân quả” của Phật Giáo: cái này, là nhân, cái kia, là quả, hay, ngược lại.

Gấu phát giác ra, cái gọi là lý thuyết nhân quả, trong ẩn dụ, trong liên tưởng, khi đi tù VC. Bỏ xứ Bắc Kít, lên tầu há mồm, ra Đệ Thất Hạm Đội, ở bên ngoài Vịnh Hạ Long, khi đang lênh đênh trên tầu há mồm, thằng cu Gấu nhà quê chưa từng đi biển, đã ói lên ói xuống, nhưng cũng cố nhìn lần chót kỳ quan Hạ Long Bay.
Vô Nam, ở nhà ông anh vợ, không hề biết đến kinh nghiệm những ngày ở khu lều tạm cư Phú Thọ. Đi học. Ra trường, đi làm. Chưa từng 1 ngày bị đói. Quên dần ám ánh đói, của xứ Bắc Kít.
Nhưng thế thì cũng thường thôi, và hình như là số phận chung của cả 1 thế hệ Bắc Kít di cư.
Phải đến khi đi tù VC, thì Gấu mới biết đến cái hạnh phúc thưởng thức đặc sản cao quý nhất của Miền Nam.
Thịt chuột.
Và để được thưởng thức nó, thì phải ăn cái món mầm đá đã!
Hà, hà!
Chắc bạn cũng biết câu chuyện Chúa Trịnh chờ xơi mầm đá, ninh hoài không chín, và trong khi chờ, đói mờ người, Trạng Quỳnh bèn dâng món ăn tạm, Chúa ăn ngon quá, khen nức nở, hỏi, món gì vậy. Thưa, Đại Phong.
Đại Phong, là gió to. Gió to thì đổ đình, đổ chùa. Đổ chùa thì tượng lo. Tượng lo, là lọ tương.
Để được ăn cái món thịt chuột đó, GCC cũng phải đợi, như Chúa Trịnh, có thể nói, từ lúc bò xuống Tầu Há Mồm, cho đến khi gặp lại đám bộ đội Bắc Kít vô giải phóng Sài Gòn, và đem trả lại cho Gấu cái ám ảnh đói ngày nào, rồi phải đợi đi tù VC....


Borges nhắc tới một cuốn bách khoa nào đó, ở xứ sở của Kim Dung, theo đó, loài vật được chia ra như sau: 

a/ thuộc về Hoàng Đế, b/ được tẩm nước thơm, c/ được thuần hóa, d/ heo sữa, e/ nhân ngư, f/ huyền hoặc, g/ chó thả rông, h/ ở trong bảng sắp xếp này, i/ cử động như người điên, j/ không thể đếm được, k/ được vẽ bằng một ngọn bút lông lạc đà thật mịn, l/v…v… và v… v, m/vừa đánh bể một cái bình, n/ ở xa trông như ruồi. 

Theo Foucault một bảng phân loại như thế đúng là thách thức lối tư duy của Tây phương. Làm sao có thể hiểu nổi những con vật không có gì giống nhau, lại ở cùng trong một bảng sắp xếp, ngoài cái trật tự abcd như trên? Trong khi tìm hiểu một trật tự như vậy, ông nhìn ra một điều: lịch sử của sự khùng điên sẽ là lịch sử của Kẻ Khác, lịch sử trật tự của những sự vật sẽ là lịch sử của Ta (Le Même). Và đối với văn minh Tây phương, lịch sử của Kẻ Khác – không phải lịch sử trật tự của những sự vật – bị coi là thứ yếu, xa lạ, và bị đẩy bật ra khỏi lịch sử của những Ta. Đây là lý do người điên bị tống vào tù, hoặc bị cưỡng bức lao động.

Vô Kỵ giữa chúng ta

Những phát giác quan trọng nhất, về thơ, của Jakobson, qua Roland Barthes, mà chúng ta có được:

Jakobson đã ôm lấy Văn chương bằng ba cách.
Trước tiên, ông tạo ra, ngay chính bên trong môn ngôn ngữ học, một bộ phận đặc biệt, "Thi học"; bộ phận này (và đây là điều mới mẻ trong việc làm của ông, phần đóng góp lịch sử của ông), ông không định nghĩa nó, từ Văn chương (như thể Thi học vẫn còn phụ thuộc vào 'thơ tính' hay vào 'thi ca'), nhưng từ nghiên cứu những nhiệm vụ của ngôn ngữ: mọi hành động nói (speech-act), nhấn mạnh tới hình dạng của thông điệp, là thơ; từ đó, ông có thể, "khởi từ vị trí ngôn ngữ học", gia nhập, tiếp nối những dạng thức sinh động nhất (và thường là đầy chất giải phóng), của Văn chương: quyền hàm hồ của nghĩa (meanings), hệ thay thế, system of substitutions, mã hình tượng, code of figures (ẩn dụ và hoán dụ, metaphor and metonymy)
.…

“nghĩa của ký" (a sign's meaning), chỉ là sự phiên dịch của nó (its translation) vào một ký hiệu khác, nó xác định "nghĩa", không "một lần rồi xong", nhưng là một mức độ "nghĩa" khác (which defines meaning not as a final signified but as "another" signifying level).
Món quà tuyệt vời
*

Những phát giác quan trọng, chúng ta cần, ở đây, là:
1. quyền hàm hồ của “nghĩa” [meaning].
2. nghĩa của một ký hiệu ở trong sự chuyển dịch của nó, vào một ký hiệu khác.

Thành thử, lấy thí dụ, khi Phạm Duy làm bản nhạc của ông, về lá diêu bông, và Hoàng Cầm nói, ông không hiểu lá diêu bông của tôi, như vậy không có nghĩa, PD hiểu sai HC.
Đã có sự chuyển dịch về nghĩa, ở ký hiệu 'lá diêu bông', chúng ta có thể nói như vậy. Đẩy thêm một mức, PD không có ý định "hiểu" Hoàng Cầm. Ông đẩy [chuyển dịch] lá diêu bông của Hoàng Cầm vào "hệ thay thế", là hệ âm nhạc, thí dụ.
Ông ban cho lá diêu bông một nghĩa mới, nghĩa âm thanh.
[Note: To K. Art2all nhân vụ Lá Bâng Khuâng].
Ẩn dụ mới về Lá Diêu Bông

Ẩn dụ, âm Hán-Việt, xuất phát từ chữ Hán: 隐 喻. Ẩn là bí mật, là giấu giếm. Dụ là tương tự, ví von. Còn được gọi là ám dụ . Cũng như ẩn, ám là giấu giếm, bí ẩn. Nói ẩn dụ hay ám dụ, nghe bí hiểm. Thực ra, ẩn dụ đơn giản chỉ có nghĩa là so sánh ngầm.
THT: Da Màu

Theo như thường dùng trong tiếng Việt, thì ẩn dụ là muốn nói đến từ metaphor.
Còn ám dụ, allegory.
Hai từ này, ở bên tiếng Anh, khác nhau.
Câu phán, "thực ra ẩn dụ chỉ có nghĩa là so sánh ngầm", theo GCC, nhảm.
Bởi vì ẩn dụ, như được biết, phải được coi như là một phép tu từ
.
Và như thế, thì đâu chỉ ẩn dụ là… so sánh ngầm. Tất cả mọi hình tượng tu từ thì đều là so sánh ngầm hết!

Note:

GCC sẽ viết tiếp về đề tài này, theo hướng sau đây:
Ẩn dụ như là 1 hình tượng tu từ
Ẩn dụ không phải là ám dụ.
Ẩn dụ vs Ảnh tượng.

Cùng lúc viết về Thơ, Bếp Lửa, Một Chủ Nhật Khác...  và TTT .

Ẩn dụ không phải là so sánh ngầm. Cái định nghĩa, ẩn dụ là 1 từ hoa nhờ đó lý trí áp dụng để chỉ vật này, cho vật khác, do 1 tính chất chung làm chúng sát gần nhau, theo GCC, đúng hơn.

Hơn nữa, ẩn dụ còn liên quan rất  nhiều tới liên tưởng. Nhìn cái này nhớ cái kia, thì đâu có phải là so sánh ngầm?
Nhất Linh tả cả 1 buổi trưa hè, Dũng nhìn qua hàng xóm, thấy 1 cánh áo trắng bay phấp phới trong nắng, thoạt đầu ngỡ ngàng tự hỏi, áo ai nhỉ, và bèn nhớ ra là áo của Loan, và bèn còn nhớ ra là Loan đi học Hà Nội, nghỉ hè, về quê, và còn ngộ ra là mình yêu Loan, cả 1 dẫy hình ảnh, ẩn dụ, ám dụ… như thế, đâu phải để…. so sánh ngầm?

Thực sự mà nói, THT không biết viết tiểu luận, một phần do cái sự ham đọc, ham trích dẫn… mà ra. Phô hàng ra nhiều quá, người đọc không làm sao chọn được hàng xịn. Một bài viết dài thòng, cuối cùng, nhảm.
Chỉ cần 1 hình ảnh thôi, 1 vision, cho 1 bài viết, là đủ.

Cả 1 chuỗi hình ảnh mà NL miêu tả trên, chỉ để tụ vào 1 hình ảnh: cánh áo trắng bay phất phơ gió, trong 1 buổi trưa hè xứ Bắc Kít, là một ẩn dụ, để "nói lên" cái giây phút mặc khải “anh yêu em”, của Dũng.

Someone loved me.
Someone was you!

Hà, hà!

Nhưng phải đến chót đời thì GCC mới hiểu ra được, trong ‘ẩn dụ’, trong “liên tưởng” - lấy cái này, để chỉ cái kia; cái này làm nhớ tới cái kia - còn có cái gọi là ‘nhân quả” của Phật Giáo: cái này, là nhân, cái kia, là quả, hay, ngược lại.

Gấu phát giác ra, cái gọi là lý thuyết nhân quả, trong ẩn dụ, trong liên tưởng, khi đi tù VC.

Ẩn dụ

Ẩn dụ đề nghị một nối kết, giữa hai sự vật.
Thi ca được trao cho thi sĩ. (Poetry is given to the poet).
Borges
*

Ẩn dụ trong thơ là nơi tập trung nhiều lớp ý nghĩa, là nơi mà ngôn ngữ ở trong tình trạng giàu có nhất của nó. Hình ảnh và ngôn ngữ giao hòa với nhau làm nên trung tâm của các biện pháp tu từ, gồm có sự so sánh, phép tượng trưng, nhân cách hóa, ẩn dụ… mà tôi gọi chung là phép ẩn dụ. Tôi cho rằng có một sự lẫn lộn (confusion) rất đáng tiếc của không ít người đọc hôm nay, trong số họ có cả những người sáng tác và những người yêu thơ, liên quan đến ẩn dụ mà chúng ta thử cùng nhau phân tích để làm sáng tỏ.
Nguyễn Đức Tùng: Đọc một bài thơ như thế nào.
*
Khi đọc Bếp Lửa của TTT, vào năm 1973, tôi có đi một đường phụ lục, scan lại sau đây, để chúng ta có một chút ý niệm về ẩn dụ là cái gì, và nó khác với ảnh tượng như thế nào. Và liệu có thể gọi chung tất cả các từ hoa, như trên vào chung một rọ ẩn dụ được không, và làm như có thể bị “lẫn lộn” chúng với nhau không. Liệu trăm hoa đều nở ra hoa ẩn dụ?

*
*
*