|
Bùi Ngọc Tấn
Người Chăn Kiến
Nhà văn Bùi
Ngọc Tấn được Pháp trao giải
Note: Bài
trên BBC. Có hai lỗi, Livre de poche, Vie de chien,
[không phải en]
[Mới vô BBC, 11.4.2012;
2h.40 local time, thấy sửa rồi, nhưng vờ cám ơn
GCC!
Cũng được!]
Cas Bùi Ngọc Tấn
Tôi viết về những
người cam chịu lịch sử
Nhìn một cách lạc quan,
thì đây cũng là quan điểm của W.G. Sebald, như Charles Simic viết về
ông, khi điểm cuốn Lịch sử tự nhiên của hủy diệt, [NYRB 27
Tháng Hai, 2003] và, còn điều này cũng thật lạ, là, cái làm cả hai gần
gũi, là chất thơ của họ, trong khi viết:
Bí
ẩn của lời thỉnh cầu [appeal] của Sebald, là ông coi ông như là một kẻ
lạc điệu lỗi thời, như là tiếng nói lương tâm của một người nào đó, nhớ
về những bất công, một người nào đó nói cho những kẻ không còn nói được
nữa.
Và nên nhớ là, chẳng có gì là “cường điệu” ở đây.
Ông viết như thể chẳng có điều quan trọng khiến 1 con người phải chú
tâm. Như bất cứ 1 người nào trong chúng ta, buồn buồn lôi 1 cuốn sử ra
đọc, cổ cũng như kim, và người đó đếch thấy thú vị gì hết [dismayed].
Chẳng có giải thích giải thiếc gì về những “chiến tranh thì là địa
ngục”, “con người ở chó đâu thì cũng chó như thế”, Ông đồng ý với 1 bà công
chúa Tẫu [the Dowager Empress of China], khi bà này phán trước khi
chết, là lịch sử chẳng gồm chi hết ngoài bất hạnh, và vào những ngày
này trên trái đất, chúng ta đếch có lấy 1 phút, thực sự thoát ra khỏi
sợ hãi [in our days on earth we never know one single moment that is
genuinely free of free]. Điều kỳ lạ - và điều này
còn là nhờ vào tài năng của Michael Hulse, người dịch Sebald qua tiếng
Anh - hiệu quả của những câu chuyện kể rùng rợn của Sebald thì rất đỗi
thơ, that the effect of his tales of horror is lyrical.
Sư phụ, khi chủ
nghĩa CS của chúng ta ngoạm được nước Pháp, chúng ta sẽ làm gì với
Joyce?
Gide,
sau một lúc suy tư, trả lời:
-Chúng
ta kệ mẹ ông ta.
«
Maître, quand nous aurons le communisme en France, que ferons-nous de
Joyce?».
Gide,
après une longue réflexion:
«Nous
le laisserons tranquille. »
Vừa
nhắc
tới ông Trùm Gorky, là thấy quan tài, là bèn nhỏ lệ (1).
(1)
Đây là văn chương chưởng: Mi chưa đi mưa chưa biết lạnh, chưa thấy quan
tài
chưa nhỏ lệ!
Hình:
Gide đọc ai điếu, trong đám táng Gorky,
tại Quảng Trường Đỏ.
*
Nói
chuyện
cam chịu lịch sử, và nổi tiếng nhờ nó, bảnh nhất, theo Gấu, là nhà văn
Anh gốc
Nhật, viết văn bằng tiếng Anh 'hách hơn Ăng lê', Kazuo Ishiguro,
tác giả Tàn
Ngày, Remains of the day,
được Booker Prize. Ông thuộc trào lưu những nhà văn trẻ bảnh của
Anh, gồm
Martin Amis, Salman Rushdie…
Trên số báo Le Magazine Littéraire,
April
2006, đặc
biệt về 'em' Duras, cô đầm ở xứ An Nam Mít, có bài phỏng vấn ông, do
Trần Minh
Huy thực hiện, ‘K.I., thời của hoài nhớ’, ‘K.I, chúng ta là những đứa
trẻ mồ côi’...
Khi được hỏi, sự thiếu vắng nổi loạn thật là rõ ràng
trong tất cả các tác phẩm
của ông, K.I. trả lời: "Đúng như thế, những nhân
vật như Stevens trong Tàn Ngày,
họ chấp
nhận những gì đời đem đến cho họ, và, bằng mọi cách, đóng trọn vai trò
cam chịu
lịch sử, thay vì nổi loạn, bỏ chạy… và cố tìm trong đó, cái gọi là nhân
phẩm,
chẳng bao giờ tra hỏi chế độ."
Cái gọi là nhân phẩm, bật ra từ Tàn
Ngày, và là chủ đề của cuốn tiểu thuyết đưa ông đài danh vọng,
và đã
được quay thành phim…
"Tôi
[K.I.] muốn
chứng minh sự can đảm của Stevens, nhân phẩm của anh ta, khi đối mặt
với cái điều, người ta đã làm hỏng đời của anh ta”.
K.I có một câu phán thật tuyệt, và thật đúng, nếu áp dụng vào "thời của
Gấu
và BHD":
Có một thứ hoài nhớ đếch mắc mớ gì tới Lịch Sử, mà tất cả
chúng ta đều cảm nhận được, những nhớ nhung về một thời mà chúng ta đều
ngây thơ, hơn cả... Chúa, khi chưa lên Ngôi.
Hình như nhà thơ Nguyễn Tất Nhiên có câu: Chúa khi chưa đắc đạo,
Phật khi chưa giác ngộ, chắc gì đã mê gái như ta?
Tuyệt!
Looking on a
Russian Photograph, 1928/1995
It's the
classic picture of doom. Three great poets stand together in 1928, the
Revolution just a decade old, their hearts and brains soon to be dashed
out on
the rocks of Russian fascism, the flower of their achievements destined
to be
crushed by the new czar, Stalin.
Eisenstein,
Mayakovski, Pasternak - each will die in his own tortured way.
Mayakovski,
rebuffed in love, imprisoned in Moscow, will kill himself in 1930, at
the age
of thirty-six. Eisenstein's broken heart will give out in 1948,
cherished projects
betrayed, the fifty-year-old filmmaker persecuted abroad and closely
watched at
home. Pasternak, long denied by his government, will finally survive
Stalin -
yet, when his magnum opus, Doctor Zhivago, earns him the Nobel Prize in
1958,
he will not be permitted to accept, his book burned, his name
excoriated in his
homeland.
But there
they stand in 1928, brave young hearts, frozen in triumph, the last
symbols of
a civilization about to go mad. Yet I find. myself thinking - how lucky
they
are, these three, able to experience lives of great crisis and choice.
Were
they not gifted with an energy that brought them each full-bore into
what
Justice Oliver Wendell Holmes called the "passion and peril of their
times"?
We shall all
lose, it is inevitable. The issue is how we lose, on what terms. These
three
men played out their lives across the dark landscape of a cursed
country, each
sought as a solace from a mad czar, who with quasi-Asiatic mind
tortured them
with the impossibility of reason.
I do not
seek such death. I choose the milder climes of the USA circa
the late twentieth century - although these times, less sinister
certainly than
Stalinist ones, may be equally dangerous-for what is in danger, in the
largest
sense, is the soul. And the soul that dies in its lifetime is the
sterile,
timid, cynical soul that is never tested by its time. Though tests too
can be
boredom. Luxury, television and the accelerating sameness of
information can be
far more ruthless than war or disease.
So I say-in
death, rest. There is much time later to sleep.
Until then
party - party hard, suffer hard. Live lives suffused with cycles of joy
and
sorrow. Participate above all in the travails of your time, as artists
your
shoulders equal to all working and struggling people, neither higher
nor lower
but equal to its spirit in its own time.
Vladimir
Mayakovski, Sergei Eisenstein, Boris Pasternak - I salute you.
- Oliver
Stone
The Paris
Review Winter 1995: Russian Portraits
Quái đản thật.
Ở cái xứ VC Niên Xô này, ngay cả những tay theo Đảng, phò Đảng thì cũng
bảnh, cực
bảnh, như bộ ba trên đây.
Vladimir
Mayakovski, Sergei Eisenstein, Boris Pasternak - Gấu Cà Chớn chào các
vị Thầy.
Ở cái xứ Bắc
Kít, toàn Kít!
Một
bức hình cổ điển về đọa đầy, trầm luân, bất hạnh…Ba nhà thơ lớn chụp
chung với
nhau vào năm 1928, Cách Mạng thì mới được 10 tuổi, tim và óc của họ sẽ
nát bấy
ra trên những hòn đá của phát xít Nga, bông hoa thành tựu sẽ bị nghiền
nát dưới
gót giầy của sa hoàng mới của Nga – Stalin.
Eisenstein,
Mayakovski,
Pasternak - mỗi
người một cái chết, mỗi người một cuộc tra tấn riêng. Mayakovski, bị cự
tuyệt
trong tình yêu, bị cầm tù tại Moscow, tự sát vào năm 1930, ở tuổi đời
36. Trái
tim bể của Eisenstein ngưng đập vào năm 1948, những đồ án nâng niu bị
phản bội,
nhà làm phim 53 tuổi bị truy đuổi bách hại khi ở hải ngoại, bị canh
trừng chặt
chẽ khi ở nhà. Pasternak,
đã từ lâu bị nhà cầm quyền của ông chối từ, sau cùng sống sót chế độ
Stalin –
tuy nhiên khi tuyệt tác của ông Bác Sĩ
Zhivago được trao Nobel, ông không được phép đi nhận giải, sách bị
đốt, tên
bị trà đạp bôi nhọ ở quê nhà.
Nhưng,
như bức hình cho thấy, ba nhà thơ đứng hiên ngang, vào năm 1928, ba
trái tim trẻ,
can đảm, đông lạnh trong chiến thắng, những biểu tượng sau cùng của 1
nền văn
minh trước khi nó trở thành khùng điên, ba trợn. Tuy nhiên, riêng tôi,
thì lại nhận
ra 1 điều,
họ mới hạnh phúc, may mắn biết bao, khi cả ba có thể kinh nghiệm những
cuộc khủng
hoảng lớn, và chọn lựa lớn.
Nhờ mấy
đấng
BVVC [Bạn Văn VC], Gấu Cà Chớn tìm lại được 1 thằng Gấu trẻ, phê bình
gia, tên
sa đích văn nghệ.
Đọc lại, GCC phát giác, có hai tên Gấu, một trẻ, một già, y
chang có hai Marx.
Gấu Trẻ hồi đó quả là quá mê Mác,1 Mác trong
trắng, ngây thơ, tươi
mát, chưa vướng 1 tí ác.
Một thứ Mác Xít như là 1 giấc mơ tuyệt vời của nhân loại,
qua những bậc thầy như Lukacs, Lefebvre…
Bài trên London Review nhìn
lại cụ Mác, khi cụ thọ 193 tuổi.
Đọc loáng thoáng thấy OK, để
coi coi…
Tôi viết về những
người cam chịu lịch sử
Note: Đây
là thứ lịch sử "của đám đông" mà Cao Hành Kiện rất tởm.
Cũng là thứ lịch sử mà cả một đất, Miền Nam, "cam chịu", cho dù cuộc
chiến đã chấm dứt, để có được sự phát sinh ra con bọ VC.
*
Tôi muốn đề
cập đến một mặt khác của chiến tranh, chính xác hơn là nói đến
những người tham gia chiến tranh một cách đặc biệt, chưa từng được nhắc
đến
trong các cuộc tổng kết, các buổi hội thảo, những người tham gia chiến
tranh
bằng việc đi tù. Những người đóng góp vào cuộc chiến không phải bằng
sinh mạng
của mình mà bằng tự do của mình. Với kinh nghiệm sống trong một đất
nước liên
tiếp có những cuộc chiến tranh, tôi hiểu chiến tranh không chỉ đến một
mình.
Bao giờ nó cũng có một người bạn đồng hành: Nhà tù. Đó là người anh em
sinh đôi
của chiến tranh.
Trong chiến tranh, việc gìn giữ hậu phương là vô cùng quan trọng. Hậu
phương là
gốc rễ, là cội nguồn, là căn cứ bảo đảm sống còn cho tiền tuyến, cho
chiến đấu
và chiến thắng.
Khẩu hiệu: Dù phải đốt cháy dẫy Trường Sơn cũng vẫn chiến đấu tới thắng
lợi
hoàn toàn đã thể hiện rõ quyết tâm của miền Bắc giành chiến thắng bằng
bất kỳ
giá nào. Sự có mặt của 50 vạn sĩ quan và binh lính Mỹ cùng quân đội các
nước
đồng minh như Nam Triều Tiên, Úc,... tại miền Nam Việt Nam đã đẩy miền
Bắc Việt
Nam vào những năm tháng cực kỳ gay go gian khổ: Dốc toàn bộ nhân lực,
vật lực,
hy sinh tất cả cho cuộc chiến.
Trong cuộc chiến tranh khốc liệt
này, miền Bắc thực hiện chủ trương pha lê hoá
hậu phương. Những người đã từng cộng tác với Pháp, với Mỹ, những người
có biểu
hiện thiếu lòng tin vào sự lãnh đạo của đảng Cộng Sản, những phần tử
đáng ngờ,
những kẻ trộm cắp, du thủ du thực,... tóm lại tất cả những gì là vẩn
đục so với
yêu cầu trong như pha lê của một xã hội cần pha lê hoá, đều bị tập
trung cải
tạo và đó được coi là một biện pháp không thể thiếu. Hơn nữa, nó còn có
ý nghĩa
răn đe những người khác, hướng tất cả vào mục tiêu chung.
BNT
Chưa từng có
những dòng biện minh nào tởm lợm hơn, cho tính thú vật của một chế
độ toàn trị, như là những dòng trên. NQT
*
Và, ai cho
anh cái quyền viết về những người cam chịu lịch sử đó?
Quít làm,
Cam chịu
Nhạc sĩ Tô Hải (1)
Trên blog của
tôi, tôi đã bớt hèn để bộc lộ tâm trạng của mình trong bài viết “Ði
Thăm Giàu Hỏi
Sướng.” Tôi vào Sài Gòn sau năm 1975, cả gia đình tôi đã đi Mỹ, y như
tôi về Hà
Nội năm 54, cả gia đình lúc bấy giờ đã di cư vào Nam. Tôi không đến nỗi
như cô
Dương Thu Hương khi vào Sài Gòn thấy mình bị lừa nên ngồi xuống lề
đường bật
khóc; mà tôi đã biết trước đây không phải là một cuộc chiến tranh chống
xâm lược
như thời chống Pháp, và xã hội miền Nam không như đảng tuyên truyền là
bị o ép,
nghèo khổ, cho nên khi vào Sài Gòn, biết gia đình đã đi Mỹ, tôi mừng
quá. Vừa
nhớ thương bố mẹ, anh em, nhưng tôi mừng vô cùng thấy cả nhà đã đi
thoát. Nếu ở
lại thì đi tù “mút mùa” (sic). Không phải riêng tôi, nhiều anh em khác
ở ngoài
Bắc vào cũng mang tâm trạng như thế. Tôi thấy xã hội miền Nam rất tự
do, tôi thấy
lối sống tự do của anh em cầm bút trong Nam mà thèm quá. Các ông nhà
văn miền
Nam lúc nào cũng đàng hoàng, hoàn toàn tự do sáng tác không cần phải
phục vụ
ai; dân chúng sống thoải mái, buôn bán tự do, hàng hóa đầy đường; dân
chúng
nông thôn tha hồ chim trên trời, cá dưới nước, chẳng bao giờ phải lo
lắng như
dân miền Bắc.
Tôi vui khi
thấy miền Nam như thế nhưng lo vì sợ đảng và nhà nước lại làm cải cách
ruộng đất,
lại tiến hành đấu tố, lại làm các thứ khác... thì khổ cho dân miền Nam.
Nhưng
may là những gì miền Bắc từng chịu đựng thì miền Nam chỉ gánh chịu một
nửa
thôi. Tôi nói một nửa vì cũng có cải tạo công thương nghiệp, cũng bắt
dân đi
kinh tế mới, nhưng không bị cảnh chết người, vợ chồng con cái anh em
đấu tố
nhau như ngoài Bắc. Cho nên có một số người miền Nam cứ ghét chung
người miền Bắc
thì tôi cho đó là một sự sai lầm, vì ngoài Bắc chịu ách Cộng Sản kinh
khiếp hơn
dân miền Nam nhiều. Dân Bắc khổ, khổ cả tinh thần lẫn vật chất, khổ
không còn bút
mực nào tả xiết. Vì có kinh nghiệm với Cộng Sản, nên khi một số anh em
đến thăm
tôi sau 75 như Phạm Ðình Chương, tôi bảo anh ấy tìm đường đi đi. Tôi
khuyến
khích tất cả bà con họ hàng anh em ai có cơ hội thì nên vượt biên hết
đi.
Đọc, rồi so
sánh với nhà văn phục sinh cam chịu lịch sử, thì mới hỡi ơi, về cái giá
của cái
vé đi Mẽo của ông.
Do không
rành văn học Xô Viết, nhất là thứ ngoài luồng, cho nên nhà văn phục
sinh BNT
không hề biết rằng, tình trạng pha lê hóa ở Liên Xô khủng khiếp đến mức
như thế
nào. Nữ thần thi ca Nga, Akhmatova, đã từng cay đắng thốt lên, thời
gian
Leningrad bị vây hãm, đây là những giây
phút tuyệt vời của dân Nga, nhờ Nazi mà có được, theo nghĩa, đám "đục
ngầu"
cũng được coi là thành phần yêu nước: Nazism had turned slaves into
patriots.
Con trai của Bà, nhờ Nazi nên được thả và chiến đấu trong tiểu đoàn
trừng giới,
và chỉ bị bắt lại sau khi chiến tranh chấm dứt.
Quít làm, Cam chịu
Sói với Người
Chắc là nhà
văn phục sinh BNT chưa từng đọc về chủ trương pha lê hóa tại đất nước
của Gấu Mẹ
Vĩ Đại, xin post ở đây một chương trong Cuộc đời Solz của D.M. Thomas,
liên
quan đến cú làm sạch cỏ, pha lê hóa đám bần cố nông Ku Lắc.
Robert
Conquest begins his powerful and passionate book The Harvest of Sorrow with
this devastating summary:
"Fifty
years ago as I write these words, the Ukraine and the Ukrainian,
Cossack and
other areas to its east -a great stretch of territory with some forty
million
inhabitants-was like one vast Belsen. A quarter of the rural
population, men,
women and children, lay dead or dying, the rest in various stages of
debilitation with no strength to bury their families or neighbors. At
the same
time (as at Belsen), well-fed squads of police or party officials
supervised
the victims."
[Robert
Conquest mở ra Mùa Gặt Buồn
bằng những dòng đau thương sau đây: Năm mươi năm
trước đây khi tôi viết những dòng này, cả một vùng đất bạt ngàn với
chừng 40
triệu cư dân thì chẳng khác gì trại tù Belsen của Nazi. Chừng ¼ đàn bà
trẻ con
nằm chết hay chờ chết. Số còn lại thì chẳng còn sức lực, dù để chôn họ,
dưới
con mắt trông chừng của đám viên chức và cảnh sát mập mạp].
*
Vasily
Grossman, a Jew who also wrote powerfully about the Holocaust, has
described a
typical departure scene:
From our
village ... the "kulaks" were driven out on foot. They took what they
could carry on their backs: bedding, clothing. The mud was so deep it
pulled
the boots off their feet. It was terrible to watch them. They marched
along in
a column and looked back at their huts, and their bodies still held the
warmth
from their own stoves. What pain they must have suffered! After all,
they had
been born in those houses; they had given their daughters in marriage
in those
cabins. They had heated up their stoves, and the cabbage soup they had
cooked
was left there behind them. The milk had not been drunk, and smoke was
still
rising from their chimneys. The women were sobbing-but were afraid to
scream.
The Party activists didn't give a damn about them. We drove them off
like
geese. And behind came the cart, and on it were Pelageya the blind, and
old
Dmitri Ivanovich, who had not left his hut for ten whole years, and
Marusya the
Idiot, a paralytic, a kulak's daughter who had been kicked by a horse
in
childhood and had never been normal since.
Some, taken
to the far Siberian North, were shipped down the great rivers by raft,
and were
mostly lost in the rapids. Imagine a man, woman, and two or three
children,
plucked from the mild Kuban, hurtling down the icy, wild Yenisei.
But we
should steel ourselves against bourgeois compassion. Or so argued Ilya
Ehrenburg, writing as Robert Conquest says with "exceptional
frankness" in a novel of 1934. "Not one of them was guilty of
anything; but they belonged to a class that was guilty of everything."
Ilya
Ehrenburg phán: "Chẳng có ai trong số họ có tội, nhưng họ thuộc một
giai cấp
có tội."
Tôi viết cho
những người cam chịu lịch sử.
Nhìn một cách
lạc quan, thì đây cũng là quan điểm của W.G. Sebald, như Charles Simic
viết về ông,
khi điểm cuốn Lịch sử tự nhiên của hủy diệt,
[NYRB 27 Tháng Hai, 2003] và, còn điều này cũng thật lạ, là, cái làm cả
hai gần
gũi, là chất thơ của họ, trong khi viết:
Bí ẩn của lời
thỉnh cầu [appeal] của Sebald, là ông coi ông như là một kẻ lạc điệu
lỗi thời,
như là tiếng nói lương tâm của một người nào đó, nhớ về những bất công,
một người
nào đó nói cho những kẻ không còn nói được nữa.
Và nên nhớ là,
chẳng có gì là “cường điệu” ở đây.
Ông viết như
thể chẳng có điều quan trọng khiến 1 con người phải chú tâm. Như bất cứ
1 người
nào trong chúng ta, buồn buồn lôi 1 cuốn sử ra đọc, cổ cũng như kim, và
người đó
đếch thấy thú vị gì hết [dismayed]. Chẳng có giải thích giải thiếc gì
về những “chiến
tranh thì là địa ngục”, “con người ở chó đâu thì cũng chó như thế”, Ông
đồng ý với
1 bà công chúa Tẫu [the Dowager Empress
of China], khi bà này phán trước khi chết, là lịch sử chẳng gồm chi hết
ngoài bất
hạnh, và vào những ngày này trên trái đất, chúng ta đếch có lấy 1 phút,
thực sự
thoát ra khỏi sợ hãi [in our days on earth we never know one single
moment that
is genuinely free of free]. Điều kỳ lạ -
và điều này còn là nhờ vào tài năng của Michael Hulse, người dịch
Sebald qua tiếng
Anh - hiệu quả của những câu chuyện kể rùng rợn của Sebald thì rất đỗi
thơ,
that the effect of his tales of horror is lyrical.
Nhờ mấy đấng
BVVC [Bạn Văn VC], Gấu Cà Chớn tìm lại được 1 thằng Gấu trẻ, phê bình
gia, tên
sa đích văn nghệ.
Đọc lại, GCC phát giác, có hai tên Gấu, một trẻ, một già, y
chang có hai Marx.
Gấu Trẻ hồi đó quả là quá mê Mác,1 Mác trong
trắng, ngây thơ, tươi
mát, chưa vướng 1 tí ác.
Một thứ Mác Xít như là 1 giấc mơ tuyệt vời của nhân loại,
qua những bậc thầy như Lukacs, Lefebvre…
Bài trên London Review nhìn
lại cụ Mác, khi cụ thọ 193 tuổi.
Đọc loáng thoáng thấy OK, để
coi coi…
Nói đến Bùi
Ngọc Tấn, không ai không nhắc đến tác phẩm Chuyện kể năm 2000. Đó là một tự sự
của nhân vật Nguyễn Văn Tuấn (không dính dáng gì đến người đang viết
những dòng
này), người bị tù đày suốt 5 năm trời (từ 1968 đến 1973) vì lí do rất
vớ vẩn.
Những sáng tác hay thường xuất hiện từ những thời kì đau khổ, và thời
gian 5
năm tù đày cũng là giai đoạn để nhà văn tích tụ đau khổ thành chữ. Chữ
của tác
giả trong giai đoạn đau khổ này mang đậm tính nhân văn và bình thản một
cách lạ
lùng. Nhiều hồi kí “cải tạo” của các sĩ quan và quan chức miền Nam kể
lại những
cực hình và nhục hình trong nhà tù, thường với giọng văn mạnh, thù hằn,
hoặc mỉa
mai. Nhưng Chuyện kể năm 2000
thì hoàn toàn khác. Bằng một giọng văn
nhẹ nhàng,
chậm rãi, như độc thoại, tác giả thuật lại những bi kịch trong trại tù
làm cho
chúng ta có khi phải cười ra nước mắt. Không có mỉa mai, cũng chẳng có
hằn học
hay hận thù trong câu chuyện của tác giả. Nhà văn tâm sự rằng ông chỉ
muốn là
người “thư kí, là người chép sử của thời đại”. Chuyện kể năm 2000 là
một bộ chứng
từ của một chứng nhân cần lưu giữ lại cho thế hệ sau. Tác giả so sánh
rằng Nhà
văn Vũ Thư Hiên với Đêm giữa ban ngày
chỉ ra những ai đã đẩy gia đình ông vào cảnh
tù đày, còn ông (Bùi Ngọc Tấn) là chỉ ra toàn bộ cơ chế đã sản sinh ra
những bất
công xã hội.
NVT: Diễn
Đàn Thế Kỷ
Tác giả bài
viết so sánh nhảm thật.
BNT là quản
ngục đi tù, khác 1 thằng Ngụy đi tù.
Chính BNT
còn nhận ra điều trên, khi viết, tôi có phần đóng góp xây dựng cái nhà
tù sau
đó nó nhốt tôi.
Ông có lần
còn cám ơn nhà tù VC, nhờ chính sách
"thanh lọc" của nhà nước, nhốt ông vô tù, cùng tất cả nhũng thành phần
chống đối
chế độ, mà có được một hậu phương thành đồng là Miền Bắc, nhờ vậy mà
chiến thắng
Miền Nam.
Khen BNT như
thế là… làm nhục ông.
Thơ Ở Đâu Xa, Ta Về, Tôi Cùng Gió Mùa…
đều là “hồi
ký” cải tạo cả đấy.
Bạn NVT đọc
thử coi có dòng nào “mạnh, thù hằn, hoặc mỉa mai”?
Vả chăng,
làm sao BNT có thể “thù hằn, mỉa mai”?
Và, làm sao
có thể phán “nhảm”, là BNT đi tù vì lý do "dớ dẩn"?
Ông BNT đi
tù vì tội Chống Đảng. Đây là 1 cú tranh ăn lẫn nhau giữa VC, làm sao… dớ dẩn được?
Có thể BNT
không nghĩ là mình “tranh ăn” với đám đang cầm quyền, nhưng chúng phải
nghĩ như
thế, mới bỏ tù đồng chí của chúng, là ông.
Tình trạng
này vẫn đang tiếp diễn, khi VC bắt "dớ dẩn" những người đòi hỏi dân
chủ.
NQT
"Chuyện Kể Năm 2000": Cái Đẹp và Con Thú
Tác giả
so sánh
rằng Nhà
văn Vũ Thư Hiên với Đêm giữa ban ngày
chỉ ra những ai đã đẩy gia đình ông vào cảnh
tù đày, còn ông (Bùi Ngọc Tấn) là chỉ ra toàn bộ cơ chế đã sản sinh ra
những bất
công xã hội.
Đâu có đơn
giản như thế.
NQT
Nhà văn tâm
sự rằng ông chỉ muốn là người “thư kí, là người chép sử của thời đại”.
Đâu có dễ, 1
việc làm như vậy.
Sử nào?
Sử Ngụy hay sử VC?
NQT
Đâu là cái đẹp, đâu là con thú?
Đường ra trận/đi tù mùa
này đẹp lắm:
Những đoạn
hay nhất trong Chuyện Kể Năm 2000,
kể cảnh sáng sớm tù đi làm!
Đây là một
tác phẩm văn
chương trác tuyệt, như nhận xét của một tác giả. Lạ nhất, khó hiểu
nhất, chính
là từ "trác tuyệt". Với Đêm Giữa
Ban Ngày, người đọc hải ngoại tá hoả vì những phát giác ghê tởm, về
một ông
Hồ và bà vợ của ông, về một Trần Quốc Hoàn… nên quên đi vẻ đẹp của một
bông hồng
khư khư cầm trong tay… Người đọc khóc cho những thân phận tù đầy, ra
khỏi tù chỉ
mong được trở lại, nên quên đi những dòng thơ cách mạng trác tuyệt ở
trong CKN
2000.
Nghịch lý là
ở chỗ đó: đâu
là cái đẹp, đâu là con vật? Người đọc có thể chịu đựng được những chi
tiết độc,
ác, những sự kiện tàn nhẫn trong văn Nguyễn Huy Thiệp; người đọc có thể
thông cảm
với giọng đanh đá, thái độ "dù có rũ bụi tôi cũng không dám làm
quen", và khẳng định, "thế hệ tôi quả không uống giọt sữa nào, bút
không chấm giọt mực nào của tiền chiến" của Phạm Thị Hoài. Người đọc
trân
trọng một giọng nói tuy mệt mỏi nhưng không chịu bị bẻ gẫy của một vầng
trăng
goá, như trong một truyện ngắn của Lê Minh Hà; nhưng giọng văn đầy ắp
yêu
thương, quá khỏe mạnh, đầy niềm tin vào con người, ở CKN 2000, làm
người đọc khựng
lại: liệu vẫn có thơ, sau (trại tù) Tân Trào? Liệu vẫn có thơ sau những
vần
thơ, mà "cũng như hắn, Phương thích mấy câu thơ của Maia:
Tôi sẽ giơ cao tờ
chứng minh thư Đảng
Là toàn tập thơ bônsêvích tôi làm"?
(CKN 2000, trang 106)
Cái giải thưởng
của Tây ban cho BNT, theo Gấu, chẳng liên quan tới văn chương, vì cứ
đọc mấy câu
phát biểu của cái anh Tây mũi tẹt, người dịch tác phẩm của ông qua
tiếng Tây, là
có thể suy ra được tính văn học của nó, nhưng, có thể, liên quan tới
cái gọi là
“tư duy biển” của VC. (1)
V/v BTN giải
thích và cám ơn VC cho ông đi tù.
Ông dùng chữ
“pha lê hóa” xã hội Miền Bắc, nghĩa làm cỏ, đưa đi tù… những thành phần
chống Đảng,
trộm cắp, đĩ điếm… nhờ vậy chiến thắng cuộc chiến.
Riêng đối với tôi, sự kiện
cùng TCS hát bài Nối vòng tay lớn vào trưa ngày 30/4/1975 tại
đài phát
thanh Sài Gòn không những có một ý nghĩa đặc biệt đón chào ngày hòa
bình thống
nhất đất nước mà cũng đánh dấu bước khởi đầu cuộc hành trình mới sau
chiến
tranh của thế hệ chúng tôi trong công cuộc làm lành vết thương chiến
tranh, hòa
giải dân tộc.
Nguyễn Hữu
Thái
Câu kết
bài viết, trên đây, của tay này, đúng là “xì tai” của “Người đi trên
mây”!
Bởi vì ngày 30 Tháng Tư mở ra vết thương hậu chiến tranh, còn khủng
khiếp hơn
nhiều, so với vết thương chiến tranh!
Vết thương chiến tranh, dù thế nào, còn có “cái lý” của nó.
Vết thương hậu chiến tranh chỉ bầy ra sự vô lý, cái độc, cái ác, cái
phi nhân.
Hận thù bắt đầu từ 30 Tháng Tư, không phải trước đó.
Trước đó, nếu có, thì cũng ba thứ hận thù lẻ tẻ, giữa đám lính chiến,
giữa
những người bắt buộc phải cầm súng.
Sau 30 Tháng Tư, càng không súng, càng căm thù!
Viết kiểu này, mũi lõ gọi là viết một ‘lửa’ sự thực!
Đọc bài viết
của tay NVT trên Diễn Đàn Thế Kỷ, thì GCC nhận ra "sự thực lịch sử":
VC là số 1.
Đi tù cũng số 1.
Bảnh hơn Ngụy rất nhiều: nhân bản và bình thản 1 cách lạ lùng!
Bỏ qua. (1)
Tôi sẽ cố gắng nói tới
những quyển sách mà tôi biết là rất dễ bị độc giả bỏ
qua. Ở Việt Nam
dần dần tôi nhận ra hết sức rõ ràng, sách vớ vẩn thì nhiều người đọc và bàn luận xôn xao, sách thực sự có giá trị thì ma
nó đọc. Cái
đó là một fact, và xét cho cùng cũng dễ hiểu ở
cái kiểu
xã hội như thế này.
+ Những bài dã sử Việt của Tạ Chí Đại Trường. Đã tới quyển thứ ba của
TCĐT in ở
ViệtNam rồi
mà gần như không được ai nhắc đến, giới sử học cũng như ngoài giới sử
học. Tệ hại
thật. Tôi đang nghĩ sẽ làm một cái gì đó: để một sử gia chân chính hiếm
hoi như
thế này rơi tõm vào sự thờ ơ thì dù mình chẳng liên quan cũng thấy xấu
hổ ngượng
đỏ cả mặt và một số thứ khác.
+ Biển và
chim bói
cá,
tiểu thuyết của Bùi Ngọc
Tấn.
Nó
không chìm lấp hẳn nhưng có vẻ như người ta rất ngại nhắc đến tên BNT.
Sau Chuyện
kể năm 2000 mà vẫn viết thêm được một tiểu thuyết như thế này, thực sự
không hề
dễ dàng.
+ Đặc biệt là tập truyện ngắn Chuyện xưa, kết đi, được chưa? của Bảo
Ninh (NXB
Văn học, 2009).
Blog Nhị Linh.
Cái sự bỏ qua này, mỗi trường hợp mỗi khác, và
đều có lý
do của nó. Và bỏ qua như thế, là may cho cả ba.
1. TCDT: Đám ‘sử gia’ trong nước không chịu nổi ông, cả về thanh
danh, về
đường lối, cách tiếp cận lịch sử, và trên tất
cả, vờ cho
mày là phúc cho mày đấy, bởi vì nếu nhắc, làm sao bỏ qua quá khứ sĩ
quan Ngụy của
ông?
2. Bùi Ngọc
Tấn. Nếu viết, là phải nhắc tới
CKN2000. Hơn nữa, thằng cha tù
này lại khui đống cứt thời tem phiếu chẳng ai thèm nhắc tới nữa!
3. Bảo Ninh. Khép lại cuộc chiến thần thánh? No, pas encore!
Về Bảo Ninh, khép lại, ở đây, còn là một quyết định khép lại Nỗi Buồn
Chiến
Tranh, để hy vọng viết tiếp.
4. Về Biển và
Chim.
Tin Văn tính lèm bèm vài đường, nhưng đọc Quít làm Cam chịu, thế là tịt
ngòi!
Quít làm,
Cam chịu
[Lịch sử]
Tôi viết về
những người cam chịu lịch sử
|