*





















 
 

**

Naipaul's Book of the World
Hilary Mantel

Trong cuốn "Nhà văn và Thế giới", có bài diễn thuyết của Naipaul, Nền văn minh phổ cập của chúng ta, “Our Universal Civilization”, tại Học Viện Manhattan, NY. TV sẽ giới thiệu, vì nó liên quan tới vấn nạn khủng bố, và cùng với nó, như 1 đối trọng, “bịnh Tây Phương”, a “Western disease”. Ngoài ra TV sẽ giới thiệu bài Naipaul viết về cuốn sách thân cận với ông nhất, Ngôi nhà cho me-xừ [A House for Mr.] Biswas. Bài này cho Mít chúng ta thấy, có 1 cách viết khác hẳn chúng ta thường viết, do bị ảnh hưởng của Tẩy, belles lettres, văn là phải đẹp.

Bài trong sách, dài hơn nhiều, so với bài trên net, và được ghi là Postscript: Our Universal Civilization.

Our Universal Civilization
Đúng hơn, là bài này:

Our Universal Civilization

Sir V.S. Naipaul 

On October 30, 1990, V S. Naipaul, considered by many to be the greatest living English language novelist, delivered the fourth annual Walter B. Wriston lecture in Public Policy, sponsored by the Manhattan Institute. Mr. Naipaul takes as his subject the “universal civilization” to which the Western values of tolerance, individualism, equality, and personal liberty have given birth. He describes the personal and philosophical turmoil of those who find themselves torn between their native civilizations and the valued of universal civilization. We are pleased to present his remarks here in full.

Diễn văn Nobel

Naipaul Page


Ghi chú về 1 giọng văn: Naipaul

Typical sentence

Easier to pick two of them. What’s most typical is the way one sentence qualifies another. “The country was a tyranny. But in those days not many people minded.” (“A Way in the World”, 1994.)

Câu văn điển hình:

Dễ kiếm hai câu, điển hình nhất, là cái cách mà câu này nêu phẩm chất câu kia:
"Xứ sở thì là bạo chúa. Nhưng những ngày này, ít ai "ke" chuyện này!"

Naipaul rất tởm cái gọi là quê hương là chùm kế ngọt của ông. Khi được hỏi, giá như mà ông không chạy trốn được quê hương [Trinidad] của mình, thì sao, ông phán, chắc nịch, thì tao tự tử chứ sao nữa! (1)

Tuyệt.

(1)

INTERVIEWER

Do you ever wonder what would have become of you if you had stayed in Trinidad?

NAIPAUL

I would have killed myself. A friend of mine did-out of stress, I think. He was a boy of mixed race. A lovely boy, and very bright. It was a great waste.

Sir V.S. Naipaul (1932- ): Nobel văn chương 2001

“Con người và nhà văn là một. Đây là phát giác lớn lao nhất của nhà văn. Phải mất thời gian – và biết bao là chữ viết! – mới nhập một được như vậy.”
 (Man and writer were the same person. But that is a writer’s greatest discovery. It took time – and how much writing! – to arrive at that synthesis)
 V.S. Naipaul, “The Enigma of Arrival”

Trong bài tiểu luận “Lời mở đầu cho một Tự thuật” (“Prologue to an Autobiography”), V.S. Naipaul kể về những di dân Ấn độ ở Trinidad. Do muốn thoát ra khỏi vùng Bắc Ấn nghèo xơ nghèo xác của thế kỷ 19, họ “đăng ký” làm công nhân xuất khẩu, tới một thuộc địa khác của Anh quốc là Trinidad. Rất nhiều người bị quyến rũ bởi những lời hứa hẹn, về một miếng đất cắm dùi sau khi hết hợp đồng, hay một chuyến trở về quê hương miễn phí, để xum họp với gia đình. Nhưng đã ra đi thì khó mà trở lại. Và Trinidad tràn ngập những di dân Ấn, không nhà cửa, không mảy may hy vọng trở về.
Vào năm 1931, con tầu SS Ganges đã đưa một ngàn di dân về Ấn. Năm sau, trở lại Trinidad, nó chỉ kiếm được một ngàn, trong số hàng ngàn con người không nhà nói trên. Ngỡ ngàng hơn, khi con tầu tới cảng Calcutta, bến tầu tràn ngập những con người qui cố hương chuyến đầu: họ muốn trở lại Trinidad, bởi vì bất cứ thứ gì họ nhìn thấy ở quê nhà, dù một tí một tẹo, đều chứng tỏ một điều: đây không phải thực mà là mộng.

Ác mộng. 

“Em ra đi nơi này vẫn thế”. Ngày nay, du khách ghé thăm Bắc Ấn, nơi những di dân đợt đầu tiên tới Trinidad để lại sau họ, nó chẳng khác gì ngày xa xưa, nghĩa là vẫn nghèo nàn xơ xác, vẫn những con đường đầy bụi, những túp lều tranh vách đất, lụp xụp, những đứa trẻ rách rưới, ngoài cánh đồng cũng vẫn cảnh người cày thay trâu… Từ vùng đất đó, ông nội của Naipaul đã được mang tới Trinidad, khi còn là một đứa bé, vào năm 1880. Tại đây, những di dân người Ấn túm tụm với nhau, tạo thành một cộng đồng khốn khó. Vào năm 1906, Seepersad, cha của Naipaul, và bà mẹ, sau khi đã hoàn tất thủ tục hồi hương, đúng lúc tính bước chân xuống tầu, cậu bé Seepersad bỗng hoảng sợ mất vía, trốn vào một xó cầu tiêu công cộng, len lén nhìn ra biển, cho tới khi bà mẹ thay đổi quyết định.

Duyên Văn
1 2

Chính là nỗi đau nhức trí thức thuộc địa, chính nỗi chết không rời đó, tẩm thấm mãi vào mình, khiến cho Naipaul có được sự can đảm để làm một điều thật là giản dị: “Tôi gọi tên em cho đỡ nhớ”.

Em ở đây, là đường phố Port of Spain, thủ phủ Trinidad. Khó khăn, ngại ngùng, và bực bội – dám nhắc đến tên em – mãi sau này, sau sáu năm chẳng có chút kết quả ở Anh Quốc, vẫn đọng ở nơi ông, ngay cả khi Naipaul bắt đầu tìm cách cho mình thoát ra khỏi truyền thống chính quốc Âu Châu, và tìm được can đảm để viết về Port of Spain như ông biết về nó. Phố Miguel (1959), cuốn sách đầu tiên của ông được xuất bản, là từ quãng đời trẻ con của ông ở Port of Spain, nhưng ở trong đó, ông đơn giản và bỏ qua rất nhiều kinh nghiệm. Hồi ức của những nhân vật tới “từ một thời nhức nhối. Nhưng không phải như là tôi đã nhớ. Những hoàn cảnh của gia đình tôi quá hỗn độn; tôi tự nhủ, tốt hơn hết, đừng ngoáy sâu vào đó."

NOTES ON A VOICE: V.S. NAIPAUL

In this third instalment of our series on what makes distinctive writers distinctive, Robert Butler tackles V.S. Naipaul on the eve of his 31st book

From INTELLIGENT LIFE Magazine, Autumn 2010

V.S. Naipaul was born in Trinidad in 1932, when literacy among Indian men on the island stood at 23%. Naipaul’s father had taught himself to read and write and became a journalist for the Trinidad Guardian. He gave his son the idea of the writer’s life and the idea that it was a noble calling. The young Vidia slept on the verandah, where the varied life of Port of Spain, captured in his first book “Miguel Street” (1959), “unrolled every day in front of my eyes”. The conditions that made his literary ambitions so raw and improbable also gave Naipaul his unique perspective. His early exposure to Trinidad’s diverse population—Africans, East Indians, Venezuelans, Chinese, Portuguese, Americans, Syrians and Lebanese—ensured that he wouldn’t sentimentalise other cultures. This gift was immeasurably deepened by his travels in South America, Africa, India, Pakistan, Iran and South-East Asia.

Naipaul attaches equal value to his fiction and non-fiction and has mastered (as the Nobel committee said) a form of writing that combines the two. His 31st and latest book, “The Masque of Africa” (out now in Britain, and in October in America), sees this tireless observer return, albeit in a slightly more leisurely style (“we went in his ambassador’s car”), to a continent he first visited 44 years ago.

Golden rule

After university, Naipaul decided the way he had written undergraduate essays was not “proper writing”. He set himself the task of learning to write all over again, this time using only simple direct statements. “Almost writing ‘the cat sat on the mat’. I almost began like that.” For three years he stayed with those rules. He recently provided a list of seven rules for beginners at the request of an Indian newspaper: (1) write sentences of no more than ten to 12 words; (2) make each sentence a clear statement (a series of clear linked statements makes a paragraph); (3) use short words—average no more than five letters; (4) never use a word you don’t know the meaning of; (5) avoid adjectives except for ones of colour, size and number; (6) use concrete words, avoid abstract ones; (7) practise these rules every day for six months.

Key decision

To discard the metropolitan notion of the writer that he had grown up with—a Somerset Maugham or Evelyn Waugh who moves from a place of civilised security to investigate the world beyond his own shores. That kind of “I” was not available to Naipaul. “My subject was not my sensibility, my inward development, but the worlds I contained within myself.”  (“The Enigma of Arrival”, 1987.)

Strong point

Something he admires in other writers: “Kipling looked hard at a real town.”

Favourite trick

In his later work, he repeats a phrase from one paragraph in the next one, which gives his prose an almost biblical sense of progress. The mythic tone is heightened by short words and inverted sentences: “In the morning there came the fighter plane.” (“A Bend in the River”, 1979.) Every evening Naipaul reads out loud what he has written during the day. Or used to—nowadays he has what he has written read out to him. This lifelong habit gives his prose the weightiness of considered thought and the lightness of conversation.

Role models

His father—“possibly the first writer of the Indian diaspora”—for his short stories about Trinidad’s Indians. Joseph Conrad, for seriousness and a sense of those living on “the other side of the fence”.  Flaubert, for the “selection and achievement of detail”. Shakespeare, for freshness of language and the power of his simplest lines.

Typical sentence

Easier to pick two of them. What’s most typical is the way one sentence qualifies another. “The country was a tyranny. But in those days not many people minded.” (“A Way in the World”, 1994.) 

"The Masque of Africa"  was published by Picador on August 31st, and by Knopf in America on October 19th