|
Gấu tính viết về Romain Gary từ lâu lắm
rồi, có thể nói, từ khi còn là sinh viên, chưa hề biết ông là ai, nhưng
đã gặp
một tay mà sau này, đối chiếu với ông, thì cũng cùng nằm trong một
‘truyền
thống’, gồm những cá nhân, ngay từ khi còn nằm trong bụng mẹ, mà đã
nghĩ ra một
cái vai cho mình đóng ở trên cõi đời này rồi!
Hà, hà!
Đừng nghĩ là Gấu này tếu!
Đề tài này, chỉ có một nửa của vấn đề.
Nửa còn lại kia, thì do nhà thơ Rilke nhận ra, khi ông cho rằng, vì ông
ra đời,
mà một người rất thân thương của ông mất đi.
*
Ông Hồ Chí Minh là một người
đàn ông, chuyện vợ con
của ông tôi không quan tâm. Nhưng trong câu chuyện bi thảm này, những
người có
lương tri đều lên án ông, ngay cả trong trường hợp ông không trực tiếp
ra lệnh
giết người phụ nữ bất hạnh, người đã “đầu gối tay ấp”, có con bồng con
mang với
mình. Ông biết, ông tất nhiên phải biết, nhưng ông đã im lặng, đã quay
mặt đi
trước tội ác. Người không nhân hậu với người thân của chính mình thì
nhân hậu
được với ai?
Vũ Thư Hiên trả lời diễn đàn X-Cà-fe.
Nhận xét trên về ông Hồ, của ông con trai của cánh tay phải của ông Hồ,
xem ra
quá hữu lý, nhưng theo Gấu, không đúng. Ông Hồ không giống như một
người bình
thường. Ông ra đời là để đóng vai cứu vớt dân Mít. Có thể thoạt đầu ông
không
tin, nhưng riết phải tin, vì dân Mít muốn như thế. Dân Mít, ở đây, là
những
người CS, và luôn cả đại đa số nhân dân bị thuốc hàng ngày từ những năm
Pháp
thuộc, cho mãi mãi đến bây giờ, và muôn đời về sau.
Đây là trường hợp lộng giả thành chân. Trong đời Gấu, đã chứng kiến một
trường
hợp y chang ông Hồ. Sau này biết thêm một trường hợp, do tay nhà văn
W(illiam)
Somerset Maugham (1874-1965) kể, nhưng ghê gớm nhất là trường hợp nhà
văn
Romain Gary. Ông này, sinh ra đời, là để đóng vai Chúa Nhập Thế Lần Thứ
Nhì.
Chính ông cũng tin như thế, y hệt ông Hồ, cũng tin, ông sinh ra là để
đánh
thắng hai thằng đế quốc thực dân cũ và mới, và để xây cái nhà Mít to
lớn bằng
mười bằng trăm lần so với trước đó.
Bởi thế, dù ông Hồ có muốn làm người bình thường, cũng không được!
Theo nghĩa đó, Dos phán, giả dụ Chúa Giê Su có trở lại thế gian, thì đệ
tử cũng
làm thịt Người để bảo vệ Thiên Chúa Giáo!
Chúng ta cứ thử tưởng tượng, Bác Hồ, một bữa tuyên bố, tớ đếch muốn làm
Cha Già
Dân Tộc nữa, đám đệ tử chịu nổi không?
Kim Hạnh, nữ Trùm báo Tuổi Trẻ ngày nào, chẳng đã bay chức vì cho ông
Hồ làm
người trở lại, cũng có bồ, cũng đưa bồ đi coi Sở Thú!
*
Maugham có mấy truyện thật xịn, nhưng suốt đời đau, vì bị giới phê bình
coi là
nhà văn hạng nhì, đến khi chết, nhắn lại với hậu thế, cớ sao nhà văn
hạng nhì
như tớ mà có nhiều độc giả quá như thế.
Cuốn Lưỡi Dao Cạo của ông mà
chẳng bảnh
sao.
Ông còn một cái truyện Gấu rất mê, Up
at the Villa, chuyện một em,
khi còn
là con nít, được một ông bạn của bố nhắm, lớn lên, mê một anh, lấy làm
chồng,
anh này tối ngày say xỉn, lại còn máu mê cờ bạc, sau chết vì thượng mã
phong,
đại khái như vậy, còn ông bạn của bố, sắp được phong chức Phó vương Ấn
độ, nghe
tin em rảnh rang [available], bèn về Anh cầu hôn. Em tính sáng hôm sau
gật đầu,
nhưng tối hôm đó đi ăn, để mắt thương hại tay nhạc sĩ vĩ cầm ốm đói,
một anh
sinh viên phải bỏ chạy quê hương do chống đối nhà nước, và khi về lại
villa, thì
gặp anh này lết tới đó, bèn cho vô nhà, cho ăn, cho làm tình, cho hưởng
thú
nhất dạ đế vương, và khi anh sinh viên hỏi, tại sao mà đối xử với anh
ta quá
tốt như thế, em ngu quá nói thật, ấy là vì tôi thương hại anh, muốn cho
anh
hưởng lạc thú mà suốt đời anh không tin là anh có thể được hưởng!
Tay sinh viên phát điên lên, chửi, sao lại có thứ đàn bà khốn kiếp như
mi, mi
tưởng mi là thứ gì, ta là thứ gì, và bèn rút súng ra, đòm chính anh ta
một
phát, đi luôn.
Người đẹp cuống lên, bèn phôn cho một tay quen, một lãng tử, anh này
tới, cho
cái xác vô hòm xe rồi kiếm chỗ vắng thẩy xuống biển, và dặn, nè, đừng
có kể cho
ông Phó Vương nghe đấy nhé.
Bữa sau, em lại ngu quá, kể hết, Phó Vương đau như hoạn, nhưng vẫn tỏ
ra là
người quân tử, vẫn ngỏ lời cầu hôn, nhưng tuyên bố, sẽ gặp Nữ Hoàng từ
chối
vinh dự Phó Vương, vì sợ sau này có người khui ra thì bỏ mẹ. Em chán
quá, bèn
lắc đầu, tưởng ông làm Phó Vương thì tôi mới lấy, chứ già khú đế đại
vương như
ông, tôi lấy để làm gì!
Tuyệt!
Sự thực, em chẳng ham gì chức
vợ Phó Vương, nhưng, theo bạn, có cách
nào hay
hơn thế, để tống anh già ra khỏi nhà, đi một mạch qua Ấn làm Phó Vương?
Anh lãng tử biết trước, chuyện sẽ xẩy ra như vậy, và phán, người như
em, chỉ
hợp với anh thôi!
Lần đầu đọc truyện, Gấu cứ khen hoài, cô gái hay thiệt, nghĩ ra cái mưu
nói
Không với ông Phó Vương thật tuyệt, nhung sau ngộ ra, chính cái chết
của anh
sinh viên làm cô bớt ngu đi.
Nhưng cái truyện ngắn của Maugham mắc mớ đến ông Hồ, là như thế này.
Nhân vật kể chuyện trong truyện ngắn của M. mà Gấu quên tên, kể là, ông
có biết
một tay làm bồi bàn cho một nhà hàng nọ. Thế rồi bẵng đi một thời gian,
tình cờ
gặp lại, anh bồi bàn lúc này có vợ, và được giới thiệu là bá tước gì gì
đó.
Hỏi, còn nhớ tui không, ông bá tước lắc đầu.
Thế rồi, sau đó, một lần, gặp bà bá tước, không thấy ông chồng, hỏi
thăm, bả
nói, thằng khùng đó ngỏm rồi. Hỏi, ngỏm ra sao, bả nói, vì tôi lấy anh
ta, nên
anh ta được mọi người kêu là ngài bá tước, như ông chồng đã mất của
tôi. Thế
rồi anh ta cứ nghĩ mình là bá tước thiệt. Đi đứng, ăn nói như ngài bá
tước. Bữa
đó, cháy nhà, cả hai đã chạy ra thoát, kẹt con chó, anh ta quay vô cứu
con chó,
nói sao cũng không được, vì bậc bá tước, bậc vương giả phải xử sự như
vậy.
Cái lý do ông Hồ không thể nào làm con người bình thường được nữa thì
cũng y
chang. Cục đất thành thần rồi không thể nào trở lại làm cục đất được
nữa.
*
Chúng ta đều biết câu chuyện hai ông tượng, một gỗ, một đất, trời nổi
cơn lụt
lội, trôi lềnh bềnh trên mặt nước, tượng gỗ cám cảnh cho tượng đất, tôi
tuy
lềnh bềnh, nhưng vưỡn còn, ông chỉ tí nữa, là tan ra thành đất; ông kia
cười
phán, tớ là đất, thì lại về với đất, còn cậu mới cơ khổ, đang được con
người xì
xụp quì lạy, cúng bái, bây giờ như cục kít trôi sông; con người, cái
túi thịt
hôi thối, như Phật nói, một bữa thức giấc thấy mình biến thành thần, là
không
thể trở lại làm cái túi thịt hôi thối được nữa. Bảnh như Solzhenitsyn
kia mà
còn bị cái vinh quang đốt cho điêu đứng, như Steiner phán về ông:
Cùng với sự xuất hiện của "Một ngày", chỉ trong "một đêm",
Solzhenitsyn trở thành nổi tiếng. Ông tới gặp Anna Akhmatova, nhà thơ
vĩ đại
nhất khi đó hiện còn sống của nước Nga. Bà hỏi: "Liệu anh chịu được
lâu,
vinh quang?... Pasternak chịu, thua. Thật khó kéo dài vinh quang, nhất
là thứ
đến muộn." Một lời cảnh cáo nóng bỏng.
Đúng ra là Solzhenitsyn đã
không bị nó đốt cháy: Ông vẫn sống như
trước, một ẩn
sĩ nhà quê, ăn món ăn nhà quê. Nhưng than ôi, ông mất đi, phần nào tính
bao
dung; dấn mình, như chưa khi nào dấn mình như thế, vào chức năng Thượng
Đế ban
cho, hoặc tự mình ban cho: tố cáo, lột trần Cái Ác. Hy sinh tất cả gia
đình,
bản thân... cho "cuộc điều tra mang tính lịch sử-văn chương": Quần
đảo Gulag.
"Nếu ông ta đừng quá bám chặt vào tư tưởng cố định, idée fixe, nếu ông
ta
cho phép mình, một chút nghỉ ngơi, cho dù vui chơi cho dù sầu muộn,
cũng được
đi, như Puskhin chẳng hạn...", Tây-phương không thể hiểu, nhưng những
bạn
tù đã cho ông sự hỗ trợ cần thiết, đã ban thưởng cho ông, còn giá trị
hơn cả
Nobel văn chương. Thật dễ dàng khi chỉ trích ông, về cách đối xử với vợ
con, nhưng
không ai có thể trách cứ ông, về chuyện một lòng một dạ với những bạn
tù... Với
hàng triệu tù gulag, một nhận định nhân vô thập toàn không phải là một
lời an
ủi, mà là một sự được phép, bởi vì, không một thói hư tật xấu nào có
thể lấy đi
sức mạnh "thép đã tôi thế đấy", ở con người này: một nhà văn, một
công dân.
Một
linh hồn lưu vong
Chúng ta cứ thử tưởng tượng, Bác Hồ, chính ông, đã từng thổi ông lên
thành vị
thần, tự đút cái ống đu đủ vào đít mình thổi mình, rằng thì là suốt đời
hy sinh
cho đất nước dân tộc đến không màng cái thân, đếch còn thì giờ nghĩ đến
vợ con,
[ui chao Gấu bỗng nhớ đến DTH, hiện đang ở Tây, cũng chẳng còn thì giờ
để sống
nữa, vì còn lo viết, lo đại sự, lo tóm cho được sự thực về một đỉnh cao
chói
lọi…], thế mà đùng một cái, thê nhi tử trọc, cục gạch gói trong tờ báo
chẳng
thấy đâu, giờ lòi ra cục gạch mềm mại ấm áp thơm như múi mít, thì ăn
nói làm
sao với nhân dân?
Cà mèng như Gấu, mà cũng có lúc phởn, tự thổi chính mình, tớ sinh ra
đời là để
tố cáo Cái Ác Bắc Kít. Thượng Đế ban cho tớ nhiệm vụ cao cả đó!
Đỉnh
Cao Chói Lọi
Ông Hồ
cũng 'tự đặt tên cho mình' là "Thiên Sứ', được Trời ban cho dân Mít, để
cứu dân Mít!
Bi giờ thì bạn đọc Tin Văn chắc là thông cảm cho nỗi thất vọng thê
lương của
Gấu, khi khám phá ra Thiên Sứ, Nữ Bồ Tát... chỉ là một.... Đại Ma Đầu!
Một
trong những
trường hợp lộng giả thành chân, ly kỳ, thú vị, mà Gấu được biết, do D.M
Thomas
kể, liên quan tới cuốn Dr. Zhivago, và tác giả của nó, là
Pasternak.
Gấu đã lèm bèm về chuyện này, nhân một chuyến vượt biên không thành,
trong
“Viết là Khiếp”
Bài viết cụt thun lủn này, cũng đầy tham vọng: Nhìn lại cả 10 năm sau
Đại Thắng
Mùa Xuân!
Đúng là tham vọng cùng mình!
Sân si trùm thiên hạ, vậy mà đòi tu, tu gì, tu hú! NQT
Romain Gary
NANCY HUSTON
ROMAIN GARY:
A FOREIGN BODY IN FRENCH LITERATURE
[Romain Gary: Một cơ thể lạ trong cõi văn Tây]
DESPITE
HIS HUGE and
continuing popularity in France,
Romain Gary is not part of the "canon" of postwar French literature.
And despite his familiarity with American culture and language (six of
his
books were written directly in English), he has been virtually
obliterated from
the memory of North America.
Who
was Romain Gary? What I
think, after having, over the past year, passionately plowed through
virtually
all the books written by and about him in French (some thirty-five
volumes in
all), is that he was not only one of the great writers of this century,
but
also one of its most unusual and impressive human beings. And what I
shall
attempt to convince you of is the apparently incredible fact that he
gradually
came to think of and shape his life as if it were the Second Coming.
Romain
Gary was a self anointed, self-appointed, self-resurrected and,
ultimately,
self-crucified Messiah.
There
are no simple lessons
to be drawn from the life and work of Romain Gary, both of which were
imperfect
and magnificent. Theydefiinitely do not point toward an improvement of
the
human species - "I doubt we'll ever invent a new mankind," Gary once said
(1973a);
and yet, whatever the absurdity of hope, the crucial thing, in his
eyes, was to
preserve it. He lived obstinately at the heart of this contradiction
and laid
claim to it just in order to emphasize the irreducible complexity of
human
beings.
Yes, like you, Romain, all of
us are hybrid bastards tossed onto this earth for no reason whatever,
condemned
to deal as best we can with the noble and the ignoble, the grace and
disgrace
that inhabit us.
A few months before he
slipped the barrel of a .38-caliber Smith and Wesson into his mouth,
Romain
Gary said in a radio interview devoted to his final novel, Les
Cerfs-volants:
"I don't always manage to apply to my life the precepts of my books,
but
this whole book is the story of people who don't know how to despair"
[Je
n'arrive pas toujours à appliquer à ma vie les préceptes de mes livres,
mais
tout ce livre est l'histoire de gens qui ne savent pas désespérer]
(1979).
This
text is adapted from my
book Tombeau de Romain Gary
(1995).
[Trích trong Lưu vong và Sáng Tạo]
“Lời
hứa lúc bình minh”, một cách xuất sắc như văn chương vốn phải như vậy,
như thể
nói rằng con người ta tuyệt đối có thể lấy hư cấu bao trùm lên thực
tại, coi
thực tại chỉ là một phản ánh nào đó nhất thời và ngẫu nhiên của trí
tưởng.
Romain của “Lời hứa lúc bình minh” tự đặt tên cho mình để lôi hẳn cõi
sống bên
trong ra làm “khuôn mẫu” cho đời thực, còn Romain Gary sau này cũng sẽ
tự đặt
tên cho mình thành Émile Ajar, bắt cuộc đời chấp nhận thêm một hiện
thân khác
nữa của ông; khi ấy cuốn tiểu thuyết xuất sắc nhất của “giai đoạn Ajar”
sẽ là
“Cuộc sống trước mặt” (1975), một cách viết lại chính “Lời hứa lúc bình
minh”.
Gấu
tính viết về Romain Gary từ lâu lắm rồi, có thể nói, từ khi còn là sinh
viên,
chưa hề biết ông là ai, nhưng đã gặp một tay mà sau này, đối chiếu với
ông, thì
cũng cùng nằm trong một ‘truyền thống’, những cá nhân, ngay từ khi
còn nằm trong bụng mẹ,
mà đã nghĩ ra một cái vai cho mình đóng ở trên cõi đời này rồi!
Hà,
hà!
Đừng
nghĩ là Gấu này tếu!
Đề
tài này, chỉ có một nửa của vấn đề.
Nửa còn lại kia, thì do nhà
thơ Rilke nhận ra,
khi ông cho rằng, vì ông ra đời, mà một người rất thân thương của ông
mất đi.
"Không phải cuốn sách
của tôi là một tên sát nhân, nhưng đâu đó, từ những trang sách vang
lên, tiếng
cười sảng khoái, của quỷ...".
Chỉ là lộng giả thành chân.
Bóng ma giả tưởng Zhivago kiếm người thế mạng để đi đầu thai.
Đó cũng là cảm giác ghê rợn,
khủng khiếp khi ông già gặp lại cô bạn ở xứ lạnh.
Như thể cuộc chiến lập lại,
khi giả tưởng "xuất hiện".
NANCY HUSTON
ROMAIN GARY:
A FOREIGN BODY IN FRENCH LITERATURE
[Romain Gary: Một cơ thể lạ trong cõi văn Tây]
DESPITE
HIS HUGE and
continuing popularity in France,
Romain Gary is not part of the "canon" of postwar French literature.
And despite his familiarity with American culture and language (six of
his
books were written directly in English), he has been virtually
obliterated from
the memory of North America.
Who
was Romain Gary? What I
think, after having, over the past year, passionately plowed through
virtually
all the books written by and about him in French (some thirty-five
volumes in
all), is that he was not only one of the great writers of this century,
but
also one of its most unusual and impressive human beings. And what I
shall
attempt to convince you of is the apparently incredible fact that he
gradually
came to think of and shape his life as if it were the Second Coming.
Romain
Gary was a self anointed, self-appointed, self-resurrected and,
ultimately,
self-crucified Messiah.
There
are no simple lessons
to be drawn from the life and work of Romain Gary, both of which were
imperfect
and magnificent. Theydefiinitely do not point toward an improvement of
the
human species - "I doubt we'll ever invent a new mankind," Gary once said
(1973a);
and yet, whatever the absurdity of hope, the crucial thing, in his
eyes, was to
preserve it. He lived obstinately at the heart of this contradiction
and laid
claim to it just in order to emphasize the irreducible complexity of
human
beings.
Yes, like you, Romain, all of
us are hybrid bastards tossed onto this earth for no reason whatever,
condemned
to deal as best we can with the noble and the ignoble, the grace and
disgrace
that inhabit us.
A few months before he
slipped the barrel of a .38-caliber Smith and Wesson into his mouth,
Romain
Gary said in a radio interview devoted to his final novel, Les
Cerfs-volants:
"I don't always manage to apply to my life the precepts of my books,
but
this whole book is the story of people who don't know how to despair"
[Je
n'arrive pas toujours à appliquer à ma vie les préceptes de mes livres,
mais
tout ce livre est l'histoire de gens qui ne savent pas désespérer]
(1979).
This
text is adapted from my
book Tombeau de Romain Gary
(1995).
[Trích trong Lưu vong và Sáng Tạo]
“Lời
hứa lúc bình minh”, một cách xuất sắc như văn chương vốn phải như vậy,
như thể
nói rằng con người ta tuyệt đối có thể lấy hư cấu bao trùm lên thực
tại, coi
thực tại chỉ là một phản ánh nào đó nhất thời và ngẫu nhiên của trí
tưởng.
Romain của “Lời hứa lúc bình minh” tự đặt tên cho mình để lôi hẳn cõi
sống bên
trong ra làm “khuôn mẫu” cho đời thực, còn Romain Gary sau này cũng sẽ
tự đặt
tên cho mình thành Émile Ajar, bắt cuộc đời chấp nhận thêm một hiện
thân khác
nữa của ông; khi ấy cuốn tiểu thuyết xuất sắc nhất của “giai đoạn Ajar”
sẽ là
“Cuộc sống trước mặt” (1975), một cách viết lại chính “Lời hứa lúc bình
minh”.
Gấu
tính viết về Romain Gary từ lâu lắm rồi, có thể nói, từ khi còn là sinh
viên,
chưa hề biết ông là ai, nhưng đã gặp một tay mà sau này, đối chiếu với
ông, thì
cũng cùng nằm trong một ‘truyền thống’, những cá nhân, ngay từ khi
còn nằm trong bụng mẹ,
mà đã nghĩ ra một cái vai cho mình đóng ở trên cõi đời này rồi!
Hà,
hà!
Đừng
nghĩ là Gấu này tếu!
Đề
tài này, chỉ có một nửa của vấn đề.
Nửa còn lại kia, thì do nhà thơ Rilke nhận ra,
khi ông cho rằng, vì ông ra đời, mà một người rất thân thương của ông
mất đi.
*
Và điều mà tôi
toan tính làm, là, sẽ
thuyết phục bạn, về một sự kiện, bề ngoài xem ra có vẻ quái dị khó tin,
ông
Romain Gary này cứ nhẩn nha nghĩ về mình, và tạo vóc dáng cho mình, y
như là
đây là Lần Tới Thứ Nhì: Romain Gary là một tự xức dầu thánh, tự phong
chức, tự
tái sinh, và, sau hết, một Chúa Cứu Thế Tự Đóng Đinh Chính Mình .....
*
Ông Hồ Chí
Minh
là một người đàn ông, chuyện vợ con của ông tôi không quan tâm. Nhưng
trong câu
chuyện bi thảm này, những người có lương tri đều lên án ông, ngay cả
trong
trường hợp ông không trực tiếp ra lệnh giết người phụ nữ bất hạnh,
người đã
“đầu gối tay ấp”, có con bồng con mang với mình. Ông biết, ông tất
nhiên phải
biết, nhưng ông đã im lặng, đã quay mặt đi trước tội ác. Người không
nhân hậu
với người thân của chính mình thì nhân hậu được với ai?
Vũ Thư Hiên trả lời diễn đàn X-Cà-fe.
Nhận xét trên về ông Hồ, của ông con trai của cánh tay phải của ông Hồ,
xem ra
quá hữu lý, nhưng theo Gấu, không đúng. Ông Hồ không giống như một
người bình
thường. Ông ra đời là để đóng vai cứu vớt dân Mít. Có thể thoạt đầu ông
không
tin, nhưng riết phải tin, vì dân Mít muốn như thế. Dân Mít, ở đây, là
những
người CS, và luôn cả đại đa số nhân dân bị thuốc hàng ngày từ những năm
Pháp
thuộc, cho mãi mãi đến bây giờ, và muôn đời về sau.
Đây là trường hợp lộng giả thành chân. Trong đời Gấu, đã chứng kiến một
trường
hợp y chang ông Hồ. Sau này biết thêm một trường hợp, do tay nhà văn
W(illiam)
Somerset Maugham (1874-1965) kể, nhưng ghê gớm nhất là trường hợp nhà
văn
Romain Gary. Ông này, sinh ra đời, là để đóng vai Chúa Nhập Thế Lần Thứ
Nhì.
Chính ông cũng tin như thế, y hệt ông Hồ, cũng tin, ông sinh ra là để
đánh
thắng hai thằng đế quốc thực dân cũ và mới, và để xây cái nhà Mít to
lớn bằng
mười bằng trăm lần so với trước đó.
Bởi thế, dù ông Hồ có muốn làm người bình thường, cũng không được!
Theo nghĩa đó, Dos phán, giả dụ Chúa Giê Su có trở lại thế gian, thì đệ
tử cũng
làm thịt Người để bảo vệ Thiên Chúa Giáo!
Chúng ta cứ thử tưởng tượng, Bác Hồ, một bữa tuyên bố, tớ đếch muốn làm
Cha Già
Dân Tộc nữa, đám đệ tử chịu nổi không?
Kim Hạnh, nữ Trùm báo Tuổi Trẻ ngày nào, chẳng đã bay chức vì cho ông
Hồ làm
người trở lại, cũng có bồ, cũng đưa bồ đi coi Sở Thú!
*
Maugham có mấy truyện thật xịn, nhưng suốt đời đau, vì bị giới phê bình
coi là
nhà văn hạng nhì, đến khi chết, nhắn lại với hậu thế, cớ sao nhà văn
hạng nhì
như tớ mà có nhiều độc giả quá như thế. Cuốn Lưỡi Dao Cạo của ông mà
chẳng bảnh
sao. Ông còn một cái truyện Gấu rất mê, Up at the Villa, chuyện một em,
khi còn
là con nít, được một ông bạn của bố nhắm, lớn lên, mê một anh, lấy làm
chồng,
anh này tối ngày say xỉn, lại còn máu mê cờ bạc, sau chết vì thượng mã
phong,
đại khái như vậy, còn ông bạn của bố, sắp được phong chức Phó vương Ấn
độ, nghe
tin em rảnh rang [available], bèn về Anh cầu hôn. Em tính sáng hôm sau
gật đầu,
nhưng tối hôm đó đi ăn, để mắt thương hại tay nhạc sĩ vĩ cầm ốm đói,
một anh
sinh viên phải bỏ chạy quê hương do chống đối nhà nước, và khi về lại
villa,
thì gặp anh này lết tới đó, bèn cho vô nhà, cho ăn, cho làm tình, cho
hưởng thú
nhất dạ đế vương, và khi anh sinh viên hỏi, tại sao mà đối xử với anh
ta quá
tốt như thế, em ngu quá nói thật, ấy là vì tôi thương hại anh, muốn cho
anh
hưởng lạc thú mà suốt đời anh không tin là anh có thể được hưởng!
Tay
sinh
viên phát điên lên, chửi, sao lại có thứ đàn bà khốn kiếp như mi, mi
tưởng mi
là thứ gì, ta là thứ gì, và bèn rút súng ra, đòm chính anh ta một phát,
đi
luôn.
Người đẹp cuống lên, bèn phôn cho một tay quen, một lãng tử, anh này
tới, cho
cái xác vô hòm xe rồi kiếm chỗ vắng thẩy xuống biển, và dặn, nè, đừng
có kể cho
ông Phó Vương nghe đấy nhé.
Bữa sau, em lại ngu quá, kể hết, Phó Vương đau như hoạn, nhưng vẫn tỏ
ra là
người quân tử, vẫn ngỏ lời cầu hôn, nhưng tuyên bố, sẽ gặp Nữ Hoàng từ
chối
vinh dự Phó Vương, vì sợ sau này có người khui ra thì bỏ mẹ. Em chán
quá, bèn
lắc đầu, tưởng ông làm Phó Vương thì tôi mới lấy, chứ già khú đế đại
vương như
ông, tôi lấy để làm gì!
Tuyệt!
Sự thực, em chẳng ham gì chức vợ Phó Vương, nhưng, theo bạn, có cách
nào hay
hơn thế, để tống anh già ra khỏi nhà, đi một mạch qua Ấn làm Phó Vương?
Anh lãng tử biết trước, chuyện sẽ xẩy ra như vậy, và phán, người như
em, chỉ
hợp với anh thôi!
Lần đầu đọc truyện, Gấu cứ khen hoài, cô gái hay thiệt, nghĩ ra cái mưu
nói
Không với ông Phó Vương thật tuyệt, nhung sau ngộ ra, chính cái chết
của anh sinh
viên làm cô bớt ngu đi.
Nhưng cái truyện ngắn của Maugham mắc mớ đến ông Hồ, là như thế này.
Nhân vật kể chuyện trong truyện ngắn của M. mà Gấu quên tên, kể là, ông
có biết
một tay làm bồi bàn cho một nhà hàng nọ. Thế rồi bẵng đi một thời gian,
tình cờ
gặp lại, anh bồi bàn lúc này có vợ, và được giới thiệu là bá tước gì gì
đó.
Hỏi, còn nhớ tui không, ông bá tước lắc đầu.
Thế rồi, sau đó, một lần, gặp bà bá tước, không thấy ông chồng, hỏi
thăm, bả
nói, thằng khùng đó ngỏm rồi. Hỏi, ngỏm ra sao, bả nói, vì tôi lấy anh
ta, nên
anh ta được mọi người kêu là ngài bá tước, như ông chồng đã mất của
tôi. Thế
rồi anh ta cứ nghĩ mình là bá tước thiệt. Đi đứng, ăn nói như ngài bá
tước. Bữa
đó, cháy nhà, cả hai đã chạy ra thoát, kẹt con chó, anh ta quay vô cứu
con chó,
nói sao cũng không được, vì bậc bá tước, bậc vương giả phải xử sự như
vậy.
Cái lý do ông Hồ không thể nào làm con người bình thường được nữa thì
cũng y
chang. Cục đất thành thần rồi không thể nào trở lại làm cục đất được
nữa.
*
Chúng ta đều biết câu chuyện hai ông tượng, một gỗ, một đất, trời nổi
cơn lụt
lội, trôi lềnh bềnh trên mặt nước, tượng gỗ cám cảnh cho tượng đất, tôi
tuy
lềnh bềnh, nhưng vưỡn còn, ông chỉ tí nữa, là tan ra thành đất; ông kia
cười
phán, tớ là đất, thì lại về với đất, còn cậu mới cơ khổ, đang được con
người xì
xụp quì lạy, cúng bái, bây giờ như cục kít trôi sông; con người, cái
túi thịt
hôi thối, như Phật nói, một bữa thức giấc thấy mình biến thành thần, là
không
thể trở lại làm cái túi thịt hôi thối được nữa. Bảnh như Solzhenitsyn
kia mà
còn bị cái vinh quang đốt cho điêu đứng, như Steiner phán về ông:
Cùng với sự xuất hiện của "Một ngày", chỉ trong "một đêm",
Solzhenitsyn trở thành nổi tiếng. Ông tới gặp Anna Akhmatova, nhà thơ
vĩ đại
nhất khi đó hiện còn sống của nước Nga. Bà hỏi: "Liệu anh chịu được
lâu,
vinh quang?... Pasternak chịu, thua. Thật khó kéo dài vinh quang, nhất
là thứ
đến muộn." Một lời cảnh cáo nóng bỏng.
Đúng ra là Solzhenitsyn đã không bị nó đốt cháy: Ông vẫn sống như
trước, một ẩn
sĩ nhà quê, ăn món ăn nhà quê. Nhưng than ôi, ông mất đi, phần nào tính
bao
dung; dấn mình, như chưa khi nào dấn mình như thế, vào chức năng Thượng
Đế ban
cho, hoặc tự mình ban cho: tố cáo, lột trần Cái Ác. Hy sinh tất cả gia
đình,
bản thân... cho "cuộc điều tra mang tính lịch sử-văn chương": Quần
đảo Gulag.
"Nếu ông ta đừng quá bám chặt vào tư tưởng cố định, idée fixe, nếu ông
ta
cho phép mình, một chút nghỉ ngơi, cho dù vui chơi cho dù sầu muộn,
cũng được
đi, như Puskhin chẳng hạn...", Tây-phương không thể hiểu, nhưng những
bạn
tù đã cho ông sự hỗ trợ cần thiết, đã ban thưởng cho ông, còn giá trị
hơn cả
Nobel văn chương. Thật dễ dàng khi chỉ trích ông, về cách đối xử với vợ
con,
nhưng không ai có thể trách cứ ông, về chuyện một lòng một dạ với những
bạn
tù... Với hàng triệu tù gulag, một nhận định nhân vô thập toàn không
phải là
một lời an ủi, mà là một sự được phép, bởi vì, không một thói hư tật
xấu nào có
thể lấy đi sức mạnh "thép đã tôi thế đấy", ở con người này: một nhà
văn, một công dân.
Một linh hồn lưu vong
Chúng ta cứ thử tưởng tượng, Bác Hồ, chính ông, đã từng thổi ông lên
thành vị
thần, tự đút cái ống đu đủ vào đít mình thổi mình, rằng thì là suốt đời
hy sinh
cho đất nước dân tộc đến không màng cái thân, đếch còn thì giờ nghĩ đến
vợ con,
[ui chao Gấu bỗng nhớ đến DTH, hiện đang ở Tây, cũng chẳng còn thì giờ
để sống
nữa, vì còn lo viết, lo đại sự, lo tóm cho được sự thực về một đỉnh cao
chói
lọi…], thế mà đùng một cái, thê nhi tử trọc, cục gạch gói trong tờ báo
chẳng
thấy đâu, giờ lòi ra cục gạch mềm mại ấm áp thơm như múi mít, thì ăn
nói làm
sao với nhân dân?
Cà mèng như Gấu, mà cũng có lúc phởn, tự thổi chính mình, tớ sinh ra
đời là để
tố cáo Cái Ác Bắc Kít. Thượng Đế ban cho tớ nhiệm vụ cao cả đó!
Đỉnh
Cao Chói Lọi
Ông Hồ cũng
'tự
đặt tên cho mình' là "Thiên Sứ', được Trời ban cho dân Mít, để cứu dân
Mít!
Bi giờ thì bạn đọc Tin Văn chắc là thông cảm cho nỗi thất vọng thê
lương của
Gấu, khi khám phá ra Thiên Sứ, Nữ Bồ Tát... chỉ là một.... Đại Ma Đầu!
Một
trong những trường hợp
lộng giả thành chân, ly kỳ, thú vị, mà Gấu được biết, do D.M Thomas kể,
liên
quan tới cuốn Dr. Zhivago, và tác giả
của nó, là Pasternak.
Gấu đã lèm bèm về chuyện này,
nhân một chuyến vượt biên không thành, trong “Viết là Khiếp”
Bài viết cụt thun lủn này,
cũng đầy tham vọng: Nhìn lại cả 10 năm sau Đại Thắng Mùa Xuân!
Đúng là tham vọng cùng mình!
Sân si trùm thiên hạ, vậy mà
đòi tu, tu gì, tu hú! NQT
*
"Tôi trở nên khiếp đảm
bởi nghệ thuật".
D. M. Dylan Thomas mở đầu Hồi
tưởng & Hoang tưởng.
Nghệ thuật là những ngã ba
ngã tư tàn khốc, mang tính Oedipe. Nơi mộng mị, tình yêu, và cái chết
gặp gỡ.
Zhivago của Pasternak chiêm nghiệm một điều, rằng nghệ thuật luôn luôn
là suy
tư về cái chết, từ đó sáng tạo ra sự sống."
Điều ngược lại, cũng hoàn
toàn đúng.
Cách đây vài năm, tôi [D.M.
Thomas] đi thăm Lydia,
người chị/em gái, của Pasternak.
Một căn nhà từ hồi Victoria,
ọp ẹp, tối
thui. Chủ nhà, một người bà già nhỏ nhắn, rệu rạo, lưng còng, mang đôi
giầy cụt
lủn, lủng lẳng bị chìa khoá... Bà dẫn vào nhà bếp, mời dùng cà phê. Một
cái hũ
cà phê, loại uống liền, hai cái ly trắng, mẻ. Câu chuyện nhạt thếch.
Tôi không
làm sao liên hệ bà với Boris, người sáng tạo ra Zhivago, và Lara. Sau
cùng, bà
hỏi tôi có muốn đi xem mấy bức họa của ông thân sinh. Một cách biết ơn,
tôi nói
vâng. Tôi đi theo đôi giầy cụt ngủn, bị chìa khoá lên lầu. Bà mở cửa
căn phòng.
Một luồng mầu sắc và ánh sáng
làm tôi chới với, nghẹt thở. Đúng là một phòng tranh tuyệt vời. Tôi
nhận ra
ngay Tolstoy, ở nơi Boris trẻ. Sàn ngổn ngang những khung, giá vẽ.
"Tôi đang sửa soạn một
cuộc triển lãm", bà giải thích.
Như một bóng ma, tôi đi theo,
suốt căn phòng rộng, uống từng hớp thiên tài Leonid Pasternak. Có đến
vài phút
đồng hồ, tôi đứng ngẩn trước một bức họa. Chân dung một người đàn bà
đẹp, dáng
mơ mộng, đang chải tóc. Tôi yêu liền ngay nàng.
"Nàng là ai vậy ?"
Bà già còng nhún vai:
"Ôi dào, tôi đó
mà".
Chẳng thèm để ý đến nỗi mất
mát lớn lao, là tuổi trẻ, và nhan sắc, bà quay đi.
Chẳng có gì đáng kể, ngoại
trừ thiên tài bất tử của người cha. Tôi có cảm giác những bức họa đã
hút sạch
bao nhiêu ánh sáng, bao nhiêu đời sống từ căn nhà của cô con gái.
"Tôi nghĩ chắc là bà đã
có bảo hiểm những bức họa?"
"Không, nếu bị đánh cắp, cái gì có thể
thay thế?"
Trở lại bếp, bà cho tôi coi
những bức hình gia đình, hầu hết là của Boris và con cháu của ông. Một
trong
những đứa cháu trai, Lyovya, đã chết trong những tình huống thật là kỳ
bí, đáng
sợ; bà bảo tôi. Chưa tới 30, đang khoẻ mạnh, nó lăn quay ra chết, vì
đứng tim,
ngay trên đường phố Moscow,
đúng chỗ Zhivago bị bịnh tim quật ngã...
Thomas không thể không nghĩ
đến một điều, cái chết của nhân vật giả tưởng, Zhivago, đã "ứng" vào
người cháu trai. Thiên tài Pasternak đã biến đứa cháu thành một cái
bóng, y hệt
như cô con gái Lydia
đã trở thành cái bóng của nghệ thuật, của ông thân sinh.
Liền đó, ông kể lại một kinh
nghiệm của riêng ông, trong một lần đi trị bịnh. Bà bác sĩ tâm thần làm
ông nhớ
đến mẹ, và một lần không vâng lời bà.
(Ở đây có một cái gì liên can
đến mặc cảm Oedipe).
"Thay vì đi nhà thờ, cậu
đã tới một sex shop".
"Đúng như vậy".
"
Rồi trí tưởng của tôi đầy rẫy
những hình ảnh chết chóc, của mẹ tôi, của bạn bè...
Bữa sau, bà bác sĩ gọi điện
thoại:
"Tôi không thể gặp anh
bữa nay. Tôi phải đi đám ma."
"Oh, I am sorry, tôi
mong không phải là một người thân của bà."
"Thảm thay, đúng như
vậy, ông già của tôi."
Và Thomas kết luận, đâu có gì
là đáng ngạc nhiên, nếu tôi trở nên khiếp đảm vì nghệ thuật ?
"Không phải cuốn sách
của tôi là một tên sát nhân, nhưng đâu đó, từ những trang sách vang
lên, tiếng
cười sảng khoái, của quỷ...".
Chỉ là lộng giả thành chân.
Bóng ma giả tưởng Zhivago kiếm người thế mạng để đi đầu thai.
Đó cũng là cảm giác ghê rợn,
khủng khiếp khi ông già gặp lại cô bạn ở xứ lạnh.
Như thể cuộc chiến lập lại,
khi giả tưởng "xuất hiện".
V/v Romain Gary:
Ông này phịa ra cả một lô những cái tôi dởm,
trong đó, có một cái tôi “khủng” nhất: Ông tưởng tượng ông là Chúa Giê
Su, và ngày ông ra đời, là Ngày Chúa Giáng Sinh lần thứ nhì!
Ông là người đầu tiên viết tiểu thuyết sinh thái, trước khi có cái từ
này, với cuốn Cội Rễ Nhà Trời.
Bây giờ, giới văn học khám phá ra một ông Gary mới toanh: Một nhà văn viết dưới
bóng Lò Thiêu
Cội rễ nhà trời
"Đây là một con người mà trong nỗi cô đơn của mình,
đã đi xa hơn những kẻ khác".
Romain Gary
Cuốn "Cửu Long cạn dòng biển Đông dậy sóng", của Ngô
Thế Vinh, được một số nhà điểm sách coi là một báo động sinh thái cho
một vùng đất. "Cội rễ nhà trời" (Les Racines du ciel), của nhà văn Pháp
Romain Gary, có lẽ là cuốn tiểu thuyết đầu tiên nói tới hiểm họa này.
Người viết xin chuyển ngữ bài viết của chính tác giả, nhân lần tái bản
năm 1980 cuốn sách của ông: cuộc hành trình vô vọng của một con người
giữa rừng rậm Phi châu, chiến đấu nhằm bảo vệ loài voi thoát họa diệt
chủng.
"Từ khi xuất hiện cuốn sách này cách đây 20 năm,
người ta rất muốn viết về nó, như là cuốn tiểu thuyết ‘sinh thái’ đầu
tiên (le premier roman ‘écologique’), lần đầu tiên đưa ra lời cầu cứu,
rằng trái đất sinh học của chúng ta đang bị đe dọa. Bản thân tôi, thật
ra, vào lúc đó, cũng không thể ngờ được, sự tình lại đến nỗi quá bi đát
như là bây giờ, và sự hủy diệt cứ thế tăng lên mãi.
Vào năm 1956, tôi ngồi cùng bàn với một ký giả nổi
tiếng, Pierre Lazareff. Một người nào đó thốt lên từ ‘sinh thái’. Trong
số trên hai chục người hiện diện, chỉ có bốn người hiểu ý nghĩa của nó…
Vào năm 1980, người ta cân nhắc con đường vạch ra.
Trên khắp mặt đất, những cơ quan, hội đoàn, những lực lượng được thành
lập, và đứng đầu là giới trẻ đầy quyết tâm chiến đấu. Rõ ràng là họ
không biết đến cái tên Morel, kẻ tiên phong trong cuộc chiến đấu và là
nhân vật chính trong cuốn tiểu thuyết của tôi. Chuyện đó đâu có gì là
quan trọng. Trái tim đâu cần đến một tên khác, để gọi. Và nhân loại đã
đề nghị những con người tuyệt hảo nhất của nó, nhằm bảo vệ một cái đẹp
nào đó của cuộc đời. Một cái đẹp nào đó của thiên nhiên
…
Tôi chọn lựa cho cuốn tiểu thuyết của tôi một nơi
chốn mà vào năm 1956 người ta vẫn còn gọi là "Phi châu nhiệt đới của
Pháp", bởi vì tôi đã sống ở đó, và có lẽ bởi vì tôi không thể quên, đây
là xứ sở đầu tiên trước đây đã đáp ứng lời kêu gọi nổi tiếng: hãy chống
lại sự buông xuôi bỏ mặc, và niềm thất vọng chán chường. Và sự từ chối
của nhân vật của tôi, từ chối làm một con người bất lực, chịu thua luật
đời sừng sỏ, chính sự từ chối này đã ở với tôi trong những giờ phút lạ
thường khác nữa…
Thời gian chẳng thay đổi nhiều, kể từ khi cuốn sách
này được xuất bản: người ta vẫn tiếp tục sử dụng một cách thật là dễ
dàng thoải mái, những dân tộc, nhân danh quyền con người, quyền dân
tộc, xúi họ sử dụng chính họ. Ýù thức về ‘sinh thái’ (la prise
conscience ‘écologique’), chính nó, đã đụng phải cái mà tôi gọi là sự
phi nhân của nhân loại (l’inhumanité de l’humain). Vào lúc tôi đang
viết những dòng này, 1200 con voi đã bị tàn sát ở Zimbabwe… Đúng là một
nghịch lý cơ bản [sự phi nhân của nhân loại] mà không một tư tưởng,
tông giáo nào có thể giải đáp được.
Nếu nói về sắc thái tổng quát, phổ
cập, của công cuộc bảo vệ thiên nhiên, lẽ dĩ nhiên nó không mang tính
đặc biệt, như chỉ xẩy ra ở Phi Châu không thôi: đã từ lâu con người rú
lên như bị lột da. Như thể, quyền con người, chính chúng, cũng trở nên
những sống sót làm bực mình, gây khó chịu, của một thời đại sinh thái
nào đó, đã qua rồi: thời được gọi là nhân bản. Những con voi ở trong
tiểu thuyết của tôi tuyệt nhiên không phải là những ẩn dụ: chúng có
thật, bằng xương bằng thịt, y hệt như quyền con người…
Một lần nữa, tôi xin được cám ơn những con người mà
tình bạn của họ đã giúp đỡ tôi rất nhiều, khi viết cuốn tiểu thuyết
này, trong những điều kiện khó khăn: Claude Hettier de Boislambert,
giáo sư J. E. de Hoorn, René Agid, và Jean de Lipkowski, Leigh Goodman,
Roger Saint-Aubyn và Henri Hoppenot, là những người mà cuốn sách này
được đề tặng."
Romain
Gary
Nhị
"Đó là một cuộc sinh mới. Tôi tự làm mới chính tôi. Tôi được mọi
chuyện, thêm một lần nữa."
Romain Gary viết, trong di cảo,
Cuộc sống và cái chết của Émile Ajar . Ông tự huỷ
mình, ngày 2 tháng Chạp, năm 1980. Chỉ vài tháng sau khi ông mất, Cuộc
Sống và cái Chết xuất hiện, gây một cú sốc tại thủ đô nước Pháp;
trong đó, tác giả thú nhận, ông là tác giả của bốn cuốn tiểu thuyết
được nhiều người biết dưới bút hiệu Émile Ajar. Cuốn tiểu thuyết "Ajar"
thứ nhất, Đại Ma Đầu, Gros Câlin, là một best-seller 1974. Cuốn
thứ nhì Cuộc Đời Trước Ta, La vie devant soi, trúng Goncourt
1975, nhưng Romain Gary đã được giải này rồi, vào năm 1956, với cuốn Cội
Rễ Nhà Trời, Les Racines du Ciel. Theo điều lệ, mỗi nhà văn chỉ
được một lần, cho nên ông phải từ chối.
Gary
gốc Do-thái, sinh tại Vilna, hay Wilno, thủ phủ Lithuania,
(cùng quê hương với Czeslaw Milosz). Theo mẹ chạy qua Pháp năm 1928,
lúc mười bốn tuổi, khi đất nước bị Bôn-sê-vích tấn công, chiến tranh
với Ba-lan, hận thù Do-thái, và họa độc tài. (Cùng với sự sống sót của
một cậu bé, là một nghệ thuật: kể chuyện). Gary
học trung học tại Nice, và luật tại Paris. Tháng Sáu 1940 gia nhập Không
Lực Hoàng Gia Anh, và Nước Pháp Tự Do. Đại uý phi đoàn Lorraine, tham
dự chiến trận Anh, Phi, Abyssinie, Libye, Normandie từ 1940 tới 1944.
Huy chương Bắc Đẩu Bội Tinh và Người Bạn Giải Phóng. Gia nhập ngành
ngoại giao, cố vấn tòa đại sứ ở Sofia, Berne... Phát ngôn viên của Liên Hiệp Quốc từ
1952 đến 1956. Tham vụ ngoại giao ở Bolivie, lãnh sự trưởng tại Los Angeles. Kết
hôn và sống với nghệ sĩ Jean Seberg, từ 1962 tới 1970. Bà vợ tự tử, vì
bị FBI khủng bố bằng cách loan tin thất thiệt, do bà giúp đỡ nhóm Báo
Đen. Cuốn Bài Học Âu-châu, Éducation Européenne, viết trong
thời gian chiến tranh, được dịch ra 27 thứ tiếng, Giải thưởng của những
Phê bình gia, Prix des Critiques năm 1945. (Đoạn những núi rừng Âu-châu
kể chuyện, làm độc giả người Việt liên tưởng tới những nốt nhạc bi
tráng của Lê Thương, trong Hòn Vọng Phu). Nếu Cội Rễ Nhà
Trời là một cuộc chiến cô đơn, tuyệt vọng của một con người giữa
rừng già Phi châu, nhằm bảo vệ loài voi, Cuộc Sống Trước Ta, La Vie
Devant Soi, câu chuyện tình của một cậu bé Ả-rập, dành cho một bà
già Do-thái. Cậu bé Momo phải chống lại sáu tầng thang lầu Madame Rosa
không muốn trèo lên nữa, chống lại cuộc đời, bởi vì "điều đó không thể
tha thứ được"; bởi vì "không cần thiết có lý do để mà sợ hãi". Cậu giấu
bà già vào cái lỗ Do-thái (trou juif), như vậy bà sẽ không chết tại nhà
thương; làm bạn với bà cho tới cái chết, và có thể vượt quá cả giới hạn
đó.
Chiến lược in ấn những cuốn
sách dưới bút hiệu Ajar cũng rất ly kỳ: bản thảo được gửi tới Paris từ Rio de Janeiro,
và một "thế thân" của Ajar, vốn là một người bà con của Gary, đã tự cho
phép mình gặp gỡ phóng viên nhà báo. Giải thích chuyện này, trong di
cảo, ông cho biết, đã quá chán là một Gary nổi tiếng, ông muốn là một người
nào khác. Ở tuổi 59, ông đã viết 33 cuốn sách, với một mớ giải thưởng,
và là một trong những tác giả thành công nhất, được ái mộ nhất trong số
những nhà văn Pháp. "Tôi luôn luôn là một người nào khác." Ông nói. Và
nói thêm: "Tôi muốn là khán giả nhìn ngắm cuộc đời thứ hai của chính
mình." Dẫn lời nhà văn Ba-lan, Witold Gombrowicz: Rồi cũng có ngày, cái
ngày mà nhà văn trở thành tù nhân, bởi cái mõm mà người ta gán cho, la
gueule qu'on lui a fait, nói rõ hơn, bộ mặt mà những nhà phê bình đã
cho người viết, một bề ngoài chẳng liên quan đến tác phẩm, hay chính
người đó. Đối với Gary,
còn một nguyên nhân, làm ông quá chán căn cước của mình, luôn cảm thấy
là một người khác: ông là một nhà văn lưu vong, không chỉ với nơi chốn
ra đời, với ngôn ngữ mẹ đẻ.
Vào năm 1984, Hàn Lâm Viện Văn
Học Nghệ Thuật Hoa-kỳ, American Academy và Institute of Art and
Letters, đã trao giải thưởng cao quí nhất của họ về thể loại giả tưởng,
cho một nhà văn mới, "trẻ", người Mỹ gốc Mễ, có tên là Danny Santiago,
với cuốn đầu tay Nổi Tiếng Khắp Tỉnh, Famous All Over Town. Liền
đó, người ta khám phá ra nhà văn trẻ này chẳng liên quan gì tới Mỹ-Mễ:
Danny Santiago hóa ra là nhà văn già 73 tuổi, Daniel James, tác giả vài
cuốn sách, được biết nhiều như là một nhà viết kịch, và truyện phim.
Điều làm mọi người bực mình nhất: Ông có tên trong danh sách đen của
Hollywood vào thập niên 1950: một cựu đảng viên CS. Đây là thời điểm
chủ thuyết McCarthy đang thịnh hành, với những trò khủng bố, lên án,
lên danh sách đen... nhằm quét sạch "mầm mống" CS tại thiên đường châu
Mỹ. Tác giả cho biết, cuốn sách là kinh nghiệm khi ông là một thiện
nguyện viên làm công tác xã hội tại một khu vực Mỹ-Mễ ở Los Angeles,
vào những năm 1950 và 1960. Và ông chọn bút hiệu đó, vì đã mất tin
tưởng vào khả năng viết lách của chính mình. Cũng có thể, khi chọn một
cái tên gốc da mầu, Santiago, thay vì
James, gốc da trắng, trong câu chuyện được kể bởi một đứa bé 14 tuổi
Mỹ-Mễ, ông cảm thấy gần gụi với Santiago, hơn là James.
Joyce Carol Oates, trong bài viết Những Cái Tôi Giả Danh,
Pseudonymous Selves, cho rằng, đến một tuổi nào đó, bản năng đòi vô
danh của chúng ta mạnh hơn là đòi căn cước thực, hay nói rõ hơn, bản
năng đòi tẩy xóa cái tôi đầu, nhờ vậy, lòi ra một cái tôi khác. Sau khi
tạo nên một căn cước của mình dưới con mắt thế nhân, một cái mặt nạ
đóng kịch, persona, không có cách chi có thể huỷ diệt nổi, con người
lại mong ước chạy trốn nó! Đây là sự ngang bướng, bản năng đòi tự do,
cái mới, của tâm lý con người.
Người viết đọc (lại) bài viết
của Oates, trong cuốn Nhà Văn (Đàn Bà), (Woman) Writer, tình cờ
cùng thời gian Mai Thảo mất. Trong bài tưởng niệm ông, của Thanh Tâm
Tuyền, trên tạp chí Thơ, người ta được biết, ông còn có bút hiệu Nhị,
cho một số bài thơ, và trong nhiều năm, ông "viết văn, bằng lòng làm
nhà văn." Bởi vì: "như mọi thi sĩ của một thời điêu đứng," ông "đã trốn
thơ, cho đến lúc không thể trốn được nữa".
"Đáng lẽ Mai Thảo phải là thi sĩ, một thi sĩ toàn phần như chữ ông
thường dùng... Ngay cái bút hiệu của ông hiện nay, cũng nẩy sinh từ một
mối tình đối với thơ." (Nguyễn Hưng Quốc viết về Mai Thảo, Văn số đặc
biệt).
Bút hiệu Nhị phải chăng, là từ núi Nùng, sông Nhĩ, Nhị Hà? Một bài viết
đầy chất thơ của Mai Thảo: Tiếng còi tầu trên sông Hồng. Và đây là "thổ
ngơi" căn nhà vùng nước mặn, (còn là quê hương của Tú Xương), như trong
bài viết của Nguyễn Đăng Khánh, (Văn, số đặc biệt): Trước mặt và bên
hông nhà là con sông đào, thuyền bè qua lại nhộn nhịp vào những ngày
họp chợ.
Ông chạy trốn thơ, như mọi thi sĩ của một thời điêu đứng? (Pourquoi des
poètes, en temps de détresse? Holderlin). Ông chạy trốn thơ, bỏ (bút
hiệu) Nhị, bằng lòng làm nhà văn, phải chăng còn vì một câu văn bất hủ,
mở đầu nghiệp văn: Phượng nhìn xuống vực thẳm: Hà-nội ở dưới ấy?
(Nhiều năm, nhiều lần, trong tiềm thức của riêng tôi, mỗi lần dư âm
thành phố xưa vọng lên, câu văn lại dội về, như thế này: Phượng
nhìn xuống Hà-nội: địa ngục ở dưới ấy. Chỉ đến khi đọc bài viết của
Thanh Tâm Tuyền, tôi mới hiểu mình nhớ lộn, hoặc đọc lầm, ngay từ đầu,
như thể đâu đó ở trong tôi, đã có sẵn một câu văn, và (câu văn) Mai
Thảo là một dịp để cho nó bật ra: phải chăng trí nhớ của con người vẫn
dành riêng cho nó một quyền năng, tự do sáng tạo, hoặc tiên tri?)
Ông chạy trốn thơ, hay chạy trốn một bút hiệu: Nhị? Khi từ bỏ một bút
hiệu, ông cảm nhận (chấp nhận?), phần số lưu vong, chết nơi quê người?
Ra hải ngoại, ông làm thơ trở lại, như một hòa giải với một nơi chốn,
một miền đất? Như một toan tính sau cùng: cởi bỏ mặt nạ văn chương làm
dáng, văn chương thù tạc, giao duyên?
Ông là một thi sĩ, tuy tự trào, bỡn cợt, nhưng "cũng đành" (résigné),
với thời gian, số mệnh, lẽ tử sinh, nhất là với bệnh tật, và cùng với
nó, nỗi cô đơn. Thơ ngày một lạnh thêm. Mai Thảo, trước khi để cho
người ta nhìn thấy ông, như ông là (một nhà thơ), nghĩa là một vị khách
nhẫn nhục, và hóm hỉnh, của Địa Ngục; đã chịu đựng rủi ro, làm một nhà
văn thời thượng, vô sắc, một cách thật đặc biệt. Đọc (ông, thấy) nhàm
chán, hàm hồ, những chi tiết vô hại (vô tác dụng) làm phiền chúng ta.
Sau vài trang, người ta nhận ra, sự hời hợt, cẩu thả, là cố ý, cốt cho
đầy cuốn sách. (Mô phỏng Borges, khi ông viết về Henry James: "James,
avant de laisser voir ce qu'il est, c'est à dire un hôte résigné et
ironique de l'Enfer, court le risque de passer pour un romancier
mondain...", Jean- Yves Pouilloux trích dẫn, trong Borges, Fictions.)
Ai cũng biết, điều này: Trước 1975, hầu hết truyện của Mai Thảo, là
tiểu thuyết đăng báo.
Go on, run away, but you'd be far safer if you stayed at
home.
(John Fowles trích dẫn Martial, nguyên văn: I, fugi, sed poteras tutior
esse domi.)
Trong Tựa đề cho những bài thơ, Foreword to the Poems, John
Fowles cho rằng cơn khủng hoảng của tiểu thuyết hiện đại, là do bản
chất của nó, vốn bà con với sự dối trá. Đây là một trò chơi, một thủ
thuật; nhà văn chơi trò hú tim với người đọc. Chấp nhận bịa đặt, chấp
nhận những con người chẳng hề hiện hữu, những sự kiện chẳng hề xẩy ra,
những tiểu thuyết gia muốn, hoặc (một chuyện) có vẻ thực, hoặc (sau
cùng) sáng tỏ. Thi ca, là con đường ngược lại, hình thức bề ngoài của
nó có thể chỉ là trò thủ thuật, rất ư không thực, nhưng nội dung lại
cho chúng ta biết nhiều, về người viết, hơn là đối với nghệ thuật giả
tưởng (tiểu thuyết). Một bài thơ đang nói: bạn là ai, bạn đang cảm nhận
điều gì; tiểu thuyết đang nói: những nhân vật bịa đặt có thể là những
ai, họ có thể cảm nhận điều gì. Sự khác biệt, nói rõ hơn, là như thế
này: thật khó mà đưa cái tôi thực vào trong tiểu thuyết, thật khó mà
lấy nó ra khỏi một bài thơ. Go on, run away... Cho dù chạy đi
đâu, dù cựa quậy cỡ nào, ở nhà vẫn an toàn hơn.
Khi trở về với thơ, vào cuối
đời, Mai Thảo đã ở nhà. Cái lạnh, trong thơ ông, là cái ấm, của quê
hương. Của Nhị.
[Nhị còn có nghĩa là Hai. Anh
Cả lo việc viết văn, nhưng Anh Hai mới là cõi mơ tưởng. Về già, Mai
Thảo làm thơ, vì lúc này đâu còn Anh Cả nữa! Những miếu đền, không phải
chuyện tôn xưng cá nhân, mà là hương khói cho người đã chết, bất cứ một
ai.]
Theo nghĩa ấm lạnh đó, (sống với hơi ấm của nỗi chết ở trong lòng bàn
tay), người Việt nói: sống gửi, thác về.
[Một bạn văn giải thích riêng với tác giả: nóng lạnh (âm dương) ở đây
chỉ là tranh chấp giữa hai thần Eros - hay Dục, Libido - và Thần Chết
(Thanatos).]
Hãy tưởng tượng ra thế chân vạc của "văn chương": Một đỉnh, một câu
thơ: Chỉ thấy mưa sa... (Trần Dần). Rồi một đỉnh, một câu văn: Phượng
nhìn xuống... (Mai Thảo). Và một đáy: một mầu cờ, hay một vực thẳm.
[Vẫn người bạn văn kể trên, cho rằng cái tam giác văn chương này quá
giản lược, còn bị méo mó bởi tư tưởng chính trị. Anh đề nghị thay đỉnh
thứ ba, bằng Đinh Hùng, hoặc Vũ Hoàng Chương, vẫn những đứa con của
Hà-nội. Theo anh, chỉ có những Mê Hồn Ca, Đường Vào Tình Sử...
của Đinh Hùng hoặc Mây, Say... của Vũ Hoàng Chương mới hóa giải
nổi ám ảnh mưa sa, mầu cờ, vực thẳm... Lạ một điều, Vũ Hoàng Chương,
đỉnh "viễn mơ" Mây, Say, Vân Muội, Rừng Phong... kia, là muốn
vượt lên cuộc tranh chấp, cuối cùng lại trở thành kẻ tuẫn nạn, cho một
cõi văn chương Miền Nam.]
Tưởng tượng, hãy tưởng tượng: Giao Thanh [Xin coi bài viết về MaiThảo,
của Thanh Tâm Tuyền, trên tạp chí Thơ, số Mùa Xuân, 1998] in được tập
truyện của mình, trước hoặc sau trại tù.
Từ vực thẳm, địa ngục, ở dưới ấy, là hệ quả: thời gian Mai Thảo hạnh
phúc nhất, bảnh nhất, là ba năm kể từ ngày mất Sài-gòn. Ông là nhà văn
"phản động" độc nhất không trình diện học tập cải tạo, "nhởn nhơ" trước
mũi súng, trước cuộc săn người, lâu lâu vẫn có dịp họp bạn, cho tới
ngày vượt thoát.
NQT
Gấu “có thể” là người đầu
tiên giới
thiệu Romain Gary, trên tờ Văn Học, của NMG, khi Mai Thảo mất, do đọc
bài viết
của Oates, về Gary, cùng lúc đọc bài tưởng niệm Mai Thảo của Thanh Tâm
Tuyền,
trên Tạp Chí Thơ, trong đó, ông nhắc tới bút hiệu Nhị của Mai Thảo, khi
làm thơ
Go on, run
away, but you'd
be far safer if you stayed at home.
(John Fowles
trích dẫn Martial, nguyên văn: I, fugi, sed poteras tutior
esse
domi.)
Trong Tựa
đề cho những bài thơ, Foreword to the Poems, John
Fowles cho
rằng cơn khủng hoảng của tiểu thuyết hiện đại, là do bản chất của nó,
vốn bà
con với sự dối trá. Đây là một trò chơi, một thủ thuật; nhà văn chơi
trò hú tim
với người đọc. Chấp nhận bịa đặt, chấp nhận những con người chẳng hề
hiện hữu,
những sự kiện chẳng hề xẩy ra, những tiểu thuyết gia muốn, hoặc (một
chuyện) có
vẻ thực, hoặc (sau cùng) sáng tỏ. Thi ca, là con đường ngược lại, hình
thức bề
ngoài của nó có thể chỉ là trò thủ thuật, rất ư không thực, nhưng nội
dung lại
cho chúng ta biết nhiều, về người viết, hơn là đối với nghệ thuật giả
tưởng
(tiểu thuyết). Một bài thơ đang nói: bạn là ai, bạn đang cảm nhận điều
gì; tiểu
thuyết đang nói: những nhân vật bịa đặt có thể là những ai, họ có thể
cảm nhận
điều gì. Sự khác biệt, nói rõ hơn, là như thế này: thật khó mà đưa cái
tôi thực
vào trong tiểu thuyết, thật khó mà lấy nó ra khỏi một bài thơ. Go
on, run
away... Cho dù chạy đi đâu, dù cựa quậy cỡ nào, ở nhà vẫn an toàn
hơn.
Khi trở về với thơ, vào
cuối đời, Mai Thảo đã ở nhà. Cái lạnh, trong thơ ông, là cái ấm, của
quê hương.
Của Nhị.
Nhị
NANCY HUSTON :
ROMAIN GARY: A FOREIGN BODY IN FRENCH LITERATURE
RG, một cơ
thể ngoại trong văn chương Tẩy
Bài viết của
Nancy Huston, về Romain Gary, trong cuốn Exile and Creativity theo Gấu
thật
tuyệt. Bài được mô phỏng, adapt, từ cuốn sách của tác giả, Nấm Mồ của Romain
Gary, Le Tombeau de RG, 1995, trong đó tác giả coi RG tự coi
mình như là Chúa
Ky Tô nhập thế lần thứ nhì:
Và điều mà
tôi toan tính làm, là, sẽ thuyết phục bạn, về một sự kiện, bề ngoài xem
ra có vẻ
quái dị khó tin [incredible], ông Romain Gary này cứ nhẩn nha nghĩ về
mình, và
tạo vóc dáng cho mình, y như là đây là Lần Tới Thứ Nhì [as if it were
the
Second Coming]: Romain Gary là một "self-anointed, self-appointed,
self-resurrected" [tự xức dầu thánh, tự phong chức, tự tái sinh], và,
sau
hết, một Chúa Cứu Thế Tự Đóng Đinh Chính Mình, a self-crucified
Messiah.
Nhưng
trong
tờ ML mới ra lò về ông, trong bài phỏng vấn, ít ngày trước khi ông tự
sát, ông
đưa ra lời giải thích đúng nhất, và tuyệt nhất, theo Gấu, về Chúa Ky
Tô, ông, và
bà mẹ huyền hoặc của mình, của tất cả chúng ta thì đúng hơn.
|
|