*

I

1




Losing Battles

In the introduction to his 2003 collection of journalism, “Death as a Way of Life,” the Israeli novelist David Grossman wrote: “The daily reality in which I live surpasses anything I could imagine, and it seeps into my deepest parts.” In a note at the conclusion of his somber, haunting new novel, “To the End of the Land,” he explains that he began writing it in May 2003 — around the same time he wrote that introduction, six months before the end of his older son’s military service and a year and a half before his younger son, Uri, enlisted. “At the time,” he writes, “I had the feeling — or rather, a wish — that the book I was writing would protect him.”
 “On Aug. 12, 2006,” Grossman continues, “in the final hours of the Second Lebanon War, Uri was killed in Southern Lebanon.” By that time, most of this book “was already written. What changed, above all, was the echo of the reality in which the final draft was written.”

Một cách nào đó, đây cũng là kinh nghiệm của Gấu, lần chết hụt.
Và sau đó, đến lượt thằng em được Thần Chết hỏi thăm.
Có tí khác, khi Gấu thoát chết, là Gấu biết chắc, thằng em không thể thoát.

The Unconsoled
A writer’s tragedy, and a nation’s

Cái tít này, cũng hợp với Gấu's và nước Mít's!

Gấu đọc đoạn viết này, của Grossman, viết về Schulz, cũng trên tờ Người Nữu Ước, và ngộ ra trường hợp Hoàng Ngọc Tuấn, nhà văn, đã mất.

After the publication of “The Smile of the Lamb,” a reader informed Grossman that it had obviously been written under the influence of the Polish Jewish writer Bruno Schulz, who was murdered by the Nazis in 1942. Grossman had never read Schulz. He borrowed a friend’s Hebrew edition of Schulz’s collected stories and read them all in several hours. He felt an intense kinship, which he described in an essay in this magazine last year:
Reading his works made me realize that, in our day-to-day routines, we feel our lives most when they are running out: as we age, as we lose our physical abilities, our health, and, of course, family members and friends who are important to us. Then we pause for a moment, sink into ourselves, and feel: here was something, and now it is gone. It will not return. And it may be that we understand it, truly and deeply, only when it is lost. But when we read Schulz, page by page, we sense the words returning to their source, to the strongest and most authentic pulse of the life within them. Suddenly we want more. Suddenly we know that it is possible to want more, that life is greater than what grows dim with us and steadily fades away.
It is uncertain how Schulz died. An epilogue at the end of the collection related one possible version: after a Jewish dentist in town was murdered by a German officer who had acted as Schulz’s protector, a German who had been the dentist’s protector shot Schulz, saying, “You killed my Jew—I killed yours.” The story left Grossman devastated. As he told The Paris Review, “I didn’t want to live in such a world where something like that could happen, where people can be seen as replaceable, disposable. I felt that I must redeem his needless, brutal death. So I wrote ‘See Under: Love.’ ”

Reading his works made me realize that, in our day-to-day routines, we feel our lives most when they are running out: as we age, as we lose our physical abilities, our health, and, of course, family members and friends who are important to us. Then we pause for a moment, sink into ourselves, and feel: here was something, and now it is gone. It will not return. And it may be that we understand it, truly and deeply, only when it is lost. But when we read Schulz, page by page, we sense the words returning to their source, to the strongest and most authentic pulse of the life within them. Suddenly we want more. Suddenly we know that it is possible to want more, that life is greater than what grows dim with us and steadily fades away.

Dịch, theo kiểu của Gấu, khi dịch Phu Nhân ở Somerset, khi dịch Istanbul:

Đọc Szhulz, GNV ngộ ra một điều, trong cõi thường ngày ở huyện của chúng ta, chúng ta ‘cảm’, ‘sống’, ‘hưởng’…  đời mình ‘tới’ nhất, là, khi nó cạn láng! Ngày qua tháng lại, chúng ta ngẩn ngơ nhìn mọi thứ thân thương cứ thế mà đội nón ra đi. Và có thể, chúng ta chỉ thực tình cảm nhận ra như thế, khi nó đã mất.
Nhưng khi đọc Schulz, từng trang này qua trang khác, chúng ta cảm thấy những từ chạy ngược trở về với cội nguồn của chúng, trở về cái xung động mạnh nhất, thực nhất, của sự sống, ở trong chúng. Bất thình lình, chúng ta muốn nhiều hơn nữa. Bất thình lình, chúng ta hiểu ra được một điều là, chúng ta có thể muốn nhiều hơn, rằng, đời thì lớn lao hơn nhiều so với cõi nhân gian nhỏ xíu, mà chính nó thì cũng cứ thế mà nhạt dần, ngày một Diễm xưa...

TTT do đó mới đi một câu:

Yêu em suốt 1 đời
Suốt 1 đời chẳng đủ.

Kundera, cũng có ý đó, khi viết, nếu chỉ có 1 đời để sống, thì sống làm mẹ gì!
Phải có thật nhiều đời, rất nhiều đời, bao nhiêu cũng chẳng đủ!

GNV này cũng có ý đó, khi cứ viết hoài về BHD!
Viết hoài còn hoài!

Hà, hà!
*

Cái bài dịch Phu nhân ở Somerset cũng có một giai thoại tuyệt vời về nó.
Khi đọc, là GNV nghĩ ngay đến một vị nữ độc giả thật thân quí, 1 trong hai vị vốn được GNV coi là Tả Hữu Hộ Pháp của trang TV, một vị rành tiếng Anh, 1, rành tiếng Pháp, và vẫn thường sửa giùm, hoặc dịch giùm TV, khi GNV này bí, hoặc dịch sai.

Bởi vì nhân vật Phu nhân Somerset giống y chang vị này!

Tuy nhiên, khi đăng trên TV, GNV phịa ra nhiều đoạn, theo cái kiểu phóng tác, thành thử, khi đăng trên trang bạn, một vị, vị kia, trong hai vị, lại bực bội, vì dịch như thế là phản bội nguyên tác.
Chính vì mới phải để cả nguyên tác tiếng Anh để độc giả tường.

Câu này, trong bài viết, thật quá xứng đáng đối vị nữ độc giả, hộ pháp của TV.
Thật xứng với trang net của vị nữ chủ nhân:
Đẩy đời thực vào một xó xỉnh, chiếm càng ít không gian bao nhiêu, tốt bấy nhiêu, nhường chỗ cho giả tưởng.
Và đây là câu trả lời của vị nữ chủ nhân trang bạn:
Thì trang TV cũng rứa, đẩy hết đời thực, đời hiện tại vào 1 góc…. nhường chỗ cho…. BHD!

Đa tạ. Chưa có lời khen tặng nào tuyệt vời như thế, dành cho TV/GNV!


Thì trang TV cũng rứa, đẩy hết đời thực, đời hiện tại vào 1 góc…. nhường chỗ cho…. BHD!

*

"Je serai ta femme".
LH, 16.8.1967

... sự sống sót của chàng là một điều xúc phạm tới tình yêu thiêng liêng: Chàng vẫn sống và nàng đã chẳng tới được nhà thương đêm đó.
 Thời gian

Note: Hình chụp tại Đài Liên Lạc VTĐ số 5 Phan Đình Phùng Sài Gòn.
Bàn giấy ông trưởng đài, có cái bảng tên của ông: TBT.
*

Cuộc Tình Bỏ Đi  kết thúc không đến nỗi bi thảm như Một Chủ Nhật Khác.
Cô Thùy, tức Nicole của Scott, sau tái giá.
Nàng nói với ông chồng sau:
-Tôi yêu Kiệt và chẳng bao giờ quên anh ấy.
Ông chồng sau trả lời:
-Lẽ dĩ nhiên là như vậy. Làm sao em quên anh ấy? Mà tại làm sao mà em phải quên anh ấy?
Đà lạt
*

Không ai kèn cựa với người đã chết.
Mà em muốn nhắc để cám ơn anh.
Đã rèn luyện em trong cay đắng của đời.
Và đã thương yêu em như một Bà Trời.
Văn Tế

"C'est l'âge où tout le monde avait vingt-six ans," ["Đó là thời mà đứa nào cũng 26 tuổi"], Gertrude Stein diễn tả những năm tháng tuyệt vời băng đảng Mẽo của bà, những Fitzgerald, Hemingway, Pound... ở Paris.

Gấu cũng có thể nói như vậy, về thưở mới lớn của mình, thập niên 1960, và của băng đảng 'tiểu thuyết mới' ở Sài Gòn.
Thời của Stein là 'thế hệ bỏ đi', bị cuộc chiến chê, còn của Gấu, sắp bị cuộc chiến làm thịt.
*
Thế hệ bỏ đi, cuộc tình bỏ đi.

Thế hệ bỏ đi, như Hemingway kể lại, trong Paris là một ngày hội, gốc gác của nó, là của một tay chủ gara, nơi Stein thường sửa xe. Một lần, "em" mang xế tới, thằng thợ trẻ tỏ ra không sốt sắng lắm trong vụ phục vụ người đẹp. Thế là em méc tay chủ. Tay này mắng thằng nhóc.
Stein sử dụng đúng từ này để đập Hemingway, đám viết lách cà chớn như mấy ông là một thế hệ vứt đi, vì đã được thải ra từ cuộc chiến, theo nghĩa:
-Tụi mày cứt quá, nên cuộc chiến đếch thèm giết.
-Tụi mày tuy sống sót cuộc chiến, nhưng thế nào cũng có bộ phận bị thương tổn, không còn hoạt động được nữa.
*
Ui chao, xém một tí, là súng của Gấu cũng bay vào hư vô, trong vụ ăn hai trái mìn claymore ở bờ sông Sài Gòn!
*
Hình như là Fitzgerald, nói về mình và về Hemingway: Ông nổi tiếng vì thành công, còn tôi, vì thất bại.
Hề Charlot cũng đã từng nói tương tự, về ông và Einstein: Ông nổi tiếng vì chẳng ai hiểu ông, còn tôi, ai cũng hiểu.
*
Happy Birthday. Chúc đại ca viết càng ngày càng bảnh. NLV
Tks.

Tiện đây, xin thông báo: Tất cả bài vở trên Tin Văn, ngoại trừ những bài có tính giới thiệu, đều chỉ để sử dụng với tính cách cá nhân, [for personal use] và đều "free", xài vô tư, thoải mái.
Vì Gấu cũng trên bẩy bó rồi, nếu tính tuổi ta, thành thử cứ coi đây như là, "cho chắc ăn", sau những cú báo động hoảng như vừa rồi. NQT
*
Gấu dùng chữ "những", là vì bạn bè Gấu bị "hơn một cú" như cú vừa rồi. Cú trước khủng khiếp hơn nhiều, xẩy ra ngay sau khi Bông Hồng Đen ra đi. Một ông bạn, trong nhóm bạn ở Cali, thương tình, bèn mail cho Gấu biết tin. Tin Văn bèn đi một đường ai tín, khiến Gấu Cái càng thêm bực mình. Và bèn mail trả lời ông bạn, cho biết, ngay sau khi Gấu được ai tín, bèn xỉu, sẵn bịnh tim chơi bồi thêm, bèn phải chở đi nhà thương cấp cứu!
Anh bạn hoảng quá, và cũng ân hận, lỗi ở mình, nhưng bán tin bán nghi, bèn phôn cho một anh khác nữa, rất rành về mối tình của Bông Hồng Đen và Gấu.
Anh này gật gù, chắc đúng như thế đấy. Tao biết, thằng cha Gấu hồi đó mê BHĐ khủng khiếp lắm.
[Chính em LH cũng xác nhận chuyện này, bởi vì có lần Gấu hỏi, tại sao "iêu" Gấu, em trả lời, tại vì anh thương em nhiều quá, thành thử... tội nghiệp!]
Để tăng thêm trọng lượng cho lời tiên đoán của mình, anh kể chuyện, một lần Gấu nhờ anh trao giùm thư cho BHĐ, thời gian Gấu bị ông bô của em cấm cửa. Gấu dặn, vô, trao thư xong xuôi, rồi ra liền, báo cho tao biết, rồi có muốn ở lại tới giờ nào thì ở.
Anh ta vô, trao thư xong, gặp ông anh của LH, mải trò chuyện, rồi quên luôn thằng cha Gấu ở bên ngoài, khủng khiếp chờ đợi, cứ như chờ án tử hình!
Anh ta, lúc nhớ ra, thì đã ba, bốn giờ chiều, tức là lúc sửa soạn ra về.
Anh kể lại, tao ra ngoài đường, thấy mày ngồi trên chiếc xe đạp, tóc tai dựng đứng, trông thê lương không thể nào tưởng tượng được.
*
Nghe anh kể, Gấu nhớ ra liền. Hai thằng ăn sáng xong, là đi. Tới ngã tư gần nhà em, phía vườn Tao Đàn đi xuống gặp Gia Long, Gấu ngồi trên xe đạp chờ tới...  chiều.
Bữa đó, không chỉ mình Gấu lo, mà luôn cả anh bạn. Anh nói, tao đưa thư cho nó, nó không thèm cất đi, mà lại để ngay trên bàn, rồi ra lệnh, đó là lúc đang dọn nhà, từ Phan Đình Phùng lên, anh V. phụ em một tay, khiêng cái giường. Tao vừa sợ, vừa bực. Sợ ông via của nó bất chợt vô, vồ liền cái thư. Bực, vì em của mày coi tao như thằng hầu. Phụ một tay, khiêng cái giường cho em! Láo thế!
Sao không trao cái bực đó cho tao? Gấu thèm thuồng, hỏi lại!
*
Tao thèm được như mày! Anh kết luận.
Thèm cái cảnh, râu tóc rựng ngược, mặt mày méo xệch?
Sướng chưa!
NKTV

Cái đoạn trên, trích từ một trang TV cũ, viết sau khi đọc cái mail của một anh bạn, hỏi, này, mày chết chưa đấy, bởi vì chúng tao, lũ bạn cũ của mày ở Cali, đọc một bài viết của cái tay biếm văn số 1 hải ngoại, trong đó, nó có nhắc đến một thằng NQT [có mấy NQT?], và thằng này, chết rồi!

Tếu nhất, là cú đó xẩy ra đúng vào những ngày sắp sửa tới sinh nhật của Gấu!
Thế là bèn nhớ đến cái lần sinh nhật sau khi chết hụt mìn VC tại bờ sông Sài Gòn, được em ghé thăm, ban cho cái promise, ‘Je serai ta femme’, trên.
Hứa, chắc như đinh đóng cột như thế, vậy mà sau này bỏ Gấu mà đi, chính vì thế mà có cảnh chạy theo em khóc nức nở, như biết trước, sau này sẽ phải khóc Sài Gòn! (1)
(1)
Nàng là ai? Cái thành phố mà chúng ta đã chọn lựa?
(Qui est-elle, cette ville que nous avions élue?)
Hãy chừa riêng ra cho anh, những vết thương tình mà anh chia sẻ với Sài Gòn.
(Épargne-moi les blessures de l’amour partagé avec Justine).
Sài Gòn nghĩa là gì?
 

Còn một anh bạn nữa, sau khi nghe tin Gấu đi theo BHD, bèn mừng rỡ mà la lên, bảnh thật, đúng là nhà văn nhớn, vì trong đám chúng mình [anh viết mail trả lời 1 anh bạn], có thằng nào có được 1 cái chết hách như thế đâu!

*

Mời các bạn nghe một bài hát xưa với giọng hát rất jazzy của Nat King Cole. Nhấp vào link Autumn Leaves sẽ đưa bạn vào youtube. Dưới đây là lời của bản nhạc.

The falling leaves drift by the window
The autumn leaves of red and gold
I see your lips, the summer kisses
The sun-burned hands I used to hold

Since you went away the days grow long
And soon I'll hear old winter's song
But I miss you most of all my darling
When autumn leaves start to fall 

Tạm dịch nhé:

Lá rơi nhẹ nhàng bên cửa sổ
Lá mùa thu màu đỏ và vàng
Tôi nhớ đôi môi em, những nụ hôn mùa hạ
Và đôi bàn tay rám nắng tôi đã nâng niu ngày nào

Từ khi em ra đi, ngày dài thêm
Và chẳng bao lâu tôi đã nghe bài hát mùa đông năm xưa
Nhưng mà tôi nhớ em nhiều nhất, cưng ạ
Là khi lá mùa thu bắt đầu rơi
Blog Hải Hà 

Bài Lá Thu này, nguyên tác tiếng Tây, thơ Prévert, bản tiếng Anh lời không tới bằng thơ Prévert, hình như cũng được dịch ra tiếng Việt, gõ Google, thử coi. GNV này, hồi nhỏ mê bài này lắm, do em Gréco, nữ thiên thần của chủ nghĩa hiện sinh, hát. Sartre cũng đã từng đặt lời nhạc, cho em hát....
NQT

Nghe bản tiếng Tây, ở đây

Bản tiếng Việt, do Khánh Hà hát, ở đây

LES FEUILLES MORTES
paroles: Jacques Prévert
musique: Joseph Kosma 

Oh! je voudrais tant que tu te souviennes
Des jours heureux où nous étions amis
En ce temps-là la vie était plus belle,
Et le soleil plus brûlant qu'aujourd'hui
Les feuilles mortes se ramassent à la pelle
Tu vois, je n'ai pas oublié...

Les feuilles mortes se ramassent à la pelle,
Les souvenirs et les regrets aussi
Et le vent du nord les emporte
Dans la nuit froide de l'oubli.
Tu vois, je n'ai pas oublié
La chanson que tu me chantais. 

REFRAIN:
C'est une chanson qui nous ressemble
Toi, tu m'aimais et je t'aimais
Et nous vivions tous deux ensemble
Toi qui m'aimais, moi qui t'aimais
Mais la vie sépare ceux qui s'aiment
Tout doucement, sans faire de bruit
Et la mer efface sur le sable
Les pas des amants désunis.

Les feuilles mortes se ramassent à la pelle,
Les souvenirs et les regrets aussi
Mais mon amour silencieux et fidèle
Sourit toujours et remercie la vie
Je t'aimais tant, tu étais si jolie,
Comment veux-tu que je t'oublie?
En ce temps-là, la vie était plus belle
Et le soleil plus brûlant qu'aujourd'hui
Tu étais ma plus douce amie
Mais je n'ai que faire des regrets
Et la chanson que tu chantais
Toujours, toujours je l'entendrai!

REFRAIN

CRÉATION:
* Yves Montand (1950)

INTERPRÉTATIONS:
* Johanne Blouin - Souviens-moi (Étoile du nord JBCD-9800)
* Dee Dee Bridgewater - Keeping Tradition (Verve 314 519 607-2)

Đà Lạt

Kiệt bỗng cất tiếng hát inh tai. Kiệt gào thì đúng hơn như muốn át tiếng còi hú, và tiếng động cơ.

*

cette ‘’rose des ténèbres’’. Cette "musicienne du silence"?
C’est grâce à elle, et pour voir mes mots devenir pierres précieuses, que j’ai écrit des chansons.
Nhờ nàng, và cũng để nhìn thấy những từ ngữ của mình biến thành những viên ngọc quí mà tôi viết những lời ca
JEAN-PAUL SARTRE
Si vous entendez une voix qui est l’appel de l’ombre, c’est celle de Gréco.
Nếu bạn nghe tiếng hát liêu trai, tiếng hát gọi bóng tối, thì đó là của Gréco.

PIERRE MAC ORLAN
*

Me xừ Tướng Về Hưu của NHT, sau khi góp phần xây dựng xong xuôi Địa Ngục ở trên Trái Đất, trước khi về hưu, bèn ghé thăm Sài Gòn. Tâm trạng cô đơn, không còn việc gì để làm, miền nam làm thịt xong rồi, đói no thì đã có cô con dâu lo, "phúc lợi" trông vào việc nuôi heo bằng thai nhi... không khí đó, "Tôi gục đầu lên nỗi buồn", có cái "air" văn chương miền nam.
Không phải tự nhiên mà có người nhận xét, không làm thịt được miền nam, không có những ông như NHT.
Khúc chót, chỉ gồm toàn những mẩu, những đoạn, những tờ thư lả tả... của Nỗi Buồn Chiến Tranh khiến độc giả miền nam tự hỏi, không hiểu Bảo Ninh đã từng ghé mắt đọc Tiếng Động của Thanh Tâm Tuyền?
Thiếu, là thiếu một tiếng hát, thí dụ như của... Gréco, "sang nhất", hoặc "hèn hơn một tị", của Khánh Ly, của Lệ Thu... , ở trong NHT. Có thể, tiềm thức của tác giả nhận ra thiếu...  một giọng hát, bèn nhớ ra tiếng hát thuỷ thần, tiếng hát Trương Chi...
*

BHD dịch qua tiếng Tây, là: 'rose des ténèbres'?


Kỷ niệm, kỷ niệm

Si je t'oublie, Saigon

"Ah," Mr. Compson said. "Years ago we in the South made our women into ladies. Then the War came and made the ladies into ghosts. So what else can we do, being gentlemen, but listen to them being ghosts"

Ui chao, chẳng lẽ sư phụ của Gấu, đã tiên tri ra được, cảnh tượng, mấy bà vợ sĩ quan VNCH lặn lội đi thăm chồng, như những hồn ma lẽo đẽo, chàng ở đâu, thiếp ở đó?
Và nếu như thế, Faulkner đi tìm Gấu, hay là Gấu đi tìm Faulkner?

Nỗi buồn buồn

Nhân nỗi buồn CDBT được chuyển thể thành phim, nhắc lại "Nỗi buồn chiến tranh", và nỗi buồn "Trái tim của Bóng Đen"!

Buồn với Nỗi buồn chiến tranh

Note: Cái bài viết này thật là thú vị, riêng với Gấu, vì nó liên can tới rất nhiều liên can, rất nhiều ẩn dụ, mà một trong số đó, là, ẩn dụ... Trái Tim Hà Lội!

Gấu có lẽ là người đầu tiên nhắc đến sự liên hệ giữa Trái Tim của Bóng Đen, của Conrad, và phim Tận Thế là Đây, của Coppola, trong giới Mít, do đọc một bài viết về Conrad trên tờ Người Nữu Ước, những ngày còn giữ mục Tạp Ghi cho báo Văn Học của NMG, cc 1997-98.

Tên bài viết nguyên là: Ngài là Mr. Kurtz, tôi đoán thế? [I presume]. Gấu bèn đổi thành Ngài là Đồ Phổ Nghĩa, tôi đoán vậy
Sự liên hệ giữa truyện và phim, là do tác giả bài viết nêu ra:

Độc giả khó thể quên, cảnh tượng Marlow, trên boong tầu, chiếu ống nhòm, tới những vật mà ông miêu tả là những đồ trang điểm, ở trên ngọn những con sào, gần nhà Kurtz, và rồi ông nhận ra, mỗi món đồ trang trí đó là một cái đầu lâu - đen, khô, mi mắt xụp xuống, cái đầu lâu như đang ngủ trên ngọn con sào. Những người chưa từng đọc cuốn truyện, cũng có thể nhìn thấy cảnh này, bởi vì nhà đạo diễn Francis Coppola đã mượn nó, khi chuyển Heart of Darkness vào trong phim Tận Thế Là Đây, Apocalypse Now.

Nhưng, chỉ đến khi đọc bài của Đinh Linh, bản tiếng Việt, do Lê Đình Nhất Lang dịch, từ bản tiếng Anh, đăng trên Guardian, trong đó, có nhắc đến câu phán của Coppola: Tận Thế là Đây "là" Việt Nam, thì Gấu này mới hiểu ra là, tay đạo diễn này, cũng nhìn ra, như Gấu đã từng nhìn ra, [và phách lối, kiêu ngạo, tưởng rằng chỉ có độc nhất Gấu nhìn ra chân lý!]

Bởi vậy, Nỗi Buồn Chiến Tranh cùng một dòng với Tận Thế là Đây, Trái Tim của Bóng Đen!
Thảo nào cả thế giới mê nó! Nỗi Buồn Chiến Tranh!

[Tay Cương Thi này, không hiểu có "nhận ra chân lý", khi để Nỗi Buồn Chiến Tranh  bên cạnh Tận Thế Là Đây, Trái Tim Của Bóng Đen?]

Cũng khai hóa lũ Ngụy, bằng văn minh Bắc Hà, bằng chủ nghĩa CS... cuối cùng, tưởng Trái Tim của Bóng Đen, là hang ổ sau cùng của Mỹ Ngụy, Sài Gòn, hóa ra là...  Hà Nội!

Nếu so với Mặt Trận Miền Tây, thì NBCT còn bảnh hơn, như lời phán của một tay trên báo Hồng Mao:
Không giống như Mặt Trận Miền Tây Vẫn Yên Tĩnh, đây là một cuốn tiểu thuyết không chỉ về chiến tranh. Một cuốn sách về chuyện viết, về tuổi trẻ mất mát, nó còn là một câu chuyện tình đẹp, nghẹn ngào [Lời giới thiệu của Geoff Dyer trên tờ Independence, in lại trong bản dịch tiếng Anh của Nỗi Buồn].
Gấu đọc NBCT

  Khải Huyền Dối Trá

Apocalypse lies

**

Tội Ác Giữa Lòng Hà Nội

Chim tươi sống, Thượng Đế ‘order’, là vặt lông, làm thịt, 'sắp kèo rượu', [tương tiến tửu] liền tù tì
Nhân sinh đắc ý tu tận hoan!

Cứ tội ác gì cũng đổ cho Mẽo hết, đến một lúc nào đó Coppola, chẳng may vớ được cục tiếng Anh, [bài viết đăng trên Guardian của DL], bèn, như Hitler, vặc lại, nếu không có Lò Thiêu làm sao có nước Israel, nếu chúng tao không nhảy vô Miền Nam, làm sao chúng mày có lý do để mà đánh cho Mỹ cút Ngụy nhào, giải phóng Miền Nam, thống nhất đất nước, qui về một mối, cùng nhìn về…  Trái tim Hà Nội?

Bởi vì, không có người Mẽo can thiệp vô Việt Nam, không có cách chi kết thúc cuộc Trịnh Nguyễn phân tranh, với phần thắng nghiêng về Đàng Ngoài.
Có lần Gấu phán 'ẩu' là, Miền Bắc phải tìm đủ mọi cách cho anh Yankee mũi lõ nhẩy vô Việt Nam, thì mới có lý do phát động, activate, chân lý nước Việt Nam là một, và từ đó mấy anh Yankee mũi tẹt con cháu họ Trịnh ngày nào mới có cơ hội làm thịt Miền Nam.

Đây là thảm kịch Việt Nam, thảm kịch nồi da xáo thịt. Bởi vậy Coppola mới ngạo nghễ tuyên bố, như ĐL trích dẫn, “không phải là về Việt Nam — nó là Việt Nam.”

Ý nghĩa "nó là Việt Nam", là như trên. 

Không phải tự nhiên nhiều người, coi đây là đỉnh cao sự nghiệp Coppola:
To many, Apocalypse Now represents Coppola's highpoint, a feat he has been unable to equal or exceed ever since.
Nhưng cái giá phải trả, cũng khá đắt, như ông nói, sau khi quay phim xong: ".... từng chút, từng chút, chúng tôi biến thành khùng". ["We were in the jungle, there were too many of us, we had access to too much money, too much equipment, and little by little, we went insane." ]

Như Littell, tác giả Les Bienveillantes, khi muốn nhập thân vào Cái Ác:
Nhập vai thì cũng dễ, ra mới khó! (1)

(1) Gấu Cái cảnh cáo: Mi cứ viết hoài như thế này, thì mi cũng khùng thôi.
Một độc giả gửi sách tặng, 'ra lệnh', đọc 'cái này' (2) đi, tẩu hoả nhập ma đến nơi rồi!
(2) Cám ơn, sẽ đọc. NQT

Kissinger, phải đến chót đời, mới nhận ra sự lì lợm, không chấp nhận một biện pháp nửa vời, a compromise, cho cuộc chiến của Miền Bắc, tuy nhiên ông ta không làm sao mà hiểu được, lời nguyền 'Nàng là giống Rồng, Ta là giống Tiên', và giấc mơ ‘giao lưu hòa giải’, thống nhất đất nước, nhằm huỷ diệt lời nguyền, ngay từ khi…  chưa có giống Mít, đó là cái phần đẹp nhất của cuộc chiến, đúng như ý muốn của Chúa, khi Ngài OK cho giống Mít có mặt ở trên thế gian này.

Nhưng hỡi ơi, chính Người cũng không thể tưởng tượng ra được "Trái Tim Là Bóng Đen" của Hà Nội nó khủng tới cỡ nào! 

Đến Ông Giời mà cũng còn lầm, nữa là! 

Theo nghĩa đó, Anne Applebaum mới phán, đến ngay Thượng Đế mà cũng không thể tưởng tượng ra được Tây Phương chiến thắng Cuộc Chiến Tranh Lạnh, khi bà vinh danh Koestler.

Đó là công lao của chỉ 1 cuốn sách: Đêm Giữa Ngọ.

Kỷ niệm, kỷ niệm

ABSALOM, ABSALOM!

I know of two kinds of writers: one whose obsession is verbal procedure, and one whose obsession is the work and passions of men. The former tends to receive the derogatory label "Byzantine" and to be exalted as a "pure artist." The other, more fortunate, has known such laudatory epithets as "profound," "human," "profoundly human," and the flattering abuse of "primal." The former is Swinburne or Mallarme; the latter, Celine or Theodore Dreiser. Others, truly exceptional, exercise the joys and virtues of both categories. Victor Hugo remarked that Shakespeare embodied Gongora; we might also observe that he embodies Dostoevsky.... Among the great novelists, Joseph Conrad was the last, perhaps, who was as interested in the procedures of the novel as in the destiny and personality of his characters. The last, until Faulkner's sensational appearance on the scene.
Faulkner likes to present the novel through his characters. This method is not totally original: Robert Browning's The Ring and the Book (1868) details the same crime ten times, through ten mouths and ten souls, but Faulkner infuses an intensity in them which is almost intolerable. Infinite fragmentation, an infinite and black carnality, is encountered in this book. The theater is Mississippi; the heroes, men destroyed by envy, drink, solitude, and the erosions of hatred.
Absalom, Absalom! is comparable to The Sound and the Fury. I know of no higher praise.
Borges 

Absalom, Absalom!

Tôi biết hai loại nhà văn. Một, ám ảnh của họ là cuộc diễn biến của chữ, verbal procedure, một, việc làm, work, và đam mê của con người. Loại thứ nhất, cực điểm của họ, là ‘nghệ sĩ thuần tuý’. Loại kia, may mắn thay, được ban cho những cái nón như là “sâu thẳm” [profound], “nhân bản”, human, rất nhân bản. Trong số này, còn có những người ở giữa, nghĩa là tu tập cả niềm vui lẫn đức hạnh của cả hai loại trên. Trong số những tiểu thuyết gia vĩ đại nhất, Joseph Conrad là người cuối cùng, có lẽ, đã quan tâm đến những thủ tục của một tiểu thuyết như trong số phận và nhân cách của những nhân vật của ông. Người cuối cùng, cho đến  khi Faulkner xuất hiện trên sàn diễn.
Faulkner thích trình ra cuốn tiểu tiểu thuyết của ông, qua những nhân vật. Phương pháp này thì cũng không hoàn toàn do ông mà ra: Cuốn Cái Nhẫn và Cuốn Sách (1868), của Robert Browning tả chi tiết một tội ác 10 lần, qua 10 cái miệng và 10 linh hồn, nhưng Faulkner tẩm sự căng thẳng, cuờng độ, vào trong những nhân vật của mình đến mức độc giả, thứ "cà chớn" sẽ đếch làm sao chịu được! Một cung cách mẩu đoạn, phá nát văn phong đến tận cùng, [cánh đồng bất tận mà!] đến vô cùng, dục vọng thì cũng vô cùng, và đen thui, đó là những gì người đọc tìm thấy ở trong một cuốn sách của ông. Nhà hát là Mississippi, những nhân vật của ông, đàn ông, bị tiêu ma, huỷ diệt bởi lòng ham muốn, rượu, cô đơn, và tàn tạ mãi đi, vì hận thù.

Absalom, Absalom! có thể sánh với Âm thanh và Cuồng nộ, và tôi không biết, có lời vinh danh nào cao hơn thế nữa, về nó!
Borges

Nhà hát là Miền Nam. Những nhân vật của Nguyễn Ngọc Tư….
NNT chưa từng đọc Faulkner, nhưng có thể nói, toàn bộ tác phẩm của cô, bước ra từ khúc dạo đầu của Absalom, Absalom! của Faulkner


Absalom, Absalom! có thể sánh với Âm thanh và Cuồng nộ, và tôi không biết, có lời vinh danh nào cao hơn thế nữa, về nó!
Borges

Tuyệt!

Khen 1 tác phẩm của Faulkner, bằng 1 tác phẩm khác, cũng của Faulkner!
Đây cũng là đòn của Kim Dung, cho Vô Kỵ sử dụng, để đánh bại 1 nhà sư Thiếu Lâm, bằng chính võ công của Thiếu Lâm, và đúng cái môn võ công mà nhà sư nổi danh nhờ nó, trong 1 trận đánh kinh thiên động địa trên Quang Minh Đỉnh, để cứu cả một lũ Ngụy, tức Ma Giáo!

Đâu có thứ võ công nào khác, để mà đánh bại Ngài, ngoài võ công của chính Ngài!