Mémoirs
Nghệ sĩ Tây
dưới thời bị trị.
Số này còn 1
bài về khẩu AK-47, dịch từ tờ Ðiểm Sách
Luân Ðôn, rất thú vị. Tuy nhiên, bài viết không nói tới sự khủng
khiếp của
tiếng súng AK-47. Người dân Sài Gòn những ngày Mậu Thân đã từng được
hưởng kinh nghiệm này, và GNV từng
lèm bèm về
nó, và tin rằng, thứ âm thanh quay vòng tròn, surrounded, là được mặc
khải từ
tiếng AK. Và cùng với nó là vấn nạn thật căng:
Bạn phải trải
qua cái “khủng” rồi mới hiểu được sự chuyển hóa, từ “khủng” qua “tuyệt”
được.
Vì lý do này
mà đám bỏ chạy bợ đít VC mới không làm sao phân biệt được, giữa “pháo
kích” và “oanh
kích”. Chúng tra từ điển, rồi phán, như
nhau!
Một tên Tây
mũi tẹt dịch “tình yêu như trái phá” ra tiếng Tẩy là “cú sét đánh”, ra
tiếng
Anh là “yêu từ cái nhìn đầu tiên”!
Và trên tất
cả, chúng chẳng biết cái hay của, chỉ một bản nhạc sến, hay chỉ một lời
nhạc, thí
dụ như câu này, trong bản Kẻ ở miền xa:
Ngoài kia súng nổ đốt lửa
đêm đen tầm
đạn thay tiếng em!
GNV có
một
viết thật là tuyệt [nhưng vẫn chưa viết ra được !], về kinh nghiệm
khủng khiếp
này, lần đầu tiên nghe bản nhạc After the Sunrise, của Yanni.
Như thể, bạn
nghe bản nhạc, và cùng lúc sống lại tất cả cuộc chiến, cứ mỗi nỗi
đau của bạn, là được đền bù bằng 1 nốt nhạc!
Một bài viết
thần sầu [chưa viết nhe], liên quan tới cô bạn, và tới cái mail của một
em, một
nữ thi sĩ ở trong nước:
Anh có khỏe
không. Có gì vui không? Anh vẫn thích nghe Kenny G. và Yanni?
Liên quan tới
vấn đề này, còn là câu phán hiển hách của Gấu Cà Chớn, văn chương Miền
Nam cuối
cùng chỉ đọng lại trong mấy bản nhạc sến!
Ðể hiểu câu
này, bạn phải đã có lần đi tù VC, và hành lý mang theo chỉ là mấy bản
nhạc sến
trong ký ức, và mỗi bản nhạc, nó giống như 1 cái lỗ đen, nén cả một
cuộc
đời của bạn, và có dịp, là nó nổ bùng ra, như 1 cú nổ của mặt trời!
Simone Weil,
to whose writings I am profoundly indebted, says: "Distance is the soul
of
beauty." Yet sometimes keeping distance is nearly impossible. I am A
Child
of Europe, as the title of one of the my poems admits, but that is a
bitter,
sarcastic admission. I am also the author of an autobiographical book
which in
the French translation bears the title Une autre Europe. Undoubtedly,
there
exist two Europes and it happens that we, inhabitants of the second
one, were
destined to descend into "the heart of darkness of the Twentieth
Century." I wouldn't know how to speak about poetry in general. I must
speak of poetry in its encounter with peculiar circumstances of time
and place.
Today, from a perspective, we are able to distinguish outlines of the
events which
by their death-bearing range surpassed all natural disasters known to
us, but
poetry, mine and my contemporaries', whether of inherited or
avant-garde style,
was not prepared to cope with those catastrophes. Like blind men we
groped our
way and were exposed to all the temptations the mind deluded itself
with in our
time.
Czeslaw
Milosz: Nobel
lecture [Diễn
từ Nobel văn chương] Cái gọi là "Distance is the soul
of
beauty", “Khoảng
cách là linh hồn của cái đẹp”, chính là cái khoảng cách giữa 1 bản nhạc
sến bạn
nghe trước 1975, và cũng nó, khi bạn nghe ở trong tù VC!
Khi TTT đọc
truyện đầu tay của Gấu, Những con dã tràng,
gửi thẳng xuống tòa soạn Sáng Tạo, ông về nói với bà cụ, thằng Trụ nó
sẽ đi xa
hơn DNM. Ông không hề nói Gấu viết hay hơn DNM. Điều gì làm ông phán
như thế. Hẳn
là ông tin vào cái sự biết tí ti ngoại ngữ, cái sự học xong Trung Học…
Nói rõ hơn,
với ông, không có thứ nhà văn tự phát hoài hoài, cái mầm văn học ở
trong bạn phải
được nuôi dưỡng bằng kinh nghiệm sống, bằng sức đọc, sức xâm nhập vào
thời của
bạn.
Truyện ngắn
không được đăng, vì Sáng Tạo chết liền sau đó. Sau Gấu thấy tên của
Gấu, khi đó
ký Sơ Dạ Hương, ở trong mục hộp thư của tờ Văn Nghệ của Lý Hoàng Phong,
và "băng"
của ông. Không đăng. Tuy nhiên, Gấu chẳng hề để ý đến nữa. vì còn lo
học. Chỉ mãi
đến khi ăn mìn VC, nằm nhà thương Grall, đọc 1 bài thơ của CTC đăng
trên báo Nghệ Thuật, thì
Gấu mới có lại cái hứng viết. Và đó là cái truyện ngắn Những ngày
ở Sài Gòn.
Khi viết Những
con dã tràng, truyện ngắn hay nhất của Gấu, đúng theo nghĩa
truyện ngắn, tuy được
TTT khen, nhưng bản thân, Gấu biết, đây không phải là dòng văn chương
của mình!
Cái thứ nhân vật hục hặc với đời sống, không phải týp của Gấu. Chỉ đến
khi nhận
ra điều này, thì Gấu mới hiểu “sẽ đi xa hơn DNM”, có nghĩa là gì.
Chỉ đến khi
viết được Những ngày ở Sài Gòn,
thì Gấu mới tin được, mình sẽ trở thành
nhà văn!
Khi đó,
Gấu đã
kiếm ra Thầy của mình.
Khi gặp BHD,
Gấu nhận ra liền, tuổi thơ của thằng cu Bắc Kỳ, nhà quê, thấp thoáng ở
trong
dáng đi, nụ cuời ánh lên mầu da đen nhẻm cùng với chiếc răng khểnh của
Em, là vậy.
Ngoài ra,
còn là nỗi ước mong, BHD cầm giữ suốt cuộc đời còn lại của Gấu!
Hà, hà!
Nhưng, bằng
cách nào mà BHD lại ‘thấu thị’ ra tất cả, và, bèn bỏ Gấu, và vừa đi vừa
ngoái lại,
lắc đầu:
Mi đâu có
thương yêu gì ta! Mi thương một đứa con nít 11 tuổi, là ta đời thuở
nào, và Hà
Nội của mi ở trong con bé con đó!
Khủng khiếp
nhất, là, kể từ khi Gấu lấy một em "miệt vườn" làm vợ, cái xứ Bắc Kít
trả thù mới tàn bạo làm sao: Ta nguyền rủa đời mi, hễ cứ gặp bất kỳ một
em Bắc
Kít, là khốn khổ khốn nạn, là bấn xúc xích, là đều nhìn thấy một BHD
của mi ở
trong em đó!
Cuộc tình
chót đời, vào lúc sắp xuống lỗ, đơn phương, của Gấu, là... tưởng tượng
ra 1 em
Bắc Kít, lấy chồng ngoại, và khi được hỏi, tại sao không lấy Mít, và,
tại sao
không lấy 1 tên Bắc Kít, Em trả lời, tụi khốn đó đâu có biết trọng đàn
bà, nhất
là đàn bà đã có 1 đời chồng mất đi vì cuộc chiến!
Thế là Gấu
bèn tưởng tượng tiếp, ta sẽ là tên Mít đó, tên Bắc Kít đó, và ta nói,
ta yêu
Em, và chắc chắn em sẽ tin.
Nói tiếng Vịt,
tất nhiên:
Anh "thươn" EM!
[Em gốc “rau
muốn”, thành “giá sống”, từ 1954]
Ui chao, Em
tin thiệt!
Gấu nhận được
cái mail sau cùng của Em, chắc là trong mơ, mới tuyệt vời làm sao:
Tui bận lắm,
đâu có thì giờ rảnh mà trả lời mail của anh.
Nào chồng, nào con, nào công việc
chùa chiền, nào.. ‘viết’ nữa.
Nhưng cũng ráng
viết vài dòng…
Ui chao GNV
lại nhớ đến nhân vật của Camus, lo hết cuộc đời trần tục này, rồi nếu
có tí dư,
thì dành cho… trăng sao, và cho Gấu!
Tks. Take
Care. Plse Take Care.
NQT
James Joyce
có lần nói, tất cả các tiểu thuyết gia chỉ có mỗi một chuyện, và họ nói
đi nói
lại hoài, mỗi chuyện đó.
Gấu cũng đã
từng bị mấy đấng độc giả quen biết phán, chỉ có mỗi chuyện Mậu Thân,
đứa
em trai
tử trận, và BHD, kể đi kể lại hoài!
Tuy nhiên,
quái đản nhất, là chuyện BHD: mọi cuộc tình của Gấu, đều chỉ để lập lại
chuyện
tình BHD!
Trừ cô bạn, cô phù dâu
ngày nào.
Khủng khiếp
quá.
Đúng là sự trả thù ngọt
ngào, bi thương, và cũng dã man, tàn nhẫn,
của xứ
Bắc Kít!
COMMENT J'ÉCRIS
Écrire,
c'est passer deux ans sur vingt pages, être absent à son entourage et à
soi-même. Puis, une fois posé le point final, déboucher un bon sancerre
et le
boire en pleurant. C'est aussi le dégoût de se relire et une certaine
satisfaction d'être soi.
ZADlE SMITH. Prospect.
Viết, là mất
mẹ hai năm trời, với đâu chục trang giấy, là vắng mặt, với bạn bè, với
môi trường
chung quanh, và với chính mình.
Và khi chơi
được cái dấu chấm hết to tổ bố, thì bèn mở một chai vang thượng hảo
hạng, chơi một ngụm, và
khóc òa.
Viết cũng còn là nỗi ghê tởm đọc lại, và 1 tí ti hài lòng, tất nhiên,
về mình!
Con Đầm Pích
Đọc số báo đặc biệt về Đứa bé
& Nhà văn, [Le Monde, Phụ trang
Văn học] Gấu thấy Gấu, ở trong thằng bé chưa thành nhà văn Camus: cũng
có một
ông bố bỏ đi mất tiêu. Số phận ông bố của Camus thì quá rõ ràng, ông tử
trận.
Còn ông bố của Gấu thì bị một đấng học trò thủ tiêu, nhưng thực sự ra
sao, thì
chẳng ai hay.
Thế rồi Gấu lại thấy tuổi thơ
của mình sao giống của ‘em’ Nathalie
Sarraute, bị một miền đất chôm mất!
Đọc, bồi hồi nhận ra, hình dáng
trong trí tưởng tượng về một BHD,
là từ cái tuổi thơ bị Miền Bắc giam cầm đó.
Một cách nào đó, có thể nói, BHD bước ra từ cái bóng của… Lolita.
1989. Trong một bài viết ở phía
sau tác phẩm, Nabokov kể lại, phút
hạnh ngộ giữa ông và cô bé kiều diễm, thời gian ông bị những cơn đau
đầu thường
trực hành hạ. Và một thoáng nàng - la palpitation de Lolita - đã lung
linh xuất
hiện, khi ông đang đọc mẩu báo, thuật câu chuyện về một nhà bác học đã
thành
công trong việc dậy vẽ cho một chú khỉ ở một vườn thú. "Tác phẩm đầu
tay" của "con vật đáng thương" là hình ảnh mấy chấn song của cái
chuồng giam giữ nó.
Trong chuyến đi dài chạy trốn quê hương, trong mớ sách vở vội vã mang
theo, tôi
thấy hai cuốn, một của Nabokov, và một của Koestler. Tôi đã đọc
Darkness at
Noon" qua bản dịch "Đêm hay Ngày" do Phòng Thông Tin Hoa Kỳ xuất
bản cùng một thời với những cuốn như "Tôi chọn Tự do"... Chúng vô
tình đánh dấu cuộc di cư vĩ đại với gần một triệu người, trong có một
chú nhỏ
không làm sao quên nổi chiếc chuồng giam giữ thời ấu thơ của mình: Miền
Bắc, Hà-nội.
Lần Cuối Sài Gòn
*
Khi gặp BHD, Gấu nhận ra
liền, tuổi thơ của thằng cu Bắc Kỳ, nhà quê, thấp thoáng ở trong dáng
đi, nụ cuời ánh lên mầu da đen nhẻm cùng với chiếc răng khểnh của Em,
là vậy.
Ngoài ra, còn là nỗi ước mong, BHD cầm giữ suốt cuộc đời còn lại của
Gấu!
Hà, hà!
Nhưng, bằng cách nào mà BHD lại ‘thấu thị’ ra tất cả, và, bèn bỏ Gấu,
và vừa đi vừa ngoái lại, lắc đầu:
Mi đâu có thương yêu gì ta! Mi thương một đứa con nít 11 tuổi, là ta
đời thuở nào, và Hà Nội của mi ở trong con bé con đó!
Khủng khiếp nhất, là, kể
từ khi Gấu lấy một em "miệt vườn" làm vợ, cái xứ Bắc Kít trả thù mới
tàn bạo làm sao: Ta nguyền rủa đời mi, hễ cứ gặp bất kỳ một em Bắc Kít,
là khốn khổ khốn nạn, là bấn xúc xích, là đều nhìn thấy một BHD của mi
ở trong em đó!
Cuộc tình chót đời, vào
lúc sắp xuống lỗ, đơn phương, của Gấu, là... tưởng tượng ra 1 em Bắc
Kít, lấy chồng ngoại, và khi được hỏi, tại sao không lấy Mít, và, tại
sao không lấy 1 tên Bắc Kít, Em trả lời, tụi khốn đó đâu có biết trọng
đàn bà, nhất là đàn bà đã có 1 đời chồng mất đi vì cuộc chiến!
Thế là Gấu bèn tưởng tượng tiếp, ta sẽ là tên Mít đó, tên Bắc Kít đó,
và ta nói, ta yêu Em, và chắc chắn em sẽ tin.
Nói tiếng Vịt, tất nhiên:
Anh "thươn" EM!
[Em gốc “rau muốn”, thành “giá sống”, từ 1954]
Ui chao, Em tin thiệt!
Gấu nhận được cái mail sau
cùng của Em, chắc là trong mơ, mới tuyệt vời làm sao:
Tui bận lắm, đâu có thì
giờ rảnh mà trả lời mail của anh.
Nào chồng, nào con, nào công việc chùa chiền, nào.. ‘viết’ nữa.
Nhưng cũng ráng viết vài dòng…
Ui chao GNV lại nhớ đến
nhân vật của Camus, lo hết cuộc đời trần tục này, rồi nếu có tí dư, thì
dành cho… trăng sao, và cho Gấu!
Tks. Take Care. Plse Take
Care.
NQT
James Joyce có lần nói,
tất cả các tiểu thuyết gia chỉ có mỗi một chuyện, và họ nói đi nói lại
hoài, mỗi chuyện đó.
Gấu cũng đã từng bị mấy đấng độc giả quen biết phán, chỉ có mỗi chuyện
Mậu Thân, đứa em trai tử trận, và BHD, kể đi kể lại hoài!
Tuy nhiên, quái đản nhất,
là chuyện BHD: mọi cuộc tình của Gấu, đều chỉ để lập chuyện tình BHD!
Khủng khiếp quá.
Đúng là sự trả thù ngọt
ngào, bi thương, và cũng dã man, tàn nhẫn, của xứ Bắc Kít!
Đàn anh
Tolstoy phán:
Nè, Chekhov, mi viết truyện ngắn bảnh lắm đó. Nhưng mà mi viết kịch, ẹ
quá.
Tại
sao mi viết kịch, chúng thật khủng.
Mi viết kịch
còn ẹ hơn cả Shakespeare!
Russian
Portraits
The
portraits that follow are from a large number of photographs recently
recovered
from sealed archives in Moscow, some-rumor has it-from a cache in the
bottom of
an elevator shaft. Five of those that follow, Akhmatova, Chekhov (with
dog),
Nabokov, Pasternak (with book), and Tolstoy (on horseback) are from a
volume
entitled The Russian Century, published early last year by Random
House. Seven
photographs from that research, which were not incorporated in The
Russian
Century, are published here for the first time: Bulgakov, Bunin,
Eisenstein (in
a group with Pasternak and Mayakovski), Gorki, Mayakovski, Nabokov
(with mother
and sister), Tolstoy (with Chekhov), and Yesenin. The photographs of
Andreyev,
Babel, and Kharms were supplied by the writers who did the texts on
them. The
photograph of Dostoyevsky is from the Bettmann archives. Writers who
were
thought to have an especial affinity with particular Russian authors
were asked
to provide the accompanying texts. We are immensely in their debt for
their cooperation.
The Paris
Review Winter 1995
Chân Dung
Nga
Những bức hình
sau đây là từ một lố mới kiếm thấy, từ những hồ sơ có đóng mộc ở
Moscow, một vài
bức có giai thoại riêng, thí dụ, đã được giấu kỹ trong ống thông hơi ở
tận đáy
thang máy! Năm trong số, Akhmatova, Chekhov [với con chó], Nabokov,
Pasternak
(với sách), và Tolstoy (cưỡi ngựa), từ một cuốn có tên là Thế Kỷ Nga, xb cuối năm
ngoái [1997], bởi Random House. Bẩy trong cuộc tìm kiếm đó không được
đưa vô cuốn Thế Kỷ Nga, và
được in ở đây, lần thứ nhất: Bulgakov, Bunin,
Eisenstein (trong một nhóm với Pasternak and Mayakovski), Gorki,
Mayakovski,
Nabokov (với mẹ và chị/em) Tolstoy (với Chekhov), and Yesenin. Hình
Andreyev,
Babel, và Kharms, do những nhà văn kiếm ra cung cấp, kèm bài viết của
họ về chúng.
Hình Dostoyevsky, từ hồ sơ Bettmann. Những nhà văn nghe nói có giai
thoại, hay mối
thân quen kỳ tuyệt về những tác giả Nga, thì bèn được chúng tôi yêu
cầu, viết đi,
viết đi, và chúng tôi thực sự cám ơn họ về mối thịnh tình, và món nợ
lớn này.
Và đây là 1
giai thoại, và cũng là 1 mối thân quen kỳ tuyệt:
-Ta đếch phải
là con gái của Mayakovski!
-Có thể passport giả?
-Ở Mẽo người ta không làm passport giả!
Thế nào là đương thời, thế nào
là cổ điển?
-Là một nhà văn đương thời, có
nghĩa là, sẽ có hai nhà phê bình, nếu
ngồi cùng bàn, một khen hết lời, một chê chẳng kém, cuốn sách bạn vừa
mới xuất
bản, trong khi cả hai đều mê Truyện Kiều của Nguyễn Du, hay gần hơn,
tuỳ
bút Nguyễn Tuân.
[Tôi không dám nghĩ tới trường
hợp, cả hai ông đều chửi um lên!]
-Cổ điển, có nghĩa là sống sót
được cả hai thằng cha phê bình
đó!
Ý trên, mô phỏng Virginia
Woolf, trong How it strikes a
contemporary. Riêng về cụm từ "chê chẳng kém", bà nữ sĩ Anh này cay độc
hơn nhiều: cái thứ đó chỉ đáng giấy chùi đít (waste paper), và nếu lửa
đốt
không cháy, thì phải dí vào tận đáy lò.
Ý dưới, từ Coetzee, trong What
is a Classic? Nhà văn Nam Phi này
nhắc tới một bài diễn thuyết cùng tên, của T.S. Elliot, vào tháng Mười
1944, tại
London, khi Đồng Minh đang quần nhau với Nazi tại đất liền (Âu Châu).
Về cuộc
chiến, ông chỉ nhắc tới, bằng cách xin lỗi thính giả, rằng chỉ là tai
nạn của
hiện tại (accidents of the present time), một cái hắt hơi, xỉ mũi, đối
với cuộc
sống của Âu Châu, và nó làm ông không thể sửa soạn chu đáo cho bài nói
chuyện.
"Nhà là nơi một người bắt đầu" [Home is where one starts from],
"Trong cái bắt đầu là cái chấm dứt của tôi" [In my beginning is my
end], nhà thơ cho rằng, để trả lời cho câu hỏi này, chúng ta phải trở
lại với
nhà thơ lớn lao nhất, của "cổ điển của chính thời đại của chúng
ta" (the great poet of the classic of our own times), tức nhà thơ Ba
Lan,
Zbigniew Herbert. Với Herbert, đối nghịch Cổ Điển không phải Lãng Mạn,
mà là
Man Rợ. Với nhà thơ Ba Lan, viết từ mảnh đất văn hóa Tây Phương không
ngừng quần
thảo với những láng giềng man rợ, không phải cứ có được một vài tính
cách quí
báu nào đó, là làm cho cổ điển sống sót man rợ. Nhưng đúng hơn là như
thế này:
Cái sống sót những xấu xa tồi tệ nhất của chủ nghĩa man rợ, và cứ thế
sống sót,
đời này qua đời khác, bởi những con người nhất quyết không chịu buông
xuôi, nhất
quyết bám chặt lấy, với bất cứ mọi tổn thất, (at all costs), cái mà con
người
quyết giữ đó, được gọi là Cổ Điển.
Nữ Hoàng
Trinh Thám & Hitler
Diễn văn của
Bác H[itler] thì vũ như cẩn:
Nước Mít là 1 [C’est un UN] chỉ có, khi có hy sinh và
sức mạnh quân sự. Nhân dân thì phải chết cho xứ Mít, nếu không nhân dân
không đáng
sống vì nước Mít. Miền Nam dân chủ trong sự hèn nhát của nó, sợ chiến
tranh, chẳng
đáng sống sót...
[Le discours
commença comme d'habitude. Le salut viendrait du sacrifice et de la
force des
armes. Les hommes avaient le devoir de mourir pour leur pays, sinon ils
étaient
indignes de vivre pour lui. Les nations démocratiques, dans leur
lâcheté,
avaient peur de la guerre et ne méritaient pas de survivre. Qu'elles
soient
donc défaites, balayées par la force glorieuse de la Jeunesse!
Battez-vous -
battez-vous, encore et encore - pour obtenir la Victoire et hériter de
la
terre!]
Whoever
wishes to remember must trust to oblivion, to the risk entailed in
forgetting
absolutely, and to this wonderful accident that memory then becomes.
-Maurice
Blanchot
Người nào
mong mỏi hoài nhớ chắc hẳn đã tin rằng có lãng quên, tin rằng có sự rủi
ro tiếp
đó là sẽ quên tuốt tuột, và chính từ sự ngẫu nhiên tuyệt vời này mà kỷ
niệm được
hình thành.
Người ta biết
rằng sẽ quên, không chừng quên tuốt, nên biến những gì đáng nhớ thành
ký ức, để
sau này khỏi quên đó mà .
K
I seek
the
crucial region of the soul where absolute Evil and fraternity clash.
-Andre
Malraux
Tôi tìm vùng
chủ yếu của linh hồn, nơi Cái Ác tuyệt đối và tình anh em đụng độ
Gấu mua cuốn
trên lâu lắm rồi, từ cái hồi còn cái tiệm Britnell nổi tiếng nhất, lâu
đời nhất,
của Toronto, kế bên thư viện hách nhất thành phố, Toronto
Reference Library, cũng
là thư viện đầu tiên Gấu tới thăm, liền sau khi tái định cư một,
hai bữa,
khi còn ở trung tâm tiếp nhận người tị nạn, nơi gặp lại cô bạn lần đầu
tiên,
sau bao ngày xa cách, kể từ khi cô lấy chồng, thì cứ nói như thế cho
tiện việc sổ
sách.
Văn
chương hay Cuộc đời.
Bị cái tít, như “tường lửa ngăn chặn”, Gấu cứ nghĩ đây là 1 cuốn tiểu
luận, cho
đến bữa nay, tình cờ vớ được nó, trong đống sách ngổn ngang do dọn
nhà, giở ra đọc, quá tuyệt, vì được viết theo cái kiểu hồi
tưởng, giai
thoại, về những ngày ở Lò Thiêu.
Chương
9, "Ô Saisons, Ô Châtaux.." viết về Milena, và Thư gửi Milena,
của Kafka, đọc thật cảm động. Có thể nói, chương nào cũng như thế. Cứ
như thể,
đây là món quà của 30 Tháng Tư năm nay, của bao nhiêu người đã chết,
gửi nhắn
lại.
Sự
run rủi tuyệt vời từ đó phát sinh kỷ niệm.
Tks.
NQT
Cũng vớ
được
số Granta, Bad Company, Summer
2002, trong có bài của Kundera, Cuộc
Trở Về Vĩ Ðại.
Bài này mà có thì giờ dịch tặng nhà văn Mít lưu vong, “vĩ đại trở về”,
khóc rưng
rức khi nhìn hai lỗ đạn Tây mũi lõ để lại trên thân thể Hà Nội, thì
thật tuyệt!
1968: Bạn tưởng tượng, con phố Lê Lợi, Mậu Thân, và
Cao Bồi, PXA,
bạn GNV, đứng trên terrace, phía bên dưới là tổng hành dinh của Tướng
Givral,
coi đồng hồ, ra lệnh Tổng Tấn Công!
Bây giờ là đầu tháng Tư. Người
Việt nào ở hải ngoại cũng như đang
lên cơn sốt, một cơn sốt lây lan ra từ bang nọ đến bang kia, từ quốc
gia này
sang quốc gia khác, không có thuốc chủng nào ngăn được.
Những cánh rừng
Nhà văn lớn là người kết hôn với đất nước của họ.
Và câu này, cũng đã được tôi sử dụng, khi đọc Nhất Linh. Mối tình lớn
của Nhất
Linh với Miền Bắc, bật ra, khi ông, trong nhân vật thế thân của mình,
là Dũng,
buổi trưa hè "ôi nắng vàng sao mà nhớ nhung" đó, đó, vô tình nhìn
thấy cái áo cánh trắng bên vườn hàng xóm, tự hỏi, của ai đấy nhỉ, và
chợt nhớ
ra là nghỉ hè, và Loan đi học ở tỉnh trở về nhà.
Nhưng với TMT, còn hơn thế nữa.
Bà chỉ có thể kết hôn với ngôn
ngữ, bởi vì quê hương của bà không còn.
Đây cũng là điều Brodsky nói
ra, khi được hỏi, và ông trả lời, tôi
hết còn tin vào cái xứ sở đó.
Nhưng, khác Brodsky, những
người như TMT, họ chứng kiến cái giây
phút hấp hối của xứ sở, khi ngoái nhìn lại, những ngày 30 Tháng Tư
1975. Kinh
nghiệm này, Kundera cũng đã từng sống vào năm 1968, khi Liên
Xô xâm lăng
xứ sở của ông, và ông bảo, nó đau như là một trận cháy nhà. [Trong Le
Rideau, Bức Màn]
Nhà văn người
Nhật Kawabata, Nobel văn chương 1968, trong bài mở đầu tập truyện
"Những
truyện ngắn ở trong lòng bàn tay", viết: Những người viết, khi trẻ
thường
làm thơ. Tôi, thay vì làm thơ, viết những truyện trong lòng bàn tay....
Tinh thần
thi ca những ngày trẻ thơ của tôi sống mãi ở trong chúng".
Biển,
của Miêng cũng thuộc loại truyện lòng
tay. Đọc, tôi nghĩ, ngoài tinh thần thi ca ra, còn có những giọt nước
cam lồ nhỏ
xuống cho cả một thế hệ: một người đàn bà khóc thương một người đàn ông
mất trí
nằm trong bệnh viện và trong những giờ phút cuối cùng, người đàn ông
lầm vị nữ
bồ tát với người vợ đã chết, cùng với con cái, trong lần vượt biển.
Lầm
lẫn, có lẽ không phải như vậy. Hoặc đây là
giá trị biểu kiến của truyện. Trong cuốn Chữ và Vật, Michel Foucault
cho rằng
người điên, hay Kẻ Khác (l'Autre), là một người nhìn tất cả sự vật đều
giống
nhau, khác với người bình thường, hay Kẻ Vẫn Thế (le Même). Cũng trong
cuốn
sách, ông cho rằng tự tử là phán đoán sáng suốt cuối cùng của một con
người
bình thường.
Nếu
chúng ta chấp nhận hành động vượt biển
như là phán đoán sáng suốt sau cùng, như vậy người đàn ông sống sót
trong khi vợ
con chết hết, đã thực sự tin rằng người đàn bà đang nhỏ lệ là vợ của
ông. Cũng
tương tự như vậy - và đây là ý nghĩa đích thực của truyện ngắn theo tôi
-
"sự thực" xuất hiện, khi người đàn bà gọi điện thoại cho chồng:
"... Xong rồi anh ạ... trong tay em".
Camus
có truyện ngắn "Người đàn bà ngoại
tình", câu chuyện về một người đàn bà, đêm đêm, sau khi làm xong hết
bổn
phận của người vợ, trong cuộc lữ của cả hai vợ chồng, đã len lén thoát
ra
ngoài, để ngắm trời ngắm sao... Đây là một đề tài lớn của dòng văn
chương hiện
sinh, theo tôi, thoát thai từ truyện ngắn "Before the Law", của
Kafka.
Đây
là câu chuyện một người nhà quê ra tỉnh,
tới trước "Pháp Luật", tính vô coi cho biết, nhưng bị người lính gác
cản lại. "Anh vô được mà, nhưng đợi chút xíu nữa đi". Chờ hoài chở hủy,
chút xíu nữa đi hoá ra là cả một cuộc đời. Trước khi chết, anh nhà quê
phều
phào hỏi, tại sao chỉ có một mình anh tính vô chơi, coi cho biết; người
lính
gác nói: cửa này chỉ mở ra cho anh, tôi đứng đây, cũng chỉ vì anh;
nhưng bây giờ
anh đâu cần tới nữa, và tôi cũng xong bổn phận ở đây. Nói xong anh bỏ
đi.
Trong
truyện ngắn Evelyne của James
Joyce,
trong tập "Những người dân thành phố Dublin", người lính của Kafka xuất
hiện qua anh chàng thuỷ thủ tầu viễn dương. Một người yêu thương, và có
đủ điều
kiện để đưa cô gái Evelyne tới một cuộc sống khác tốt đẹp hơn; nhưng
tới giờ
phút chót, cô gái quyết định "ở lại".
Truyện
ngắn Biển, của Miêng, bằng
những tình
cảm độ lượng thoát thai từ tinh thần Phật giáo, theo tôi, đã đưa ra một
đề nghị
chót cho vấn nạn người đàn bà ngoại tình. Bằng hành động "trong tay
em", người đàn bà đã vượt quá "Luật Pháp", ôm cả hai cuộc đời,
bên trong và bên ngoài cánh cửa (lưu đầy và quê nhà?), nhập làm một.
Linh
Hồn Của Biển
Bài đọc Biển
của Miêng, Gấu đọc lại, và thấy khác
hẳn, bản được in trong Lần Cuối Sài Gòn,
và đoạn viết về TMT, mất tiêu luôn.
Scan lại ở đây,
toàn bài viết, như được in trên giấy.
Bài đọc sách
này, được đăng trên Văn Học
của NMG, và ông chủ chi địa, chắc cũng ngại sau cái
cú "cái tai người", bèn "hiệu đính" cụm từ “nữ bồ tát”, và thay bằng vị
“nữ tu”!
Trong bài điểm
có nhắc tới câu của Adorno, khiến VD, nhà văn hàng đầu hải ngoại bực,
phán, tay
này “vung tay quá trán”, chứng cớ sau Lò Thiêu vẫn có Ðêm
Tận Thất Thanh, một đóa kỳ hoa dị thảo, của PNN! (1)
(1)
GNV là người
đầu tiên giới thiệu tới độc giả Mít, "hơn
một" tác giả mũi lõ, đa số họ, GNV biết tới, là nhờ đọc tờ Partisan
Review. [Kundera, Gấu cũng là thằng đầu tiên giới thiệu, khi giữ
mục Tạp
Ghi cho tờ Văn Học của NMG: Mùa Thu những di dân].
Kỷ niệm thú vị có lẽ cũng nhiều, để nhẩn nha nhớ lại, nhưng 1 trong số
đó, là,
lần giới thiệu Adorno và câu nói nổi tiếng của ông: “Làm thơ sau
Auschzitz thì
thật là dã man”. Nhà văn hàng đầu hải ngoại Võ Đình bực lắm, phán,
thằng cha
Adorno này là ai mà vung tay quá tr[ch]án. Và ông chứng minh, sau Lò
Thiêu vẫn
có thơ, và đó là thơ của Phan Nhật Nam: Đêm tận thất thanh! (2)
Tuy nhiên, không chỉ một Võ
Đình bực vì câu nói của thằng cha
Adorno. Czeslaw Milosz cũng nực. Trong bài viết ngắn, viết về ‘hậu môn
của thế
giới’, ông cho biết, chính là vào cái năm ông ở hậu môn thế giới, ở Ba
Lan, ông
làm được thơ, và thơ cũng không tệ.
Cái tác phẩm của bậc thầy về Lò Thiêu vừa mới tái khám phá ra
được, A lost master of the Holocaust, chính là tác phẩm được viết khi
tác giả
của nó ở… Lò Thiêu!
(2)
Đêm Tận Thất Thanh.
Văn Học số Xuân Đinh Sửu
[129&130], trong phần Tạp Ghi, ông Nguyễn Quốc Trụ
viết: "... rằng sau Auschwitz, 'nếu cá nhân nào đó mà còn làm được thơ
thì
thật là dã man' (sic), và 'mọi văn hóa sau Auschwitz chỉ là rác rưởi'.
Tôi chưa từng được quen biết,
trong lãnh vực văn học, ông Adorno này, nên không
lạm bàn rông rài. Chỉ "trộm" nghĩ rằng câu nói của ông [ta] có vẻ
như... "vung tay quá trán". Có thể đổi được chăng những câu phê phán
này thành... "sau Auschwitz mà còn làm thơ... Trời ơi, Tuyệt!"?
Hay là, "Mọi văn hóa sau Auschwitz là những nhánh kỳ hoa bung lên từ
bãi
dơ bầy nhầy, ruồi nhặng sâu bọ lúc nhúc, thối um"?
Đêm Tận Thất Thanh là một nhánh kỳ hoa đó...
Tôi không may mắn (?) từng đọc tác giả Adorno nói trên....
Loxahatchee, Florida 5-2-97
24 tiếng trước Tết Đinh Sửu, ở Việt Nam
Võ Đình
Trên đây trích
từ bài viết của
Võ Đình, ở cuối cuốn Đêm Tận
Thất Thanh của "bạn ta" là Phan Nhật Nam. Trong cuốn sách bạn ta
tặng, buổi tối tại nhà Nguyễn Đình Thuần. Với lời đề tặng:
Của Ông Sơ Dạ Hương với tình thân 30 năm Nguyễn Quốc Trụ, La Pagode.
CA Oct/28/2003.
PNN ký tên.
Tình Ðầu
Đám thanh
thiếu niên ồn ào, náo động là lũ chúng tôi đó dần dần rã ra cùng với
mùa hè kết
thúc, và rồi những cơn bão lodos chợt
tới với thành phố, quất túi bụi lên những
bến cảng vào mỗi tháng Chín, đuổi chạy có cờ mấy chiếc thuyền buồm, ghe
máy chậm
chân. Trong khi mưa cứ thế trút xuống, Bông Hồng Đen, lúc này đã mười
bẩy tuổi,
chẳng biết làm gì cho qua thì giờ, bèn ghé thăm căn phòng mà tôi thường
ngồi vẽ,
vào những giờ phút trọng đại như thế, tôi ban cho nó một cái tên thật
xứng đáng
với nàng: xưởng họa của tôi. Tất cả những bạn bè của tôi cũng thỉnh
thoảng ghé,
cũng bầy đặt thử tài hội họa, này, đưa tao cây bút chì, cho tao tờ giấy
vẽ,
trong khi nhìn với cặp mắt đầy nghi ngờ những cuốn sách của tôi, và
chuyện này
thì cũng chẳng có gì là lạ, so với tai tiếng của Gấu. Như tất cả hầu
hết đám
chúng tôi sống ở Thổ nhĩ kỳ thời kỳ này, giầu hay nghèo, nam hay nữ,
Bông Hồng
Đen cũng cần chuyện vãn để cho qua ngày, và đỡ buồn.
Vào lúc bắt
đầu, chúng tôi chia sẻ với nhau ba chuyện ngồi lê đôi mách, những câu
chuyện
thuộc loại rỉ tai lưu truyền trong đám bạn bè mùa hè vừa qua - đứa nào
mê đứa
nào, và đứa nào vì vậy mà ghen đến điên lên – tuy nhiên, tôi thực sự
chẳng để ý
đến mấy chuyện đó. Bởi vì nhiều khi tay tôi dính sơn, cho nên, có khi,
nàng
giúp tôi pha trà, hay mở một tuýp mầu, trước khi trở về chỗ của nàng
hay ngồi, ở
một góc phòng, và, đá văng đôi giầy ra khỏi đôi bàn chân, nàng nằm dài
ra đi
văng, lấy một cánh tay làm gối. Một bữa, không nói với nàng, tôi đi một
đường
ký họa, cảnh nàng nằm dài trên đi văng. Tôi nhận thấy, nàng có vẻ
thích, và thế
là lần tới, tôi chơi thêm một bức ký họa nữa.
Lần tới, khi
tôi nói, tôi sẽ vẽ nàng, nàng hỏi, “Anh muốn em ngồi như thế nào?” như
một kiều
nữ chưa từng bao giờ đứng trước máy quay phim, hay như một ngôi sao nho
nhỏ ước
ao sẽ có ngày trở thành đại minh tinh, run run, không biết để tay để
chân như
thế nào, và ở đâu.
Khi tôi ngắm
nghiá cái mũi dài của nàng, để vẽ cho thật tới, một nụ cười thấp thoáng
trên miệng
nàng; ôi trán nàng mới cao làm sao, dáng nàng thì cao, với đôi chân
dài, mầu nắng
hun, nhưng khi nàng đến thăm tôi, nàng mặc một cái váy dài, bó sát
người, thật
nhã, chiếc áo này là của bà nàng truyền lại, thành thử tôi chỉ nhìn
thấy đôi
bàn chân thon thon của nàng. Trong khi phác họa, trong khi trầm tư,
chiêm ngưỡng
những làn cong mềm mại của hai trái cau, hay hai trái đào, hay hai gò
bồng đảo
nho nhỏ, và làn da trắng một cách lạ thường ở nơi cổ cao, một cái bóng
của ngượng
ngùng, và tủi thẹn, bỗng nhẹ nhàng lướt qua khuôn mặt thiên thần.
Vào những lần
đầu đến thăm, chúng tôi nói chuyện thật nhiều, và nàng là người hay
nói. Bởi vì
tôi gạn lọc ra, một chút mây mù ở trong đôi mắt, và trên đôi môi, và
nói như
giao hẹn, này đừng có bao giờ buồn như vậy nữa nhé, và nàng như được
dịp, xổ
tung ra, những trận cãi cọ giữa hai đấng sinh thành, và những trận thư
hùng giữa
bốn ông em trai, và sự trừng phạt của ông bố đối với chúng (những cái
bạt tai,
đá đít, cấm ra khỏi nhà, cấm “ra biển gọi thầm”, trên những chiếc
thuyền máy) –
và nỗi buồn bã, xót xa của bà mẹ khi ông bố chỉ lo săn đuổi những người
đàn bà
khác, nàng nói, nàng nói chuyện đó, vì nàng biết mẹ nàng và mẹ tôi là
hai bạn
chơi bài, và cũng đã từng than thở với nhau nhiều lần, về chuyện hai
ông bố
cùng mê chạy theo gái, và khi nói những chuyện đó, nàng nhìn thẳng vào
mắt tôi.
Dần dần,
cả
hai đứa chúng tôi chìm vào im lặng. Có những lần, khi tới thăm, nàng
bước thẳng
tới chỗ nàng thuờng hay ngồi, hay nàng sẽ ngồi, nơi ngồi làm mẫu (những
bức ký
họa của tôi thời gian này ảnh hưởng nặng nề Bonnard), hay nàng sẽ mở ra
coi một
cuốn sách tình cờ có đó, và nằm đọc trên sô pha, lâu lâu đổi cách nằm.
Những lần
sau này, vẽ hay không vẽ, thì cũng thành lệ: nàng gõ cửa, và đi vô
phòng, chúng
tôi cũng chẳng nói chi nhiều ngoài một hai câu chào hỏi, và tới nằm tại
một góc
đi văng, và đọc cuốn sách của nàng mang theo, đôi khi, từ khoé mắt,
nàng nhìn
tôi đang vẽ nàng. Sáng nào cũng vậy, cũng thành lệ, làm việc được một
chút, là
tôi nghĩ tới nàng, và tự hỏi, khi nào nàng tới, và như thể nàng cũng
biết như vậy,
cho nên ít khi nàng bắt tôi phải chờ đợi lâu, và khi nàng tới, là tới
cùng với
nàng nụ cười, hơi có vẻ bẽn lẽn, và trong một dáng điệu như muốn bầy
tỏ, này
hãy tha lỗi cho em, nếu em có làm phiền gì đến anh, nếu em có đến muộn,
và
trong cái dáng điệu hãy bỏ qua cho em như thế đó, nàng tới góc đi văng
quen thuộc,
và trải người xuống.
Đọc
"Istanbul" bỗng dưng thấy nhớ
Việt Nam, nhớ những ngày xưa kinh khủng.
Thich lam
giong tra^m` tra^m`, thi` tha^`m trong "Istanbul", nhat la`
"Tinh Dau", hay qua' !!!
Congrat.
I wish you
will have another book...
Note: Sorry,
but I Miss Your Mail So Much. NQT
NQT & Kiệt
Tấn, Paris 1999
Nguyễn Nhật
Duật [đeo kính, thứ nhì, phía bên trái, phía cửa]
Tưởng
nhớ Nguyễn
Nhật
Duật
GNV &
HPA @ Paris, 1999
Roberto
Bolaño
Ai Dám
The books
that I remember best are the ones I stole in Mexico City, between the
ages of
sixteen and nineteen....
Ðọc, là GNV
nhớ những lần chôm sách ở 1 tiệm cho thuê truyện ở Chợ Hôm, Hà Nội....
Tính dịch
bài này, nhân tiện đi một đường thú tội trước bàn thờ nhưng bạn NL đã
nhanh tay
lẹ chân hơn. Thế là lại cất cái vụ thú tội đi, để khi nào rảnh vậy!
Gặp lại Thảo
Trường lần đầu, ở hải ngoại, 1990, đúng thời gian xẩy ra vụ Trần
Trường, tại
Car Wash của ông con trai của anh.
Gấu khi đó còn không biết sử dụng máy chụp hình!
Nguyễn Đình
Toàn kể, trong một buổi họp đầu thập niên (19)60 ở nhà xuất bản Cơ Sở
Xuất Bản
Tự Do, đường Võ Tánh, Saigon, cũ, cùng với nhà văn Thảo Trưởng, ông
được mời
tham dự, cùng nhiều nhân vật thuộc hàng “lão làng” thời đó.
Một trong những
nhân vật “lão làng” này là nhà văn Hiếu Chân (tức Nguyễn Hoạt). Ông hỏi
một
nhân vật “lão làng” ngồi cạnh:
“Hai thằng
nhóc nào vậy?”
Ông này đáp:
“Đó là tác
giả “Chị em Hải” và “Thử lửa.” (1)
Tác giả “Tỵ
Bái” thản nhiên bảo:
“Mang cho
chúng nó hai ly sữa!”
DTL
(1) Hai tác phẩm trên, do Tự Do xb. NQT
Cái kỷ niệm
này, phải để vào đúng cái thời của nó, thì mới hiểu được.
Gấu cũng đã bị,
chính ông thầy của mình, là nhà văn Doãn Quốc Sĩ phán như trên, có thể
nói như
thế.
Bởi vì cái món
giải khát thịnh hành nhất vào những năm đó, là 1 ly sữa, sữa tươi, chứ
không phải 1 ly cà
phê.
Lần đó, Gấu
nhớ là Gấu vô quán giải khát trên đường Lê Lợi vì có hẹn với BHD. Quán
Kim Sơn,
nằm phía bên trái tiệm sách Khai Trí. Thấy Mai Thảo đang ngồi với Doãn
Quốc Sĩ,
Gấu đành kéo ghế ké né ngồi, và khi bồi tới, Gấu nói, cho ly sữa tươi.
Ông thầy
cũ ngạc nhiên quá, vẫn uống thứ đó hả, là nhà văn rồi mà!
Gấu ngồi với
BHD, chuyên môn kêu hai ly sữa, suốt cả 1 cuộc tình!
Buổi sáng, thì khác. Hai ly
cà phê sữa, thứ cà phê túi, ở 1 tiệm hủ tíu Tầu, trên đường tới trường
Gia
Long, Gấu đã kể trong
Tứ tấu khúc
Cái nửa giống chòi
nửa giống nhà chỉ có hai tấm vách. Cột cặm
vào đất, cây to cây nhỏ cây thì cong queo. Cái bàn nhổ mạ được trưng
dụng làm
bàn thờ, thứ duy nhất còn đứng vững, những thứ còn lại liêu xiêu. Lại
gần thì
thấy bàn thờ cũng bị mọt ăn rách ván. Ngồi dưới vỏ lãi ngó lên nghĩ nhà
ông Cà
Bi này nghèo quá xá, càng tới gần càng nhận ra chẳng những nghèo mà là
nghèo
thứ thiệt, nghèo tận mạng, tới cái võng ông nằm ngủ trưa cũng te tua.
Cả đoàn thiện nguyện ai nấy đều xót xa. Năm nào cũng rủ nhau đi làm từ
thiện,
cảnh nghèo gì cũng thấy qua nhưng nghèo kiểu ông Cà Bi thì lâu lâu mới
gặp.
Trong nhà không thấy món đồ nào đáng giá chừng hai mươi ngàn, đến mùng
ngủ mà
chỉ có nửa cái. Có người mò vô bếp thấy cơm cháy trong cái nồi móp méo
với hai
con cá sặt kho khô quắt. Ông già Cà Bi dửng dưng ngó khách lục lọi nhà
mình,
ngồi uống trà khà khà. Chẳng nhận ra ở ông chút tủi buồn nào. Hỏi ông
sống bằng
gì, ông nói “cắm câu, mần mướn, ai kêu gì cũng mần”. Hỏi sao nhà chỉ có
hai
vách, ông nói “mùa này nắng nôi, qua để trống vách cho mát, chừng nào
mưa tính
tiếp”. Ai đó rưng rưng chỉ cái nóc nhà thưa ngó trời lồng lộng, ông già
cười,
“chỗ ngủ với bàn thờ vợ qua có che nilông rồi, chỉ cần không ướt hai
chỗ đó…”.
Hỏi có tiền không, ông nói tiền để rải rác trong xóm. Anh thanh niên
địa phương
dẫn đường sợ khách xa không hiểu, giải thích: “Ý ổng là ổng sẽ có tiền
khi
người ta mướn sên đất, dọn dừa, hay đắp bờ lên liếp…”.
Lúc ngồi dưới vỏ thì anh thanh niên tả sơ sơ chân dung ông Cà Bi. Anh
nói ông
này làm buổi sáng đủ tiền nhậu thì chiều không làm nữa. Có khi làm suốt
tuần
bỗng nghỉ ngang, ăn xài hết phần tiền đó rồi lại lang thang kiếm việc.
Một năm
nhà ông Cà Bi ăn tới bốn cái tết, mỗi tết ít nhất cũng mười ngày. Có
tiền trong
túi đồng nghĩa với hội hè, ông Cà Bi ta sẽ đủng đỉnh rong chơi. “Chơi
kiểu đó
ổng nghèo là phải…”, anh thanh niên dường như giận.
Giận là phải. Khách cũng thấy hơi giận. Ông già có vẻ tự hào về việc
ham chơi
dẫn đến “vô sản” của mình. Thay vì ne nép trước nhà giàu, ông già ngồi
trên bộ
vạt cau cũng rách mà điệu bộ khoan thai khoái chí như đang tiếp khách
ở… dinh
Thống Nhất. Vợ chết, ba đứa con đã dựng vợ gả chồng làm ăn xứ khác, ông
già
kiếm sống một mình. Ông treo võng trên mấy cái cây trồng quanh nhà,
nắng sớm
nằm đòng đưa bên vách tây, chiều ngủ khò bên vách đông tránh mặt trời.
Quởn thì
cuốc bộ đi chùa, cách đây chừng mười cây số. Nhà không điện, nước sạch,
không
tivi, radio cũng không và tất nhiên là không cửa (đâu có cần thiết).
Vậy mà lúc anh giám đốc ngân hàng thay mặt đoàn thiện nguyện tặng ông
già phần
tiền an ủi đời nghèo, ông già chỉ giữ lấy một tờ giấy bạc năm mươi
ngàn, còn
bao nhiêu đưa trả lại. “Nhiêu đây đủ cho qua rồi. Mua gạo ăn tới ngày
mốt, dư
ra chút đỉnh đong rượu nhâm nhi chơi. Ít bữa nữa đi sên đìa cho bên xóm
là qua có
tiền. Phần còn lại này chú em đem cho thằng Tám bên sông giùm, con nó
bệnh nặng
dữ lắm – nói rồi ông Cà Bi lỏn lẻn nhét tiền vô túi cười phô ra ba cái
răng xếu
xáo, mặt tỉnh rụi – Có tiền nhiều giống như có con vợ đẹp, mắc công
giữ…”
Anh chủ nhà máy gạch bất mãn, anh có tiền tỉ còn chưa thấy đủ, sá gì ít
chục
ngàn… Anh nói “cũng phải để dành tiền phòng khi đau bệnh chớ chú, mà
không lẽ
chú ăn cơm không, phải có thịt thà cá mắm…”. Ông già Cà Bi vận cái quần
cộc
nhuộm mủ chuối lem luốc, chờ qua cơn nghẹn nước trà mới khề khà bảo đau
yếu sơ
sơ thì uống thuốc nam, cây cỏ ở đất Xẻo Quao này nhiều thứ nên thuốc
lắm. Đau
nặng nữa thì bất quá chết, có tiền cũng chết mà. “Còn cá mắm hả, chậc,
cần thì
chống xuồng qua Trảng Sen thiếu cha gì. Mà, mấy chú có qua Trảng Sen
chơi
chưa?” – ông già bất ngờ hỏi.
Chưa. Sáng nay họ tính đi tặng quà cho bà con nghèo xong sẽ ra Trảng
Sen chơi,
nghe khen chỗ đó còn hoang sơ lắm, nhưng ai cũng sợ chiều không về kịp,
mà một
số người còn phải đi suốt đêm nay để về lại Sài Gòn, nhiều công việc,
nhiều
tiệc tùng, hò hẹn, nhiều hợp đồng làm ăn quan trọng đang đợi. Ông Cà Bi
nghe
qua lắc đầu chua xót nói, “tội nghiệp không!”.
Ngữ điệu của ông già làm khách giận lắm, xuống vỏ chạy đi xa rồi mà còn
giận.
Chúng tôi đây không lười biếng ham chơi, đầu tắt mặt tối làm ăn kiếm
tiền để
cuối năm đi thơm thảo với người nghèo như vầy là quá tốt, ông già nói
tội
nghiệp là tội nghiệp gì?! Anh thanh niên địa phương xoa dịu nói ông già
đó
tưởng đâu ai cũng ham chơi như ổng.
Nhưng khách còn giận ông Cà Bi, tới mức quyết định ra… Trảng Sen chơi.
Cái ông
già nghèo xác xơ đó có gì mà lại thương hại cho tụi ta chớ…
*
No one
really knows whether or not grass did grow again where
Genghis Khan had passed; there is no one left to look.”
Steiner: De Profundis [viết về Solz và Quần đảo Gulag]
[Dịch kiểu phóng bút của... anh cu Gấu: Chẳng ai biết cỏ mọc lại hay là
không
nơi -Cánh Đồng Bất Tận - vó ngựa “Thành Cát Tư Hãn” tràn qua bởi vì đâu
còn ai
để mà nhìn thấy]
Nhưng chưa
khủng bằng câu sau
đây:
“Anthropology”, says Lévi-Strauss in concluding Tristes Tropiques, can
now be
seen as “entropology”: the study of man has become the study of
disintegration
and certain extinction.
Steiner trích dẫn, trong bài viết về Lévi-Strauss: The Lost Garden
[Việc nghiên cứu ông Cà Bi và những hậu duệ của ông trở
thành việc nghiên
cứu một sự phân huỷ từ người biến thành bọ…]
Nguồn