1
2
3
4
|
Tôi
Cùng
Gió Mùa
Trong một bài viết, Borges bàn về giao tình giữa mù lòa và thơ ca, mà
thí dụ
hiển nhiên nhất, là trường hợp Homer.
Chúng ta biết, ông viết, ngoài Homer, còn một tay Greek nữa, cũng mù,
là
Tamiris, mà những tác phẩm đều đã bị mất. Ông Tamiris này uýnh nhau với
mấy nữ
thần thi ca, và thua, thế là bị mất cây đàn lyre, và.. cặp mắt!
Vẫn Borges cho biết, Oscar Wilde có một giả thuyết rất ư là kỳ cục, một
giả
thuyết mà người ta coi là sai, nếu nói về tính lịch sử của nó, nhưng
thật thú
vị, về mặt trí tuệ. Thường ra, những nhà văn chỉ khoái làm cái điều mà
họ coi
là sâu xa; Wilde là người sâu xa, nhưng cố làm ra tầm phào, nhố nhăng.
Ông muốn
chúng ta nghĩ về ông, như là một tay bảo thủ; ông ta muốn chúng ta coi
ông, như
Plato nghĩ về thơ, như một "điều có cánh, thất thường, và thiêng
liêng" ["that winged, fickle, sacred thing"]. Well, cái điều có
cánh, thất thường, và thiêng liêng được gọi là Wilde đó, nói, Cổ Xưa,
The
Antiquity, hơi bị thích, cố tình, coi Homer, mù! [Chắc là theo kiểu
"Bắt
phong trần phải phong trần"?]
Chúng ta không biết, liệu có một Homer? Sự kiện, có tới 7 thành phố
giành giật,
chôm, ăn cắp, tên của ông, khiến chúng ta nghi ngờ tính cách sử tính
của ông
[his historicity]. Có lẽ, chẳng hề có, trần một Homer. Có lẽ có rất
nhiều người
Greek giấu mình dưới cùng một cái tên Homer?
*
Gấu lật lật Borges và vớ được đoạn trên, và bèn đưa ra một giả thuyết,
nhân cái
vụ ba ông hiền giả, chẳng biết ông nào số 1, số 2, số 3: Liệu sau này,
'nhân
loại' muốn, cố tình, nhập, ba ông thành một?
*
Thơ Nguyễn
Xuân Thiệp không có tiểu xảo, do đó viết về anh tuy dễ mà khó. Khó khi
trích
dẫn : thành tâm “ trích diễm ” hoá ra vô tình xuyên tạc ; tỉa
lẻ một
câu thơ hay, chứng minh được đặc sắc mà không nói lên chức năng của nó
trong toàn
bộ bài thơ và tập thơ, thì chưa trung thực.
Đặng Tiến đọc Nguyễn Xuân Thiệp.
Coetzee cũng phán như vậy, về nhà thơ Hugo Claus, dễ mà khó. Trẻ con mà
thượng
thừa.
Đưa cái nhìn nhăn nhó về chính mình, qua những con mắt chê bai, mi là
một thứ
phế thải, của những thế hệ trẻ hơn, Claus loay hoay, hì hục, manage,
tóm tắt
đời mình, những khúc, những đoạn có giá nhất của thơ ca của ông. Quả
thực, ông
cố giữ một khoảng cách với thế giới hiện đại, [tuy nhiên, bằng một cách
có ngụ
ý, so với cách mà những người chỉ trích ông nhận ra], ông ý thức nhiều
đến
chuyện, làm thế nào tác phẩm của riêng ông liên hệ tới truyền thống văn
học,
hoặc theo tính quốc gia, hoặc theo tính Âu Châu. Ông quả đúng là bậc
thầy về
thể thơ, verse form, thầy đến nỗi, ông có thể biến những truông, những
phá,
những lên thác xuống ghềnh thiên nan vạn nan thành trò trẻ con, dễ ợt,
[Gấu
bỗng nhớ đến tiếng đàn của Thánh Cô, khi đàn bản Tiếu Ngạo Giang Hồ
lần
đầu, ở cái ngõ trúc gì gì đó, khiến chàng Lệnh Hồ Xung ngẩn ngơ, và,
một độc giả
mắt xanh của Kim Dung, có thể mơ hồ hình dung ra cuộc tình sau đó. Đó
mới đúng
là phục bút!].
Thanh Tâm Tuyền cũng có cái băn khoăn, như Claus, từ khi thoạt kỳ thuỷ,
trong
Tôi không còn cô độc: Không đa đa siêu thực, thẳng từ ca dao qua tự
do.
*
Trở lại với tiếng đàn của Kim Dung. Ông là bậc đại tài, khi, vào đúng
lúc bất
ngờ, ra đòn. Trong Cô Gái Đồ Long, khi Côn Luân Tam Thánh gặp Quách
Tường, đúng
vào lúc bất ngờ nhất, tiếng đàn tỏ tình bật ra. Nhưng mối tình đó, hay,
đúng
ra, cái echo của nó, phải mãi sau này, mới vọng lên, qua những tiếng
lảm nhảm
tên người đẹp, Hân Tố Tố, của hai đệ tử, còn là anh em ruột, bị tiếng
sư tử
hống của Tạ Tốn biến thành mất trí.
Kim Dung là bậc thầy, ở cái điểm, đốt lên, hai lần, một cây diêm.
Nhưng điều này thì liên quan gì tới thơ Nguyễn Xuân Thiệp?
*
Thi sĩ phải thôi đi sao?
Lần đầu tiên, tôi ((NQT) làm
quen với G. Steiner, nhân chuyến ghé thư viện Toronto, Canada, tình cờ
cầm cuốn Ngôn Ngữ và Câm Lặng, lật đúng bài Nhà Văn và
chủ nghĩa Cộng Sản,
trong có nhắc tới cuốn Bác Sĩ [Dr] Zhivago của
Pasternak,
vốn là một trong những cuốn vỡ lòng của tôi. Thế là photocopy ngay tại
chỗ, về
nhà dịch liền, gửi đăng trên tạp chí Hợp Lưu ở Mỹ.
*
Thuở mới lớn, tôi "mê" Roland Barthes, cách ông đặt vấn đề ngôn ngữ
văn chương, ngôn ngữ phê bình... G. Steiner mở cho tôi chiều sâu tối
đen của
ngôn ngữ, sự câm lặng:
"Thi sĩ phải thôi đi sao? Trong một thời đại mà con người bị khiến phải
thổi
kèn đồng [hãy nhớ những dòng thơ xưng tụng Stalin của Tố Hữu, chẳng
hạn], hoặc
tru tréo nỗi khổ đau của mình như sâu bọ, như lũ chuột, tiếng nói văn
chương,
thứ tiếng mang tính người nhất trong tất cả mọi thứ: liệu có còn được
không?"
(Should the poet cease? In a time when men are made to pipe or squeak
their
sufferings like beetles and mice, is literate speech, of all things the
most
human, still possible?)
*
Hai từ thôi và sao,
là của Nguyễn Tiến Văn. Hình ảnh Tố Hữu thổi kèn đồng, thay vì thổi ống
đu đủ,
cũng của anh.
Anh
là người giúp đỡ Gấu rất nhiều, thời gian dịch Steiner.
Gấu
tập tành dịch tiếng Anh qua tiếng Việt, bằng cách dịch Steiner và
Borges.
Ui
chao, chỉ nội hai chữ đó, là đủ thấy, bản tiếng Việt, bảnh hơn rất
nhiều, so
với nguyên tác.
Nguyên
tác hàm chứa trong nó, câu thơ của Holderlin: Tại sao thi sĩ trong
thời điêu đứng?
Nhưng
hai chữ
thôi sao
lại qui chiếu về một giai thoại tuyệt vời, về một
thời đại hoàng kim của thơ, thời thơ Đường, và, về một thi sĩ, Giả Đảo.
*
Gấu
đã từng lèm bèm nhiều lần về cái duyên nợ Steiner.
Nếu
không gặp ông, chắc chẳng có trang Tin Văn.
Đi thi nhiều lần
không đậu,
làm tăng ở Lạc Dương, pháp danh là Vô Bản. Thường làm thơ than thân, có
câu:
"Bất như ngưu dữ dương. Do đắc nhật mộ qui" [Không bằng kiếp trâu dê,
tối đến còn được về].
Khi
ở Trường An, có lần Giả Đảo đi giữa đường, ngâm nga tìm vế đối cho câu
"Lạc diệp mãn Trường An" [Lá rụng đầy Trường An], chợt nghĩ ra câu "Thu
phong xuy Vị Thủy" [Gió thu thổi sông Vị], thì xô phải quan Kinh Triệu
doãn Lưu Thế Sở, bị trói mất một buổi chiều. Lại có lần cưỡi lừa ngâm
thơ, được
hai câu "Điểu túc trì biên thụ, Tăng xao nguyệt hạ môn" [Chim ngủ cây
bên ao, sư gõ cửa dưới ánh trăng], đang do dự không biết nên dùng chữ
"thôi" [đẩy], hay chữ "xao" [gõ], vừa đi vừa làm điệu bộ, không
để ý đến xe của quan Kinh Triệu doãn đi qua. Chính là Hàn Dũ. Ông Hàn
bèn dừng
xe, hỏi chuyện, khuyên, nên dùng chữ "xao", rồi mời Giả Đảo lên xe cùng
lèm bèm về thơ. Thành ngữ "thôi xao" là do điển cố này.
Tương
truyền cứ đến đêm trừ tịch mỗi năm, Giả Đảo đem hết thơ làm trong năm,
bầy lên án, đốt nhang vái lạy, rót rượu đổ xuống đất, nói rằng: "Đây là
nỗi khổ tâm của ta suốt năm." Vì Giả Đảo cũng như Mạnh Giao đều có tác
phong "khổ ngâm" trong khi làm thơ nên Tô Đông Pha gọi là "Giao hàn,
Giả sầu" [Giao lạnh, Giả gầy].
Theo
Trần Trọng San.
*
Giai
thoại trên, tuyệt. Nhưng tuyệt nhất, là nó không có đoạn kết, nghĩa là
chẳng ai biết, tại làm sao Hàn Dũ lại khuyên một cách rất hách như
trên?
Cái
kiểu bỏ lửng như thế này, sau "biến chứng" ra thành những gì gì, nào
là liên văn bản, chẳng hề có bản văn chung quyết, văn bản mở....
Nhưng
theo bạn, tại sao lại xao, thay vì thôi?
Theo
Gấu, có thể, ở đây là vấn đề âm thanh.
Nhưng
nếu như thế, liệu gõ cửa mạnh quá, có làm chim sực tỉnh, mà bay đi mất
không?
*
Nói
bản văn mở thì cũng như nói, trang cuối mất, thiếu, chưa có người
viết...
Và đây chính là mật mã, password, đi vô hiện đại tính, nói theo
Steiner:
Cái bất toàn là cái hoàn hảo, tuyệt hảo.
*
Trên
tờ TLS số 30 Tháng 11, 2007, Gabriel Josipovici, trong một bài viết về
chủ
nghĩa hiện đại, cho rằng, tinh thần của nó, hệ tại ở câu phán thật bảnh
của
Beckett: Té
nữa. Té cho bảnh [Fail again. Fail better]. Theo tác giả,
cơn khủng hoảng được gọi là Chủ nghĩa hiện đại, đã qua, nhưng nó để lại
một
thách đố - và một sự bực mình [an embarrassment].
|
|