|
Tin Văn
sẽ dịch tiếp Call For The Dead
Ấn bản mới, có cái intro, viết năm 1992, của
tác giả.
Có thể nó là cuốn đầu tiên của
Le Carré, mà Gấu đọc, khi Saigon tràn ngập sách
Tẩy, thứ sách bỏ túi, Livre de poche, qua chương
trình IC, Thông tin & Văn hóa, bán
bằng giá ở Tẩy.
Đọc nhưng lại bỏ qua. Phải đến khi vớ được cuốn Gián điệp đến từ miền đất lạnh, cũng
qua bản tiếng Tẩy, ở nhà sách Xuân Thu, mới
sững sờ.
Có thể nói, lúc đó, chưa tên Mít nào
biết đến Le Carré. Phải đến khi ở tù Bangkok, thì
mới lại gặp nó, qua bản tiếng Anh.
Với GCC, cuốn này bảnh hơn nhiều, so với Gián điệp
về từ miền đất lạnh, do hai đòn,
phải nói là của bậc thầy, trong nghề viết trinh thám
điệp viên nghẹt thở.
Đành phải mua, vì mấy cuốn cũ Cô Út đem
cho nhà thương, làm từ thiện!
Bố đừng đọc sách nữa, vui với cháu chẳng sướng hơn
ư!
JOHN LE CARRÉ
GỌI NGƯỜI ĐÃ CHẾT
CALL FOR THE DEAD
Lời
giới thiệu:
John
Le Carré là bút hiệu của David Cornwell, người
Anh. Sinh năm 1931. Học Đại học Berne, Oxford. Dạy học tại Eton. Sau
làm Bộ Ngoại Giao, vì vậy ông không được phép
dùng tên thật khi viết. Bút hiệu Le Carré,
tiếng Pháp có nghĩa là hình vuông,
do ông tình cờ nhìn thấy trên kính một
cửa tiệm ở Luân đôn.
Tuần báo Time đã mô tả ông:
Người viết truyện gián điệp số một của thời đại ông ta
hiện đang sống. Và có lẽ của mọi thời.
Gọi Người Đã Chết, tác
phẩm đầu tay trong đó gói ghém tất cả ước vọng
của tác giả, muốn sử dụng thể loại gián điệp, một hình
thức phổ cập, đại chúng, dể giải quyết những vấn đề lớn lao, như
văn chương, chính trị, thời đại... Ông còn muốn tìm
lại cội rễ của nó, vốn bắt nguồn từ bi hùng kịch Hy Lap.
— Màn Cuối (The Last Act) trong Gọi Người Đã Chết, độc giả,
và có thể, chính tác giả cũng không
tiên đoán được kẻ thù sẽ phản ứng như thế nào:
Chúng sẽ làm một điều gì đó. Chắc chắn như
vậy. Chúng ta còn có cơ hội...
Đối những độc giả quá
quen thuộc với Smiley, nhân vật chính của Le Carré
qua những tác phẩm The Spy who came in from the Cold, The Smiley
People... cơ hội đó là sự sụp đổ của chủ nghĩa Cộng sản,
chấm dứt Chiến Tranh Lạnh.
JOHN LE CARRÉ
GỌI NGƯỜI ĐÃ CHẾT
CALL FOR THE DEAD
Lời
giới thiệu:
John
Le Carré là bút hiệu của David Cornwell, người Anh.
Sinh năm 1931. Học Đại học Berne, Oxford. Dạy học tại Eton. Sau làm
Bộ Ngoại Giao, vì vậy ông không được phép dùng
tên thật khi viết. Bút hiệu Le Carré, tiếng Pháp
có nghĩa là hình vuông, do ông tình
cờ nhìn thấy trên kính một cửa tiệm ở Luân đôn.
Tuần báo Time đã
mô tả ông: Người viết truyện gián điệp số một của thời
đại ông ta hiện đang sống. Và có lẽ của mọi thời.
Gọi Người Đã Chết, tác phẩm đầu tay trong đó gói
ghém tất cả ước vọng của tác giả, muốn sử dụng thể loại gián
điệp, một hình thức phổ cập, đại chúng, dể giải quyết những
vấn đề lớn lao, như văn chương, chính trị, thời đại... Ông
còn muốn tìm lại cội rễ của nó, vốn bắt nguồn từ bi
hùng kịch Hy Lap. — Màn Cuối (The Last Act) trong Gọi Người
Đã Chết, độc giả, và có thể, chính tác
giả cũng không tiên đoán được kẻ thù sẽ phản ứng
như thế nào: Chúng sẽ làm một điều gì đó.
Chắc chắn như vậy. Chúng ta còn có cơ hội...
Đối những độc giả quá quen thuộc với Smiley, nhân vật chính
của Le Carré qua những tác phẩm The Spy who came in from the
Cold, The Smiley People... cơ hội đó là sự sụp đổ của chủ
nghĩa Cộng sản, chấm dứt Chiến Tranh Lạnh.
Chương Một
Lược sử George Smiley
Khi Phu nhân Ann Sercomb
kết hôn cùng George Smiley vào cuối cuộc chiến, bà
mô tả trước vẻ sững sờ của những người bạn khu Mayfair là hắn
cù lần không sao chịu nổi. Hai năm sau, khi bỏ hắn theo một
anh chàng đua xe hơi người Cuba, bà úp úp mở
mở tuyên bố, nếu lúc này không dứt hắn ra, thì
không bao giờ có thể làm nổi chuyện đó, và
Nam tước Sawley đã làm một chuyến đi đặc biệt tới câu
lạc bộ của ông ta, để đưa ra nhận xét là con mèo
đã ra khỏi cái bị. (1)
(1) the cat was out of the bag:
Bí mật đã tiết lộ. Let the cat out of the bag: To disclose
a secret. Bản tiếng Pháp dịch là "le grand mot était
lâché": Đại ngôn đã
được thốt ra.
Nguồn
Nhận xét này,
thoáng một dạo, được coi là một câu dí dỏm, chỉ
những người biết Smiley mới hiểu. Thấp, mập, bản tánh thầm lặng ,
hắn có vẻ như tốn quá nhiều tiền cho mớ quần áo quá
ư tệ lậu, máng lên cái khung lùn như da một con
cóc kịch cợm. Đúng ra, Sawley dã tuyên bố trong
buổi lễ cưới là "Sercomb lấy nhầm một con cóc đực phải gió".
Và Smiley chẳng biết gì về mô tả này, lịch bịch
bước xuống hành lang nhà thờ, đi tìm nụ hôn biến
anh ta thành vị Hoàng tử.
Hắn giàu hay nghèo, một gã nhà quê hay
một tay giáo sĩ ?. Bà ta moi hắn ở đâu ra vậy ?. Sự
bất xứng đôi càng nổi bật vì vẻ đẹp lồ lộ của Phu nhân
Ann, bí mật hôn nhân còn tăng thêm vì
chú rể và cô dâu không môn dăng hộ
dối. Nhưng những lời ngồi lê dôi mách vốn chỉ nhìn
những người trong cuộc đen trắng rõ ràng, gán cho họ
những tội lỗi, những động cơ dễ loan truyền theo lối đàm thoại tốc
ký. Thế là Smiley, không trường ốc, không cha mẹ,
không nghề ngỗng, không tài sản hoặc khố rách áo
ôm, du hành không nhãn hiệu trong toa lính
hầu trên chuyến tốc hành xã hội, chẳng mấy chốc trở thành
món đồ bị thất lạc, và khi vụ ly dị xảy ra rồi qua di, trở
thành vô thừa nhận trên cái giá bụi của
bản tin ngày hôm qua.
Khi Phu nhân theo ngôi sao của mình đi Cuba, bà
có chút suy nghĩ về Smiley. Miễn cưỡng thán phục, bà
thừa nhận với chính mình, nếu có người đàn ông
độc nhất trong đời bà, Smiley chính là người đó.
Hồi tưởng lại, bà hài lòng vì đã phô
rõ điều này qua thánh lễ hôn nhân.
Hậu quả việc ra đi của Phu nhân Ann đối với người chồng cũ không
làm xã hội quan tâm. Thực tình, xã hội
chẳng màng tới những gì xảy ra sau cơn xúc dộng. Tuy
nhiên cũng lý thú nếu biết được Sawley và đồng
bọn đã nghĩ gì về phản ứng của Smiley, về bộ mặt đẫy đà
với cặp kính, hằn lên vì quá tập trung mỗi lần
hắn say sưa đọc những nhà thơ Đức chẳng phải hàng đầu, đôi
tay mũm mĩm, ướt nhẹp nắm chặt lại dưới đôi tay áo lòng
thòng. Nhưng thừa dịp, Sawley nhún nhẹ vai buông một
câu. Đi là chạy ở trên dường một ít". Ông
ta như không hay rằng, cho dù Phu nhân chỉ chạy đi, một
chút con người Smiley thực sự đã chết..
Phần sống sót trong Smiley cũng chật chìa so với bề ngoài,
như tình yêu, hoặc thú thưởng ngọan những nhà
thơ không được đời biết tới . Đó là nghiệp vụ của hắn,
nghề làm viên chức tình báo. Hắn thích
nghề đó, một nghề đã ân sủng ban cho hắn những đồng nghiệp
tính khí và gốc gác mù mờ y như hắn.
Nó cũng cung cấp điều mà hắn có lần yêu nhất
trong dời: Dạo chơi như một học giả trong cõi bí ẩn của hành
vi con người được uốn nắn qua áp dụng thực tế những diễn dịch của
chính mình.
Một lúc nào đó trong thập niên l920 khi Smiley
rời ngôi trường không tăm tiếng của mình, mắt nhắm mắt
mở lần theo những hành lang âm u của học viện Oxford không
tiếng tăm, hắn ước mơ làm một Nghiên cưú sinh và
dâng trọn cuộc đời cho những nhà văn mờ nhạt của nước Đức thế
kỷ l7. Nhưng người phụ đạo biết Smiley rõ hơn, đã khéo
léo kéo hắn ra khỏi những thành đạt đúng ra sẽ
là của hắn. Thế là một sáng đẹp trời, tháng 7
năm l928 một anh chàng Smiley khá hồng hào ngơ ngác
ngồi trước ban phỏng vấn của Hội đồng hải ngoại về Nghiên cứu học
thuật, một tổ chức thật vô lý hắn chưa hề nghe nói tới.
Jebedee, người phụ đạo, mơ hồ một cách lạ lùng trong lời giới
thiệu : "Smiley hãy cho họ thử, có thể họ sẽ nhận, và
trả anh khá hậu đủ bảo đảm cho anh một chốn giao du thanh lịch".
Nhưng Smiley thấy chán và nói luôn. Hắn băn khoăn,
Jebedee vốn rất chính xác, sao lơ mơ như vậy. Trong thoáng
bực bội, hắn đồng ý hoãn trả lời Học viên chư linh tới
khi đã được gặp "những con người bí ẩn" của Jebedee.
Hắn không được giới thiệu với Ủy ban, nhưng đã biết phân
nửa những thành viên. Có Fielding, chuyên về thời
trung cổ ở Pháp thuộc Đại học Cambridge, Sparke, Trường Ngôn
ngữ Dông phương, và Steed-Asprey, đã có mặt tại
bàn danh dự bữa dạ tiệc của Jebedee mà Smiley là khách
được mời. Hắn phải thú nhận là mình xúc động,
Để Fielding phải chịu rời những căn phòng của ông ta, khoan
nói tới Cambridge, riêng việc đó đã là
một phép lạ. Sau này, Smiley vẫn nghĩ cuộc phỏng vấn giống
như một điệu múa quạt, từng cá nhân bộc lộ những phần
khác nhau của một toàn thể bí mật. Sau cùng Steed-Asprey,
hình như vị Chủ tịch, vén màn cuối, và sự thực
sừng sững trước Smiley với tất cả sự trần trụi chói lòa của
nó. Hắn được đề nghị một chức việc trong cái mà, vì
Steed-Asprey không chọn được một cái tên tốt đẹp hơn,
đã đỏ mặt diễn tả, là Cơ quan mật vụ.
Smiley xin có thời gian để suy nghĩ. Họ cho hắn một tuần, chẳng
ai đề cập đến chuyện lương bổng.
Đêm đó hắn trọ ở Luân đôn, tại một nơi khá
sang và đóng bộ tới kịch viện. Hắn cảm thấy lâng lâng
lạ thường, và điều này làm hắn lo lo. Hắn biết rõ
mình sẽ nhận, rằng mình có thể làm vậy ngay
tại cuộc phỏng vấn. Chỉ là cẩn thận theo bản năng và có
lẽ, một ham muốn khả dĩ tha thứ được - chơi trò đỏng đảnh với Fielding
- đã ngăn cản hắn nhận lời ngay.
Sau nhận tới huấn luyện: những căn nhà vô danh ở vùng
quê, những huấn luyện viên vô danh, những chuyến đi, vô
kể số, và một triển vọng diệu kỳ ngày càng lộ rõ
về một việc làm hoàn toàn đơn độc.
Nơi công tác đầu tiên khá dễ chịu: Hai năm giảng
viên Anh ngữ tại một Đại học Đức ở tỉnh lẻ. Thuyết giảng về thi sĩ
Keats và những kỳ nghỉ trong những quán trọ dành cho
dân săn bắn tại vùng Bavaria cùng những toán sinh
viên Đức đạo mạo và lang chạ một cách trang trọng. Cuối
mỗi kỳ nghỉ dài, hắn đem vài sinh viên trong đám
họ về Anh, và sau khi đã nhắm sẵn những kẻ xài được,
hắn chuyển đề nghị bằng những phương tiện lén lút, tới một
địa chỉ ở Bonn; trong suốt hai năm trời, hắn hoàn toàn mù
tịt về những đề nghị của mình được chấp nhận hay bị bác bỏ.
Thực tình hắn chẳng có cách nào biết được những
thông điệp của mình có tới nơi nhận hay không,
và khi ở Anh, hắn không hề liên lạc với Bộ.
Tình tự hắn khi thi hành
công tác thật lộn xộn, không sao hòa nhập. Công
việc gây tò mò nơi hắn, khi đánh giá từ
một vị trí biệt lập, điều hắn học, một cái gì như là
"tiềm năng điệp viên" ở mỗi con người; khi nghĩ ra những trắc nghiệm
chi li về tính tình và hành vi có thể
thông báo cho hắn về phẩm chất một ứng viên. Cái
phần này ở trong hắn thật vô tình và tàn
nhẫn - Smiley trong vai trò này là một tên lính
đánh thuê quốc tế chuyên nghiệp, vô đạo đức và
không hề có một động cơ nào ngoài chuyện thỏa mãn
cá nhân. Ngược lại, hắn buồn rầu chứng kiến
khoái lạc tự nhiên cứ chết dần trong hắn. Bản chất luôn
khép kín, hắn thấy mình lúc này co rúm
lại trước những cám dỗ của tình bạn và lòng chung
thủy của con người; hắn cảnh giác hết mức, chính hắn, trước
những phản ứng bộc phát. Bằng sức mạnh lý trí, hắn ép
mình quan sát nhân gian với sự khách quan lâm
sàng, và, bởi vì hắn không bất tử, và chắc
không khỏi lỗi lầm, hắn thù ghét và ghê
sợ sự giả trá của đời mình.
Nhưng Smiley là con người
tình cảm, và nỗi xa xứ ngày càng làm
mạnh thêm tình yêu sâu thẳm của hắn với nước Anh.
Hắn ngấu nghiến những hồi ký về Oxford, vẻ đẹp, sự phóng khoáng
trí tuệ, tính chậm chạp chín mùi trong những
phán đoán của nó. Hắn mơ về những ngày nghỉ lộng
gió mùa thu ở bến Hartland, những chuyến tản bộ dài
trên những vách đá ở Cornall, mặt trơn láng, nóng
bỏng trước gió biển. Đây là một cuộc sống thầm kín
khác của hắn, và hắn càng ngày càng thù
ghét sự xâm nhập tục tằn của nước Đức mới, những bước dậm chân
và la hét của đám sinh viên đồng phục, những khuôn
mặt sẹo, kiêu căng và những câu trả lời hạ cấp của họ.
Hắn cũng căm tức cái lối Phân khoa xía vô môn
dạy của hắn - nền văn học Đức yêu dấu của hắn. Và rồi một đêm,
cái đêm khủng khiếp của mùa đông l937 khi Smiley
đứng ở cửa sổ phòng mình ngắm một đám lửa trại lớn
nơi sân trường Đại học: Vây quanh ngọn lửa, hàng trăm
sinh viên mặt hồ hởi bóng nhẫy dưới ánh lửa bập bùng.
Và họ ném hàng trăm cuốn sách của họ vào
ngọn lửa ngoại đạo. Hắn biết tác giả của những cuốn sách:
Thomas Mann, Heine, Lessing, và hàng loạt những người khác,
và Smiley bàn tay ẩm ướt khum khum quanh đầu điếu thuốc, ngắm
nhìn và thù hận, hả hê trong nỗi chiến thắng
vì đã nhận diện ra kẻ thù của mình.
l939, hắn có mặt ở Thuỵ
Điển, nhân viên được bảo chứng của một hãng chế tạo vũ
khí nhẹ nổi tiếng của Thụy Sĩ; mối làm ăn được ghi lùi
lại ngày cho thuận tiện. Cũng để cho thuận tiện, tướng mạo của hắn
đã phần nào biến cải, bởi vì Smiley khám phá
ra hắn có tài nhập vai hơn hẳn cái trò thô
thiển về thay đổi mái tóc hoặc thêm hàng ria
mép nho nhỏ. Trong bốn năm hắn đóng vai đi đi lại lại giữa
Thụy Sĩ, Thụy Điển và Đức, hắn không ngờ mình bị hoảng
sợ lâu đến như thế. Hắn mắc cơn kích giật nơi mắt trái,
mười lăm năm sau vẫn còn, sự căng thẳng vạch những đường hằn trên
đôi má phính, trên trán. Hắn học được,
làm sao để có thể không bao giờ ngủ, không bao
giờ xả hơi, làm sao cảm thấy nhịp đập hoài hoài của
trái tim của chính mình bất kể ngày và
đêm, làm sao với tới những cực điểm của nỗi cô đơn và
sự thương thân, làm sao nhận ra niềm dục vọng bất thần không
đắn đo về một người đàn bà, một ly rượu, một vận động, và
thuốc, bất kể thứ thuốc gì bứng đi sự căng thẳng của đời mình.
Trên cái nền đó
hắn làm doanh thương đích thực và làm gián
điệp. Theo thời gian, mạng lưới mở rộng, và những nước khác
chỉnh đốn sự thiếu hụt về tầm nhìn xa và việc chuẩn bị.
Năm l943, hắn được gọi về. Trong
sáu tuần hắn mong quay lại, nhưng chảng bao giờ họ cho hắn đi, "Anh
hết thời rồi", Steed-Asprey bảo hắn. "Huấn luyện người mới. Nghỉ ngơi thôi.
Lấy vợ chẳng hạn. Hưởng nhàn".
Smiley ngỏ lời với cô bí
thư của Steed-Asprey, Phu nhân Ann Sercomb.
Chiến tranh chấm dứt. Họ trả lương
thôi việc, hắn đưa cô vợ đẹp về Oxford để đắm mình vào
trong những áng văn tối tăm của nước Đức thế kỷ l7. Nhưng hai năm
sau, Phu nhân Ann ở Cuba và một tiết lộ của một thư ký
mật mã trẻ tuổi người Nga ở Ottawa phát sinh yêu cầu
mới đối với những người có kinh nghiệm như Smiley.
Công việc mới mẻ, mối đe
dọa mơ hồ, thoạt đầu hắn thích. Nhưng đám trẻ nhảy vô,
đầu óc tươi tắn hơn, có lẽ vậy. Smiley không phải thứ
tài nguyên để thăng tiến, điều này thấm dần ,và
Smiley bước vào khoảng trung niên của cuộc đời mà chưa
từng hay mình dã có thời trẻ tuổi, và hắn - qua
cung cách lịch sự nhất khả dĩ có được - bị xếp xó.
Mọi chuyện đổi thay. Steed-Asprey
đi rồi. Ông chạy trốn thế giới mới qua Ấn Độ truy tìm một nền
văn minh khác. Jebedee chết. Ông đáp xe lửa tại thành
phố Lille, năm l94l, cùng một hiệu thính viên trẻ người
Bỉ, và người ta không còn được tin tức gì về họ.
Fielding ăn nằm với một luận án mới về Romain Rolland - chỉ Maston
là còn; Maston, kẻ chuyên nghề hoạn lộ, được tuyển mộ
trong thời chiến, Cố vấn tình báo của Hội đồng Bộ Trưởng.
"Người", Jebedee nói, "chơi quần vợt quyền lực ở sân Wimbledon".
Liên minh Bắc Đại Tây Dương, những biện pháp tuyệt vọng
được người Mỹ để mắt tới, đã làm toàn bộ bản chất Điệp
vụ của Smiley trở nên lỗi thời. Những ngày tháng với
Steed-Asprey đã xa khuất mù, cái thuở bạn không
chừng đã nhận lệnh qua ly rượu mạnh trong những căn phòng của
ông ta ở Magdalen; chất tài tử ngẫu hứng của một dúm
người đầy tài năng, lương bổng chẳng màng đã nhường
chỗ cho tính hữu hiệu, chất thư lại và tật bè phái
của một nha sở cỡ nhà nước - Thực tình đều trong vòng
thao túng của Maston, với những bộ đồ đắt tiền, tước phong quí
tộc, mớ tóc xám uy nghi, mớ cà vạt màu ngân
nhũ, Maston, người nhớ cả sinh nhật cô thư ký của ông
ta, một người mà phong thái được truyền tụng giữa mấy bà
mấy cô tại văn phòng tiếp tân; Maston xin lỗi về việc
mở rộng giang sơn của mình, ân hận phải rời tới những căn pnòng
rộng hơn nữa; Maston chủ tọa những buổi tiệc thanh lịch, tại nhà
nghỉ ở Hentley, và ngấu nghiến những thành công của thuộc
hạ.
Họ đã đem ông ta
vào, trong thời chiến, người công chức chuyên môn
từ một nha sở chính thống, một người lo giấy tờ và hòa
nhập sự xuất sắc của nhân viên với guồng máy quan liêu
nặng nề. Thật là một an tâm cho mấy ông lớn khi xử sự
với một người họ rành rẽ, một người có thể giản lược mọi mầu
thành mầu xám, kẻ biết những ông chủ của mình,
và có thể thông thuộc đường đi nước bước giữa họ. Và
ông ta làm điều đó thật khéo léo. Họ thích
lối hạ mình của ông ta khi bảo vệ những hoang đàng của
thuộc hạ, sự uốn éo khi hoạch định những cam kết mới. Ông ta
cũng không chê lợi lộc của một tay áo chùng.dao
găm bất đắc dĩ, áo chùng cho quan thầy còn dao găm cho
đệ tử. Chức vụ ông ta ngụy trang thật kỳ cục. Không phải Giám
đốc sở trên danh nghĩa, mà là Cố vấn Tình báo
cho Hội đồng Bộ Trửơng, và Steed Asprey đã mô tả ông
ta, một lần cho tất cả mọi lần, là quan Tổng quản Thái giám.
Đây là một thế giới
mới đối với Smiley: những hành lang sáng choang, những người
trẻ thông minh. Hắn thấy mình quê mùa, cổ hủ,
thấy nuối tiếc căn nhà trệt ọp ẹp khu Knightsbridge, nơi mọi chuyện
bắt đầu. Bộ dạng hắn như cũng phản chiếu sự thiếu thoải mái này
dưới dạng suy nhược thể chất, khiến cho hắn hơn bất cứ lúc nào,
ngày một thêm lọng cọng, giống y chang một con cóc.
Hắn nhấp nháy con mắt nhiều hơn, và mang thêm biệt danh
Chuột nhũi. Nhưng cô thư ký mới vào nghề khâm
phục hắn, và luôn gọi hắn là "Gấu cưng" của tôi.
Smiley lúc này đã
quá tuổi đi công tác nước ngoài. Maston đã
rõ ràng trong việc này: " Bạn ơI, dù sao không
nhiều thì ít bạn cũng bị cuốn hút vào tất cả
mọi chuyện sục sạo trong cuộc chiến rồi .Tốt hơn nên nằm nhà
ông bạn già ạ, và giữ cho bếp lửa cháy đều".
Điều này phần nào
giải thích cảnh Smiley ngồi ghế sau một chiếc taxi ở Luân đôn
vào lúc hai giờ sáng bữa thứ tư, ngày mồng 4
tháng giêng, trên đường tới Gánh Xiếc Cambrigde
(1)
(1)
Sở mật vụ (CTND)
CHƯƠNG
II
Không
hề tạ khách
Trong
taxi hắn cảm thấy an toàn. An toàn và ấm áp.
Cái ấm là món hàng chui, tuồn từ chiếc giường,
được tích trữ nhằm chống đỡ đêm tháng giêng ẩm
ướt. An toàn vì không thực: Đây là hồn ma
của mình lang thang trên đường phố Luânđôn , ghi
nhận mấy tay đi tìm khoái lạc kém may mắn, lui cui dưới
những chiếc dù của đám giữ cửa; mấy cô gái ăn
sương: Món quà bọc dưới lớp áo mủ mờ mờ . Hồn ma của
mình, hắn đoan chắc,đã vươn lên từ đáy giếng là
giấc ngủ sâu, tắt điện thoại đang ré trên chiếc bàn
ngủ... Phố Oxford... Tại sao chỉ Luânđôn là thủ đô
duy nhất trên thế giới đánh mất đi cá tính về
đêm của nó?. Khép chặt áo choàng cho sát
người, Smiley có thể nghĩ, không nơi nào,từ Los Angeles
ở Mỹ, tới Bern ở Thụy sĩ, lại có một thành phố sẵn sàng
từ bỏ cuộc phấn đấu ban ngày để có một bản sắc riêng
như thế.
Xe
quẹo vô Gánh Xiếc Cambrige, và Smiley ngồi bật dậy. Hắn
nhớ ra lý do Sĩ quan trực réo điện thoại, và hồi ức
tàn nhẫn kéo hắn ra khỏi cơn mộng. Cuộc đàm thoại trở
lại từng chữ, một kỳ công hồi tưởng hắn đạt được từ thưở nào.
"Đây là Sĩ quan trực,
Smiley. Cố vấn muốn nói chuyện...."
"Smiley, Maston đây. Anh
phỏng vấn Samuel Arthur Fennan bên Bộ Ngoại giao bữa thứ hai phải không?."
"Vâng, đúng là
tôi.
"Vụ đó ra sao ?.
"Thư nặc danh tố là đảng
viên khi học Oxford. Phỏng vấn theo thường lệ, được Giám đốc
an ninh cho phép."
(Fennan không thể phàn
nàn, Smiley nghĩ, hắn biết mình sẽ minh oan cho hắn. Không
có gì bất thường. Không có gì hết).
"Anh có bênh vực
hắn chút nào không? Có...căng không, Smiley
hãy cho tôi biết".
(Trời, lão hoảng rồi. Fennan
phải đưa cả nội các ra chơi tụi mình).
"Không. Chỉ là phỏng
vấn rất là thân thiện. Bọn tôi khoái nhau, tôi
nghĩ vậy,thực tình tôi hơi lố trong việc biện hộ".
"Sao, Smiley, sao ?".
"À, tôi gần như bảo
thẳng hắn đừng lo".
"Anh bảo sao ? ."
"Tôi bảo hắn đừng lo. Rõ
ràng là hắn hơi hoảng, nên tôi bảo vậy".
"Anh bảo hắn như thế nào?"
"Tôi nói tôi
không có quyền và cả Tổng nha cũng vậy, nhưng tôi
thấy không có lý do gì để chúng ta làm
phiền hắn nữa".
"Chỉ có thế thôi
sao ?.
Smiley ngưng một giâỵ. Hắn
chưa từng thấy Maston như thế này bao giờ, chưa từng thấy lão
lệ thuộc đến như vậỵ.
"Vâng . Chỉ có vậy.
Tuyệt đối chỉ có vậy". (Lão sẽ chẳng bao giờ tha thứ cho mình
về chuyện này .Bao nhiêu vẻ bình tĩnh được tính
toán, bao nhiêu áo màu kem, cà vạt màu
ngân nhũ, những bữa ăn thanh lịch với hàng Bộ Trưởng, hóa
ra chỉ có vậy! )
"Hắn nói anh gieo sự hoài
nghi về lòng trung thành của hắn, rằng sự nghiệp của hắn ở
bộ Ngoại giao thế là tiêu, rằng hắn là nạn nhân
của bọn chỉ điểm ăn lương".
"Hắn nói sao ? Thằng chả
khùng nặng rồi. Hắn biết rõ hắn đã được minh oan. Hắn
còn muốn gì nữa ?.
"Chẳng muốn gì. Hắn chết
rồi. Tự sát lúc 10.30 tối naỵ. Để lại thư cho Bộ Trưởng Ngoại
giao. Cảnh sát gọi thư ký của ông Bộ Trưởng và
được phép mở thư . Rồi họ cho chúng ta biết. Sẽ có
điều tra. Smiley, anh chắc chắn không?"
"Chắc chắn về cái gì?."
"...Thôi không sao.
Ghé lại đây càng sớm càng tốt ".
Phải hàng giờ hắn mới kiếm
được taxi. Hắn gọi ba đường dây, chẳng nơi nào trả lời . Sau
cùng được đường dây Công trường Sloan, và Smiley
đứng chờ ở cửa sổ, mình quấn áo choàng, cho tới khi
nhìn thấy taxi trờ tới cửa nhà. Cảnh tượng gợi nhớ những trận
oanh kích hồi còn ở Đức. Cũng một nỗi bồn chồn vẩn vơ trong
đêm im vắng.
Tới Gánh Xiếc Cambrige,
hắn ngừng xe cách Sở chừng trăm thuước, phần vì thói
quen,phần vì muốn đầu óc tỉnh táo phòng hờ cuộc
điều tra nóng bỏng của Maston.
Hắn
trình thẻ ra vào cho Cảnh sát trực và lầm lũi
tới thang máỵ. Viên Sĩ quan trực thở phào khi thấy hắn
xuất hiện. Cả hai cùng đi dọc theo hành lang mầu kem.
"Maston đi gặp Chim sẻ ở Scottland
Yard. Đang tranh dành xem khối Cảnh sát nào xử lý
vụ nầy . Chim sẻ nói để Cảnh sát đặc biệt, Evelyn nói
để khối Điều tra hình sự, còn Cảnh sát Quận Surrey
không hiểu tại sao họ bị đì như vậy. Thật rối như đám
ma. Nào mình đi uống cà phê quán Cóc
trong khu. Không có nhậu, nhưng cũng tạm được".
Smiley thấy biết ơn vì
Peter Guillam trực đêm nay . Một người lịch lãm, thông
minh từng chuyên về Tình báo vệ tinh, loại bạn có
tình luôn có sẵn một thời khóa biểu và
một con dao bỏ túi.
"Bên Đặc biệt gọi lúc
12.05. Vợ. Fennan đi coi hát, đến khi một mình về nhà
lúc 11. giờ thiếu 15 mới phát giác ra hắn .Sau cùng
bà ta gọi Cảnh sát".
"Hắn ở đâu đó trong
quận Surrey".
"Vùng Walliston, khỏi thông
lộ Kingston .Ngay bìa Đô thành. Khi Cảnh sát
tới, họ thấy thư gửi bộ Ngoại giao trên sàn nhà, bên
cạnh xác chết. Tay trưởng toán gọi Cảnh sát trưởng,
ông này gọi sĩ quan trực bộ Nội vụ, ông này gọi
thư ký thường trực bộ Ngoại giao, sau cùng họ được phép
mở thư. Và cuộc vui bắt đầu".
"Nữa đi".
"Giám đốc nhân viên
bộ Ngoại giao gọi tụi mình. Ông ta đòi số điện thoại
riêng của Cố vấn. Rằng, đây là lần cuối cùng An
ninh đụng tới người của ông ta,rằng Fennan là một viên
chức trung thành, tài năng, vv...và vv..."
"Hắn thế thật. Hắn thế thật"
"Ông ta nói toàn
bộ vụ này cho thấy là An ninh qúa lố. Rằng phương pháp
mật vụ Đức Gestapo, ngay cả khi không có mối đe dọa thực sự
nào để châm chước..."
"Tớ cho số của cố vấn ,và
quay số này bằng một đường dây khác, trong lúc
ông ta vẫn lảm nhảm. Bằng một cú thần sầu tớ ngắt bộ Ngoại
giao ở một điện thoại, và gọi báo tin cho Maston qua một điện
thoại khác. Lúc đó là12 giờ 20. Maston tới đây
lúc 1 giờ, như bà bầu sắp ở cữ. Sáng mai lão
phải trình Bộ Trưởng ".
Trong giây lát cả
hai lặng im, trong khi Guillam cho cà phê nguyên vào
ly và thêm nước sôi từ chiếc ấm điện .
Guillam hỏi :
"Hắn ta ra sao ?
"Ai? Fennan hả? Được lắm, cho
tới tối nay, tôi có thể nói như vậy. Bây giờ hắn
làm mình điên đầu . Xem ra thì đúng là
Do thái . Gia đình theo Chính thống, nhưng hắn bỏ hết
khi học Oxford và quay qua Mácxit . Lanh lợi, có văn
hóa ... Một người biết điều,ăn nói nhỏ nhẹ, biết lắng nghe.
Vẫn chịu học, anh thấy đấy, sự kiện đâu có ít. Bất cứ
ai tố hắn đều đúng. Hắn đã ở trong Đảng".
"Bao nhêu tuổi".
"44 Ngó thực sự già
hơn".
Smiley tiếp tục trong lúc
đảo mắt quanh phòng .
"Gương mặt nhạy cảm, tóc
đen chải theo lối sinh viên, nhìn nghiêng như thanh niên
20 tuổi, da khô mịn, hơi trắng. Vết nhăn cũng rất nhiều, chạy chằng
chịt, căt da thành ô vuông. Ngón tay rất thon
... Loại người chắc nịch, trọn một khối. Tìm vui một thân.
Đau khổ một mình. Tôi đoán vậy".
Cả hai đứng dậy khi Maston bước
vô.
"Ah! Smiley, vô đi."
Lão mở cửa, dơ cánh
tay trái ra để hướng dẫn Smiley vô trước . Phòng Maston
không có tài sản nào thuộc nhà nước .
Lão có lần mua nguyên bộ sưu tập tranh mầu nước thế
kỷ 19, vài bức được treo trên tường . Ngoài ra toàn
là đồ dởm, Smiley chắc chắn như vậy, Maston thì cũng rứa,
đồ dởm, cho tiện việc. Bộ đồ mầu quá lạt so với sự trang nghiêm,
sợi dây đeo kính một mắt vắt ngang áo sơ mi luôn
luôn là màu kem. Cà vạt len màu xám
nhạt. Một người Đức sẽ gọi là flott ( hoa hoè hoa sói)
, Smiley nghĩ thầm; bảnh bao - đúng giấc mơ của một cô bán
quán về một nhà quí tộc chính hiệu.
"Tôi đã gặp Chim
sẻ. Rõ là một vụ tự tử. Xác đã được đem đi,
ngoài một số thủ tục thông thường, Cảnh sát sẽ không
làm gì khác .Sẽ có điều tra trong vòng
một hoặc hai ngày. Đã cùng đồng ý với nhau như
vậy - Smiley,tôi không thể nhấn mạnh, là sẽ không
có một lời nào được đưa ra báo chí về mối quan
tâm trước đó của chúng ta đối với Fennan".
"Tôi hiểu ." (Ông
thật nguy hiểm, Maston ạ. Ông yếu đuối và hoảng sợ. Tôi
biết, treo cổ ai cũng được, trước khi tới phiên ông. Cách
ông nhìn tôi là đủ hiểu -
Ông đang nhắm chừng sợi dây treo cổ dành
cho tôi).
"Đừng nghĩ tôi đang chỉ
trích, Smiley; nói cho cùng nếu ông Giám
đốc an ninh đã phê chuẩn cuộc phỏng vấn thì anh không
có gì phải lo".
"Ngoại trừ Fennan".
"Đúng thế . Đáng
tiếc là ông Giám đốc An ninh quên không ký
biên bản đề nghị phỏng vấn . Chắc ông ta nói miệng, phải
không?.
"Vâng. Tôi chắc chắn
ông ta sẽ xác nhận chuyện đó."
Maston lại ngắm Smiley, tia mắt
nhọn hoắt, tính toán; có cái gì vương vướng
nơi cổ họng Smiley . Hắn biết mình đang khăng khăng không chịu
thỏa hiệp, còn Maston muốn hắn thân cận, muốn hắn toa rập với
lão.
"Anh biết Sở của Fennan đã
liên hệ với tôi ?."
"Vâng ".
"Sẽ phải có điều tra .
Rất có thể khó gạt đám báo chí ra ngoài.
Chắc chắn việc đầu tiên tôi phải làm ngày mai
là gặp ông Bộ Trưởng Nội vụ ( Hù dọa ta đây...Thử
lần nữa...Mình luống tuổi rồi ....Phải nghĩ đến hưu trí ...Thất
nghiệp cũng nên ... Nhưng ta không chia sẻ sự dối trá
của ngươi đâu, Maston ạ.) "Tôi phải nắm toàn bộ sự kiện,
Simley. Tôi phải làm bổn phận của tôi. Nếu có
bất cứ chuyện gì anh cảm thấy nên cho tôi biết về cuộc
phỏng vấn, bất cứ chuyện gì anh chưa ghi lại trong hồ sơ chẳng hạn,
bây giờ cho tôi biết để tôi thẩm định ý nghĩa của
nó."
"Thật sự, chẳng còn điều
gì để thêm vô hồ sơ, và những gì tôi
vừa nói với ông hồi hôm . Có lẽ ông cũng
nên biết, ( Tiếng "Ông " có vẻ hơi gằn một chút),
có lẽ ông cũng nên biết tôi tiến hành cuộc
phỏng vấn trong bầu không khí hết sức thoải mái. Lời
cáo buộc Fennan khá mỏng manh - Sinh viên vào
Đảng thập niên 1930, tiếng đồn mơ hồ hiện nay vẫn là cảm tình
viên. Phân nửa Nội các những năm 30 đều vào Đảng".
Maston nhíu mày.
"Khi tôi tới văn phòng
anh ta tại bộ Ngoại giao, lúc đó hóa ra khá
đông người ra vào, nên tôi đề nghị cả hai ra công
viên đi dạo " .
"Tiếp tục đi".
"Vậy là chúng tôi
đi dạo. Bữa đó trời nắng, lạnh, và khá dễ chịu. Chúng
tôi ngắm bầy vịt ".
Maston tỏ dấu nóng nảy.
"Chúng tôi ở công
viên chừng nủa giờ. Toàn là anh ta nói. Thông
minh, lưu loát, lôi cuốn. Nhưng bồn chồn, cũng đúng
thôi. Những người như vậy ưa nói về họ, và tôi
nghĩ anh ta mừng vì có dịp được nói một lần cho xong.
Anh ta kể toàn bộ câu chuyện - có vẻ khoái nêu
tên từng nhân vật trong cuộc - và rồi chúng tôi
tới một quán cà phê espresso mà anh ta quen ở
gần Millbank " .
"Tới đâu ?" .
"Quán cà phê
hơi espresso. — đó họ bán loại cà phê đặc biệt
một hào một ly. Chúng tôi làm vài ly .
".
"Tôi hiểu . Vậy là
trong hoàn cảnh... chén anh chén tôi đó
anh đã bảo hắn Tổng nha sẽ không đề nghị biện pháp nào
khác " .
"Vâng . Chúng ta
thường làm vậy, nhưng theo thông lệ chúng ta sẽ không
ghi vô hồ sơ ". Maston gật đầu. Mấy chuyện đó thì lão
hiểu, Smiley nghĩ thầm. Trời đất ơi! Lão này thực tởm quá.
Nhìn ra bộ mặt khó thương của lão như hắn đã
trông đợi thực là khoái.
"Vậy tôi có thể coi
việc hắn tự tử- và luôn cả lá thư - là hoàn
toàn bất ngờ đối với anh? Anh không tìm được lời giải
thích?
"Nếu tôi tìm ra được
thì đáng kể thật ".
"Anh không nghĩ ra ai tố
cáo hắn ?."
"Không ".
"Hắn có vợ , chắc anh biết
?."
"Vâng ".
"Tôi tự hỏi ... không
chừng vợ hắn ta có thể cho chút manh mối . Tôi ngần
ngại không muốn đưa ra đề nghị nhưng một người thuộc Tổng nha nên
đến gặp bà ta và nếu câu chuyện diễn tiến tốt đẹp, hỏi
bà ta về mọi chuyện đó."
"Ngay lúc này ?"
Maston đứng bên chiếc bàn
giấy đồ sộ, tẻ ngắt, loay hoay với mớ đồ nghề của đám doanh thương
- dao dọc giấy, hộp thuốc lá, bật lửa - toàn bộ mớ cao đơn
hoàn tán dành cho việc chiêu đãi. Hắn phô
cổ tay áo màu kem ra đến cả khúc, Smiley nghĩ thầm,
ngắm nghía hai bàn tay trắng trẻo của lão .
Maston ngó lên, bộ
mặt thiện cảm .
"Smiley, tôi biết anh bị
xúc động, nhưng hãy để thảm kịch qua một bên, anh phải
cố hiểu rõ tình hình. Ông Bộ Trưởng Ngoại giao
và Bộ Trưởng Nội vụ sẽ đòi hỏi toàn bộ nội vụ và
nhiệm vụ đặc biệt của tôi là phải cung cấp điều đó. Nhất
là về bất cứ thông tin nào cho thấy tâm trạng của
Fennan ngay sau cuộc gặp gỡ với ...chúng ta. Biết đâu chừng hắn
có nói với vợ về việc đó. Theo lẽ hắn không được
làm vậy, nhưng chúng ta phải thực tế".
"Ông muốn tôi xuống
dưới đó ?"
"Phải có một người. Có
vấn đề thẩm tra. Ông Bộ Trưởng Nội vụ lẽ dĩ nhiên sẽ phải quyết
định về việc đó, nhưng hiện thời chúng ta ngay cả dữ kiện
cũng không có nữa. Thời gian thì ngắn mà anh
hiểu nội vụ và đã điều tra sơ khởi. Không ai khác
có đủ thời gian dù chỉ để hiểu qua loa về vụ này. Không
ai ngoài anh ra , Smiley".
"Ông muốn khi nào
tôi đi ? ".
"Dường như bà Fennan có
gì đó hơi khác thường. Người nước ngoài. Lại
là Do thái nữa, tôi nghe ngóng được, đã
từng đau khổ nhiều trong cuộc chiến, điều này càng làm
phiền toái. Một người đàn bà cứng cỏi và tương
đối không xúc động trước cái chết của chồng. Chỉ bề ngoài
thôi, hẳn vậy. Nhưng nhạy cảm và dễ nói chuyện. Tôi
được biết qua Chim sẻ là bà ta chịu hợp tác, chắc sẽ
tiếp anh ngay khi anh tới được. Cảnh sát quận Surrey có thể
báo bà ta anh sẽ tới gặp ngay sáng mai. Tôi sẽ
điện thoại khi anh còn ở đó, nội trong ngày".
Smiley quay người định đi .
"À , này Smiley
... " Hắn cảm thấy bàn tay Maston đặt trên cánh tay
mình, và quay lại ngó lão. Maston trong nụ cười
thường chỉ dành cho mấy bà trọng tuổi ở trong Sở.
"Smiley này, anh có
thể tin cậy ở nơi tôi, anh biết đấy. Anh có thể tin cậy sự
hỗ trợ của tôi".
Smiley nghĩ thầm, ông đúng
là làm việc chạy theo kim đồng hồ. Quán mở cửa 24/24
, ông đúng là "Không hề tạ khách ".
Hắn bước ra phố.
(còn
tiếp)
|
|