|
Albert Camus vs Kamel Daoud
Albert Camus vs Kamel Daoud
Thời
gian của người
Đây là lúc
để thừa nhận -
để rú
lên, hay để gào khóc -
Ta đã
sống đời ta như một con chó...
Ilya
Ehrenburg
Cùng số báo trên, có
bài Một
người Algerian ở Paris, Edward Hughes
đọc Camus:
Une Vie,
của Olivier Todd,
trong có nhắc tới câu nói trứ danh của Camus, Tôi tin vào công lý,
nhưng tôi chọn
mẹ tôi thay vì công lý [Je crois à la justice, mais je défendrai ma
mère avant
la justice: Tôi tin vào công lý, nhưng tôi sẽ bảo vệ mẹ tôi trước công
lý]. Phải
nhìn lại cái thời của Camus vào lúc đó, thì mới thấy ông chơi một quái
chiêu,
khi đưa ra hai từ thật ngược ngạo, thật chỏi nhau: là mère/la justice.
Và độc giả
của ông sau này, đọc ông, là cũng trong tinh thần đó: Thảm kịch của
những chọn
lựa bất khả, the drama of impossible choices is something that readers
of Camus’s
fiction are very familiar with: Rambert trong Dịch Hạch bị bắt buộc phải
chọn lựa giữa tình yêu riêng tư của ông,
và những đòi hỏi của xã hội của một thành phố bị vây hãm bởi dịch hạch,
anh giáo làng bắt buộc phải làm ‘quản giáo’ trong Người Khách, trong cuốn Lưu Đầy
và Quê Nhà...
Đây là lúc
để thừa nhận -
để rú
lên, hay để gào khóc -
Ta đã
sống đời ta như một con chó...
Ilya
Ehrenburg
Cùng số báo trên, có
bài Một
người Algerian ở Paris, Edward Hughes
đọc Camus:
Une Vie,
của Olivier Todd,
trong có nhắc tới câu nói trứ danh của Camus, Tôi tin vào công lý,
nhưng tôi chọn
mẹ tôi thay vì công lý [Je crois à la justice, mais je défendrai ma
mère avant
la justice: Tôi tin vào công lý, nhưng tôi sẽ bảo vệ mẹ tôi trước công
lý]. Phải
nhìn lại cái thời của Camus vào lúc đó, thì mới thấy ông chơi một quái
chiêu,
khi đưa ra hai từ thật ngược ngạo, thật chỏi nhau: là mère/la justice.
Và độc giả
của ông sau này, đọc ông, là cũng trong tinh thần đó: Thảm kịch của
những chọn
lựa bất khả, the drama of impossible choices is something that readers
of Camus’s
fiction are very familiar with: Rambert trong Dịch Hạch bị bắt buộc phải
chọn lựa giữa tình yêu riêng tư của ông,
và những đòi hỏi của xã hội của một thành phố bị vây hãm bởi dịch hạch,
anh giáo làng bắt buộc phải làm ‘quản giáo’ trong Người Khách, trong cuốn Lưu Đầy
và Quê Nhà...
Thời
gian của người
Camus,
nổi loạn, và mùa xuân Á Rập: Camus,
rebellion and the Arab spring (FT 29-5-15) -- Fan của Camus
nên đọc bài này của Kamel Daoud (Camus: "Je crois à la justice, mais je
défendrai
ma mère avant la justice" WHOA!) (2)
Camus
n’a jamais dit
«Entre la justice et ma mère, je choisis ma mère ».
« Lors
d’une rencontre avec des étudiants suédois, un étudiant arabe lui
reproche, à
lui le natif d’Algérie, son silence sur ce qui s’y déroule. Camus, en
vérité,
s’est beaucoup exprimé. (...). A l’étudiant, il répond : «En
ce moment, on lance des bombes dans les tramways d’Alger. Ma mère peut
se
trouver dans un de ces tramways. Si c’est cela la justice, je préfère
ma mère.»
Dans le compte rendu du Monde, cette phrase devient : «Je
crois à la Justice, mais je défendrai ma mère avant la Justice.»
Puis la rumeur en fait ce qu’on n’a plus jamais cessé d’entendre :
«Entre
la justice et ma mère, je choisis ma mère.» Belle histoire de téléphone
arabe à
propos d’une phrase jamais dite, et dont la signification est tout
autre :
Camus n’opposait pas la justice à sa terre natale, mais dénonçait, en
situation, le terrorisme. » (Philippe Lançon).
Vào lúc này, tên VC nằm
vùng DH chạy xe Honda tà tà thẩy bom vô bót Cảnh Sát Ngụy. Nếu đó là
chân ní, công ní, Gấu chọn... Ngụy!
Dịch nhảm. Nguyên văn :
Vào lúc này chúng quăng lựu đạn tại trạm xe điện ở Alger. Mẹ tôi có thể
có mặt trong đám đông. Nếu đó là công lý, tôi chọn mẹ tôi.
Khi
Camus bị tử nạn xe cộ cách
đây 50 năm, vào ngày 4 tháng Giêng, ông 46 tuổi, đã được Nobel văn
chương và cuốn
tiểu thuyết nổi tiếng nhất của ông,
Kẻ Xa Lạ, giới thiệu tới độc giả trên toàn
thế giới một thứ triết học về sự phi lý. Tuy nhiên, vào thời điểm ông
mất,
Camus thấy mình là một tên bị xã hội ruồng bỏ, tứ cố vô thân tại Paris,
bị nhạo
báng bởi Jean-Paul Sartre và những trí thức tả phái khác, họ tố cáo thứ
suy tư
tự do của ông, là từ chối không chịu hò theo những quan điểm chính trị
đang ăn
khách. Như cô con gái của ông nói: “Bố tôi thì cu ki, chỉ có mình bố
tôi” [“Papa
was alone.”]
Lịch sử
nhận ra Camus ở về phía
của rất nhiều giải pháp đạo đức của thế kỷ 20. Ông gia nhập Kháng chiến
Pháp
chiến đấu chống Nazi, biên tập nhật báo chui Chiến đấu. Hô hào bãi bỏ
án tử hình.
Một thời đã từng theo CS, tác phẩm chống chế độ toàn trị Con
người phản kháng, xb năm 1951, có trong nó những cảm nhận đáng
kể về những cái ác của chủ nghĩa Stalin, và đưa đến cú đoạn tuyệt với
Sartre, vào
lúc đó vẫn bảo vệ Liên Xô và từ chối kết án hệ thống nhà tù Gulag.
Camus
bỏ Algeria về
đất liền Pháp quốc, nhưng Algeria không hề
bỏ ông.
Khi
cuộc nổi dậy chống thực dân thuộc địa nổ ra vào những năm
1950, sự
từ chối gia nhập vào lời kêu gọi hợp lề luật, bien-pensante, cho một
nền độc lập
đã bị coi là một hành vi phản quốc bởi đám tả phái người Pháp. Ngay cả
khi khủng
bố tấn công những người Algiers,
Camus vẫn đòi hỏi một cách vô ích một giải pháp liên bang, cùng với một
nơi chốn
cho người định cư. Khi ông tuyên bố thật lẫy lừng, “Tôi tin tưởng ở
công lý, nhưng
tôi sẽ bảo vệ mẹ tôi trước công lý”, ông bị tố cáo là một kẻ biện hộ
cho chủ
nghĩa thực dân thuộc địa. Gần 40 năm sau, Mr Lenzini kiếm ra tông tích
người cựu
sinh viên Algerian đã gây hấn vì lời tuyên bố trên tại một cuộc họp
báo, anh ta
thú nhận, vào lúc đó, anh ta chưa hề đọc bất cứ một tác phẩm nào của
Camus, và
sau đó, đã bị ‘sốc’ và cảm thấy mình chẳng là gì khi đọc Camus viết về
sự nghèo
khổ của những người Ả Rập. (1)
Quan điểm của Camus trong giai đoạn
diễn ra cuộc chiến tranh giải phóng Algeria hồi những năm 1950 còn làm
người ta
hận ông hơn nữa. Tác giả cuốn của Con người nổi loạn (L’homme
révolté)
đã không lên tiếng khi người Algeria chiến đấu chống lại chủ nghĩa thực
dân
Pháp, cho đến khi ông đưa ra lời tuyên bố nổi tiếng – ý nghĩa của nó đã
bị
người ta bóp méo – ở Stockholm vào năm 1957, khi ông nhận giải Nobel
văn
chương: “Giữa công lý và mẹ tôi, tôi chọn mẹ”.
Camus, khởi nghĩa và mùa
xuân Ả Rập
Kamel Daoud
Phạm Nguyên
Trường dịch
Đọc bài
viết, của chính tác giả cuốn Meursault
Phản Điều Tra, thì có vẻ như ông cay cú trước thái độ của Camus
trước cuộc chiến Algerie.
Theo
GCC, Pamuk nhận xét, ôn hòa, và đúng hơn nhiều:
Nhưng
cú ‘bức tử’ Camus, chính là Cuộc Chiến Algérie. Là một anh Tây mũi lõ ở
thuộc địa, [an Algerian Frenchman], ông bị sức ép của tình yêu của ông
dành cho thế giới Địa Trung Hải này, và sự dâng hiến mình cho nước
Pháp. Một khi ông nhìn ra sự giận dữ, Tây mũi lõ hãy cút về nước, và
cuộc nổi dậy hung bạo từ đó mà ra, ông không thể chọn thái độ chống đối
nhà nước của Sartre, bởi vì những bè bạn của ông bị giết bởi những
người Ả rập - những tên "khủng bố", như báo chí Pháp gọi – trong cuộc
chiến giành độc lập. Ông đành chọn thái độ im lặng. Trong bài ai điếu
thật cảm động về người bạn cũ của mình, khi Camus mất, Sartre đã khai
triển những chiều sâu nhức nhối mà Camus giấu kín chúng bằng sự im lặng
đầy cao ngạo, đầy phẩm giá của mình.
Bị ép
buộc phải chọn bên, Camus thay vì chọn, thì khai triển ‘địa ngục tâm
lý’, trong Người Khách, The Guest.
Truyện ngắn tuyệt hảo mang tính chính trị này diễn tả chính trị, không
như là một điều mà chúng ta hăm hở vồ lấy nó, theo cái kiểu đường ra
trận mùa này đẹp lắm, nhưng mà là một tai nạn chẳng sung sướng tí chó
nào, mà chúng ta bắt buộc phải chấp nhận.
Thật
khó mà 'phản biện' ông, về điều này, nhất là Mít chúng ta!
Pamuk: Albert Camus
Camus viết về
Kẻ Xa Lạ.
Vào năm
1954, một người Đức đã gửi thư cho Camus, đề nghị và xin phép đưa Kẻ Xa
Lạ lên
sân khấu. Sau đây là lá thư trả lời của Camus (lần đầu tiên xuất hiện
trong cuộc
trưng bầy "Những câu chuyện về một cuốn sách: ‘Kẻ Xa Lạ’ của Albert
Camus". 1990).
Paris, ngày
8 tháng Chín, 1954
"Ông
thân mến,
... Ông hẳn
cũng đoán ra được, dự án của ông làm tôi phân vân. Đã hai mươi năm tôi
quan tâm
tới kịch nghệ, từ đủ thứ khía cạnh của nó (tôi đã từng là diễn viên, và
là nhà
đạo diễn), và tôi biết rằng, thứ ánh sáng còn sống, còn tươi (cru) là
ánh đèn
chói lòa ở sàn quay, thật khác xa cái thứ ánh sáng được tính toán thật
chi ly
mà người ta đưa vào trong một cuốn tiểu thuyết. Trước ánh sáng chói
chang đó, một
nhân vật, cho dù đứng thẳng ở trong một câu chuyện kể, có thể ngã lăn
đùng ra.
Nhưng lá thư của ông, và của M. Deblue làm cho tôi thật muốn lao vào
cuộc phiêu
lưu này. Và do kinh nghiệm, tôi biết rằng, chỉ sự tương kính giữa hai
cá nhân mới
là đảm bảo số một, khi quyết định cộng tác. Và tôi đồng ý để ông thực
hiện dự
án đưa tiểu thuyết Kẻ Xa Lạ thành kịch trình diễn...
Được đấy,
ông bạn ạ, cái dự án của ông. Chỉ có hai điểm xuyết nho nhỏ:
1. [Khán giả
mà] không được coi cái xen giết người thì thật là bực mình lắm đấy. Bởi
vì đây
là trái tim [centre: trung tâm] của câu chuyện. Đây là một cú giết
người có mặt
trời ở trong đó. Mặt trời ở đây là trung tâm mà thảm kịch xoay quanh.
Và thảm kịch
sáng chói lên nhờ ánh sáng mặt trời chiếu vào nó. Theo tôi, đây là điều
làm cho
nó khác với một câu chuyện u tối, và thoát tục [désincarné: mất xác
phàm; có
xác phàm thì mới có chuyện giết người], theo kiểu của Kafka. Ông sẽ
nói, khó lắm
đấy, nếu trình diễn được như thế. Tôi trả lời: Đúng như vậy. Khó lắm
đấy. Hãy cố
mà tìm tòi, và một khi vớ được, vở kịch của ông mới nguyên xi biết bao;
ấy là
tôi muốn nói, cái chất sáng tạo của kẻ đạo diễn.
2. Cái xen độc
thoại kết thúc màn thứ sáu, theo tôi, là bất khả thực hiện. Trên sân
khấu độc
thoại chỉ đi được với những cử chỉ, động tác (ấy là với những diễn viên
số một).
Thực hiện theo cách của ông, như ở xen đó, sẽ trở thành "lên lớp, giảng
mo-ran", nghĩa là rất kịch cợm, tôi muốn nói, giả tạo.
... Nói ngắn
gọn, tôi muốn làm sao tránh xa khỏi kiểu đua đòi Kafka, và chủ nghĩa
biểu hiện
(expressionnisme). "Kẻ Xa Lạ" không hiện thực mà cũng không kỳ quái
(fantastique). Với tôi, đây là một thứ huyền thoại nhập thể (incarné:
nhập xác
phàm), không lơ mơ mà bám cứng lấy cõi người ta, tới tận da, tận xương,
tận tủy.
Và tới tận cùng của hơi nóng ngày ngày. Người ta muốn coi đấy là một
kiểu cọ mới
của vô đạo đức (immoraliste). Vậy là lầm to. Cái đập vào mặt chúng ta ở
đây,
không phải là đạo đức, mà là thế giới của vụ án, nó trưởng giả, nó quốc
xã, nó
cộng sản, nói tóm gọn, đây chính là vết lở lói đương thời.
Riêng với
anh chàng Meursault, có chút hướng thượng ở anh ta, và đó là từ chối,
tới chết:
nói dối.... Meursault không ở phía những ông tòa, lề luật xã hội, những
tình cảm
ước lệ, đóng hộp. Anh ta có đó, như hòn sỏi, như ngọn gió, như biển cả,
dưới mặt
trời. Và cũng như sỏi đá, chúng có thể biết đau, nhưng không thể nói
dối, chẳng
bao giờ nói dối.... Nếu ông đọc cuốn sách theo kiểu tôi vừa đề nghị,
ông sẽ nhận
ra một thứ đạo đức của sự chân thành, và một niềm vui, vừa tiếu lâm vừa
bi thảm,
về cõi đời. Chính những điều này làm nó thoát ra khỏi vẻ u tối, biểu
hiện, hay
là thứ ánh sáng của sự tuyệt vọng....
Thân ái...
Albert
Camus.
Nó quốc xã, nó cộng sản,
nó... Bắc Kít!
Nói tóm gọn, đây là vết lở lói đương thời!
Tuyệt cú mèo!
V/v Said:
Tay này không đọc nổi
Camus, và cái gọi là "vô thức thực dân thuộc địa", (1) mà ông
ta gán cho Camus, qua nhân vật Meursault, khi làm thịt tên Ả Rập không
tên, bắn
1 phát, rồi bắn ba bốn phát vào cái Tây người chết, theo Gấu, áp dụng
cho Bắc Kít,
đúng hơn.
Chúng thèm Miền Nam, như là 1 tên ăn cướp - những sự đối xử
tàn ác
sau 30 Tháng Tư chứng tỏ điều này – nhưng cứ ra rả, Miền Nam bị nô lệ
Mỹ Ngụy,
phải giải phóng!
(1) The late scholar Edward Said referred to
Meursault as
a “sign of the colonial unconscious”.
Camus
trên đường đi Stockholm
lãnh Nobel.
Faulkner gửi cho‘bạn quí’một
cái mail:
‘Chúc mừng một tâm hồn luôn
tìm kiếm và tra hỏi’
*
Albert Camus
penser la révolte
Que reste-t-il aujourd'hui de
la pensée d'Albert Camus?
Deux récents volumes de la
Pléiade, qui présentent ses écrits en suivant l'ordre chronologique,
nous font
redécouvrir pas à pas l'itinéraire d'un intellectuel engagé à qui
l'Histoire a
donné raison, tant dans son combat contre les totalitarismes que dans
sa
querelle avec Sartre. La vérité, qu'elle soit de droite ou de gauche,
voilà
tout ce qui comptait pour ce « Français d'Algérie» né dans la misère,
cet
amouureux du soleil qui avait à cœur de célébrer la beauté du monde
sans jamais
en négliger la part d'ombre. Loin des étiquettes habituelles et souvent
réductrices (l'écrivain de l'absurde, le moraliste bien-pensant, le «
philosophe pour classes terminales »), Albert Camus, en choisissant
l'homme plutôt
que son concept et en liant révolte et mesure pour dénoncer la
tentation
nihiliste de la révoluution pure, a fait montre d'une audace inégalée.
Entre
exigence d'équilibre et sentiment du tragique, combativité et
scepticisme,
Albert Camus n'a jamais perdu le sens de la nuance, quelles que soient
les
tempêtes politiques qui l'environnaient. Son combat contre toute forme
d'extrémisme,
qui trouve une de ses plus belles expressions dans sa réflexion sur le
terrorisme, nous invite plus que jamais à relire une œuvre placée sous
le signe
de « la gratitude au monde ».
Dossier coordonné par Minh
Tran Huy
Bây giờ, tư tưởng
Camus còn tí
gì? Hai cuốn mới ra lò, tủ sách Pléiade, trình bầy suy nghĩ của ông
theo dòng
biên niên, làm chúng ta lại khám phá từng bước đi, hành trình của
một nhà trí thức nhập cuộc, và Lịch Sử, đã cho thấy là ông ta có lý,
trong cuộc
chiến của ông, chống lại những chế độ toàn trị, cũng như trong vụ lèm
bèm với
Sartre. Sự thực, cho dù tả hay hữu, đó là tất cả những gì mà ông quan
tâm, cái ông
'Tây gốc thuộc địa Algérie' sinh ra từ nghèo đói, khốn cùng,
kẻ mê mẩn
ánh nắng, ‘mặt trời chân lý chói qua tim’, nhưng chẳng bao giờ quên
phần
bóng tối
của nó.
Hãy vất mẹ mọi cái nón mà đám người thiển cận thường chụp cho
ông, (nhà
văn của phi lý, nhà đạo đức lẩm cẩm, triết gia của học sinh trung học,
những năm
chót), Albert Camus, trong khi chọn con người thay vì cái quan niệm về
nó, và
trong khi nối kết sự phản kháng và chừng mực, để tố cáo sự cám dỗ hư vô
của cách
mạng thuần tuý, đã cho thấy một sự can đảm cùng mình.
Giữa đòi hỏi, về
một sự cân
bằng và cảm tính bi đát, chiến đấu và bi quan, Albert Camus chưa bao
giờ để mất
đi bản lĩnh, sắc thái của mình, mặc dù bão tố chính trị vây quanh ông.
Cuộc chiến
đấu của ông chống lại mọi hình thức cực đoan, đã tìm thấy những biểu
hiện tuyệt
vời, ở trong sự suy nghĩ của ông về chủ nghĩa khủng bố, và, hơn lúc nào
hết, vào
lúc này, nó mời gọi chúng ta đọc lại một tác phẩm, đặt dưới dấu hiệu
của ‘la
gratitude au monde’ [biết ơn thế giới]
Trần
Minh Huy, người điều
nghiên, bố trí, phân bổ công tác viết lách cho số đặc biệt về Camus,
Le Magazine Littéraire Mai 2006
Cái
thái độ không khoái
Camus, như của TTT, thí dụ, là rất phổ biến trong giới trí thức, dân
viết lách,
trên toàn thế giới, quái thế!
Nhưng dần dà, người ta càng
thấm đòn của Camus, nhất là sau cú 911.
Olivier Todd, vốn được coi là ‘đứa con trai
nổi loạn’ của Sartre, rất thân cận với đám ‘sartriens’ [những người của
Sartre], những năm 1950, 1960, vào lúc đó, Camus chưa tỏa ra 'mùi
thánh' [en odeur de la sainteté]. Dần dần ông tò tò theo Camus, và tới
năm 1997,
cho ra lò “Camus, một đời người”, một
cuốn tiểu sử thật đẹp, dưới dạng tưởng
niệm mang tính phê bình, được coi là một cuốn từ điển, une référence,
về Camus.
Trong số báo đặc biệt biệt về
Camus, đã dẫn, có cuộc trò chuyện, Một
sự đọc lại Albert Camus, giữa Todd và Alain
Finkielkraut [tiểu luận gia, đệ tử Levinas, tác giả Sự
thất bại của tư tưởng, 1987, một cuốn sách nổi cộm, gây rất nhiều
tiếng ồn, người tìm thấy ở Camus rất nhiều đồng điệu…]
Lý do nào hai ông đếch chịu được Kẻ Xa Lạ?
Olivier Todd: Hãy
hỏi đám
sinh viên nước ngoài. Đánh chết, thì anh nào cô nấy đều chọn Kẻ Xa Lạ, cuốn sách gối đầu giường! Vì
những lý do tốt, và.. xấu.
Tốt: Một cuốn sách rất uyên
nguyên, original, bí ẩn, mystérieux, thật khó cắt nghĩa.
Xấu: Nó ngắn quá, cụt thun lủn!
Alain Finkielkraut có cái may
là chỉ biết Camus qua tác phẩm: tôi nghĩ, tôi bị Camus mà mắt, là do vụ
chủ nghĩa
CS và Bắc Phi, và do ảnh hưởng của đám sartriens. Nhưng tôi không bao
giờ mê nổi La Peste, Dịch Hạch, mặc dù lần đầu đọc,
thấy ‘sáng và mạnh’ [lumineux et fort]: Rổn rảng quá, những kẻ tốt,
những người
xấu…
Tôi cũng không
chịu được cách
giải thích của Edward Said, ông ta cho rằng, Camus chẳng bao giờ đưa
được một
anh Ả Rập nào ra hồn [crédible] vào trong cuốn sách đó: ông ta có biết
thằng chó
nào đâu! [il ne les connaissait pas!]
*
Le Magazine Littéraire:
Albert Camus là một khuôn mặt
trí thức nổi cộm trong đời sống tinh thần của nước Tẩy… Ngoài ra còn là
một nhân
vật, một huyền tượng…
Olivier Todd: Tôi mất năm năm
với thằng chả, để viết cuốn tiểu sử về hắn ta. Trong đời thường, cũng
cay
đắng ngọt bùi lắm [sucrées-salées: đường ngọt, muối mặn]. Một bữa, vào
những năm
1950, tôi đang ngồi Cà phê Marie, chỗ quảng trường Saint-Sulpice, với
bà vợ tuyệt
trẻ của tôi [avec ma très jeune femme]. Camus tới, ngồi ở quầy, và nhìn
bả như
muốn lột trần truồng bả ra, [qui n’arrête pas de la déshabiller des
yeux.] Tôi tức
điên lên…
Alain Finkielkraut: Tức điên,
hay sướng điên lên? [Furieux ou flatté?]
Đếch khoái trừu tượng và
cực đoan, Camus bèn kiếm ra một cách, của riêng ông, để viết về chính
trị:
thoáng, nhã, cao thượng, và hơi buồn buồn
Một trong
những
cái bảnh [merit] của Kẻ Xa Lạ
là tính kinh tế [the economy] của văn xuôi. Khi
cuốn sách xuất hiện, người ta nói, nó thuổng sự tinh ròng và ngắn gọn
của Hemingway [it was said
that it emulated Hemingway’s purity and brevity]. Nhưng ngôn ngữ của
anh Tẩy
[the Frenchman’s language] thì nhiều dụng tâm, và trí thức hơn của anh
Mẽo,
much more premeditated and intellectual than the American’s.Nó sáng sủa
và chính xác, clear and precise, đến
nỗi hình như không phải viết, mà là nói, hay bảnh hơn nữa, nghe, heard.
Cái cách
thức tuyệt đối - qua đó, văn phong được vặt sạch mọi hoa hoè hoa sói,
và cấm không
được buông thả, xả láng, self-indulgence - là cái điều góp phần làm nên
“y như
thiệt”, rất ư là thiệt, verisimilitude, của câu chuyện thật khó mà
thiệt được, rất
ư là đáng ngờ, implausible story.
Và tới
đây thì những tính cách của “viết” và
của “nhân vật” trộn vào nhau: Meursault, chính anh ta, thì cũng như
“ông vua cởi
chuồng”, nhìn thấy hết, transparent, trực tiếp, direct, và nguyên tố,
cơ bản, elemental.
Điều
khủng
khiếp nhất về anh ta, là, anh ta đếch thèm để ý đến những người khác
[cái ý nghĩa
“người dưng”, dửng dưng, là do vậy, thành thử Dương Tường mới khư khư
giữ lấy cách
dịch của ông]. Những từ lớn, kêu như chuông, tư tưởng lớn, tôn giáo,
công lý, cái
chết, tự do – anh ta làm mặt lạnh với tất cả, và anh ta làm mặt
lạnh luôn cả với những đau khổ của người khác. Khi anh hàng
xóm Raymond Sintes đánh cô bồ người Ả Rập, “Kẻ Tà Đạo” Meursault bèn
biếu anh
ta 1 cái “alibi”, [ngoại phạm, đếch có mặt tại hiện trường], để trình
với cảnh
sát, điều này không có nghĩa anh có cảm tình với người hàng xóm, mà chỉ
là do…
bất cẩn, bất cần, negligence. Ngược lại, có những chi tiết nhỏ nhặt,
hay một vài
khúc phim nhảm nhí, chuyện thường ngày ở huyện, certain daily episodes,
lại làm
anh quan tâm, thí dụ, mối liên hệ giữa anh già Salmadano với con chó.
Có vẻ như
anh ta rất có cảm tình với những trò lẩm cẩm này. Nhưng những gì làm
anh cảm động
thì không liên quan đến đàn ông hay là đàn bà, mà là với cảnh quan con
người,
human landscapes, nhưng, anh ta tước đi hết mọi tính người, chỉ giữ lại
những
thực tại cảm giác, sensorial realities, nóng thì bảo là nóng, lạnh thì
bảo là lạnh:
sự xô đẩy, chen lấn, tiếng ồn ào nơi lối xóm, những mùi của mùa hè,
những bãi
biển cát nóng bỏng.
Anh ta là
1
kẻ xa lạ theo đúng nghĩa cơ bản, radical sense, bởi vì anh ta giao tiếp
tốt với những sự vật hơn là với con người. Và để giữ mối liên lạc với
con
người, anh ta bèn biến con người thành con vật, hoặc thành đối tượng,
tức là những
đồ vật. [Câu này khủng thật: in order to maintain a relationship with
humans,
he must animalize them or objectify them.]
Anh ta
ứng xử
thật tới, he gets on so well, với cô bồ Marie, là theo kiểu đó: quần áo
cô mặc,
đôi dép cô đi, cái cơ thể cô “nhịp nhàng, réo rắt” ở nơi anh [strike a
chord in
him]. Cô gái không đánh thức tình cảm ở nơi anh, mà 1 cái gì dài,
durable, hơn:
cô đánh thức cả một chuỗi ham muốn, Meursault chỉ quan tâm tới cái bản
năng, thú
vật ở nơi cô. Thế giới của Meursault không phải là thế giới tà đạo,
pagan, nó là
1 thế giới mất tính người, dehumanized.
Kỳ cục
là, mặc
dù bài xã hội, antisocial, M. không phải là 1 kẻ nổi loạn, a rebel, bởi
vì anh
ta không có ý niệm gì về “nonconformity” [không phù hợp, không thuận
theo]. Điều
anh ta làm không mắc mớ [tied] với nguyên lý, hay niềm tin, khiến anh
thách đố
trật tự xã hội: cách sống của anh là như thế. Anh ta từ chối khế ước xã
hội,
the social pact, vượt nghi lễ, tập tục mang dấu ấn cuộc sống tập thể,
theo kiểu
tự nhiên như người Hà Lội, và cũng chẳng thèm để ý tới điều anh ta làm
nữa (ít
ra là như vậy, cho đến khi anh ta bị kết án). Với những người kết án
anh, những
điều trên mới tệ hại hơn nhiều so với tội ác của anh. Nếu anh ta có
những ý nghĩ,
những giá trị để biện minh cho hành động của mình, có thể họ sẽ khoan
dung hơn.
Họ sẽ đưa anh đi học tập cải tạo, phục hồi nhân phẩm. Nhưng anh ta là
như vậy,
bất trị, incorrigible, hết xài về mặt xã hội (cannot be reclaimed for
society)
Khi công tố viện phán, M hết thuốc chữa, anh ta chẳng có gì nói về mặt
luật pháp
mà anh ta đếch thèm để ý đến, Meursault has nothing to do with “a
society whose
laws he is unaware of”, ông ta hoàn toàn có lý, từ phía quan tòa.
Meursault là
1 thứ quỉ, a kind of monster. Nhưng trường hợp của anh ta cũng làm bật
ra những
khía cạnh quỉ ma, giới hạn của xã hội, theo nghĩa, mọi xã hội, dù cởi
mở tới cỡ
nào, thì cũng luôn đặt ra những chướng ngại vật, và trừng phạt, trên
con đường
mà 1 cá nhân, mỗi cá nhân, trong thâm sâu của nó, luôn đòi hỏi, 1 tự do
tuyệt đối.
Ở bên
trong
cái chủ nghĩa bi quan của Kẻ Xa Lạ,
tuy nhiên, vẫn âm ỉ cháy một ngọn
lửa hy vọng.
Nhất là đoạn cuối khép lại cuốn truyện, ở đó, không phải cam phận,
resignation,
nhưng mà là sự sáng suốt ngự trị. M. đá cho anh thầy tu 1 phát, ra khỏi
sự giận
dữ của anh, [đi chỗ khác chơi, ta đếch có thì giờ với mi, thì giờ của
ta quí lắm,
đâu có còn bao nhiêu, hà, hà! [Nhà thơ TTT, một lần
ngồi Quán
Chùa, chê đoạn này thua xa đoạn tương tự trong Đỏ và Đen].
Anh thầy tu cố ôm lấy M, cố thuần phục anh ta, bằng cách
dụ khị, ta sẽ cầu nguyện cho con, sẽ ôm lấy số mệnh của con, như là 1
thằng đàn
ông mở lòng ra trước sự “dửng dưng dịu dàng của cõi đời” [the chaplain
who had
tried to domesticate him, by offering to pray for him, and embraces,
with
serene confidence, his destiny as a man open to ‘the tender
indifference of the
world’]. (1)
Viết
lại/Đợp Lại "Kẻ Xa Lạ" của Camus/Chủ nghĩa Thực
Dân Thuộc Địa của Tẩy. Phản điều tra Meursault
New Algerian fiction
Stranger and stranger
An biting Algerian response
to French colonialism
Camus vs Meursault, Phản
Điều Tra
FOREWORD
Albert
Camus-Political Journalist: Democracy in an Age of Terror
Our
twentieth century is the century of fear.... We live in terror.
-ALBERT
CAMUS,
"The
Century of Fear" (Combat, November 19, 1946)
I have
always believed that if people who placed their hopes in the human
condition
were mad, those who despaired of events were cowards. Henceforth there
will be
only one honorable choice: to wager everything on the belief that in
the end
words will prove stronger than bullets.
Tôi
luôn luôn tin rằng,
nếu những kẻ đặt hy vọng vào phận người - khùng,
thì những kẻ quá chán sự kiện, hèn.
Từ đó, chỉ có 1 chọn lựa cực bảnh: Húc đầu vô mọi chuyện, với niềm tin,
sau
cùng chữ mạnh hơn đạn.
-ALBERT
CAMUS,
"Toward
Dialogue" (Combat, November 30, 1946)
Nadine
Gordimer
chọn Sách Trong Năm 2007: Camus @ Combat:
Non-fiction - Camus at
"Combat": Writing 1944-1947 by Albert Camus, edited by
Jacqueline Levi-Valensi (Princeton):
editorials and other texts, letters, published at high personal risk by
Camus
in what began as an underground newspaper during the German of
Occupation of
France. Every line totally charged with extraordinary synthesis of
passionate
conviction and objectivity in intellectual force that distinguishes
Camus's
creative talent in his novels, The Plague and The Outtsider.
As
editor and journalist, he writes on the premiss, good for during the
Occupation
and prescient for our present he did not live to see: " ... the end of
ideologies is upon us, that is, the end of absolute utopias that
destroy
themselves owing to the heavy price they eventually exact when they
seek to
become part of historical reality". After the war, he wrote on Algeria
what held good for other colonial empires as well: "The failure to
peacefully put an end to colonialism in the aftermath of World War II
... a
serious, if not the most serious, failure of French democracy itself'.
… Loại không giả
tưởng, tôi chọn cuốn “Camus tại báo Combat", gồm những bài bình
luận, và những bài viết khác, xuất hiện vào lúc thật nguy hiểm cho
người viết,
trên tờ nhật báo chui tại một nước Pháp bị Nazi chiếm đóng. Mỗi dòng
viết, chứa
trong nó, sự tổng hợp kỳ tuyệt, của niềm tin say mê và của tính khách
quan,
trong một sức mạnh trí tuệ, chính nó làm rạch ròi ra cái tài năng sáng
tạo của
Camus, ở trong những cuốn tiểu thuyết, Dịch Hạch và Kẻ Xa
Lạ. Vừa
là chủ bút vừa là ký giả, ông viết, về tiền đề, tốt cho thời kỳ [nước
Pháp bị]
Chiếm Đóng, và còn là một dự báo cho thời hiện tại của chúng ta mà ông
chẳng
còn sống để chứng nghiệm: “… sự cáo chung của những ý thức hệ đè lên
chúng ta,
nói rõ hơn, sự cáo chung của những không tưởng tuyệt đối, chúng tự huỷ
chúng,
và trong khi tự huỷ, chúng còn đòi cái giá nặng nề khi muốn có phần
trong thực
tại lịch sử”. Sau chiến tranh, ông viết về Algeria, điều được coi là
tốt, không
chỉ cho cựu xứ sở thực dân thuộc địa này mà còn cho những đế quốc thực
dân
thuộc địa khác: “Sự thất bại không kết thúc một cách hoà bình chủ nghĩa
thực
dân thuộc địa, sau khi Đệ Nhị Thế Chiến chấm dứt… là một thất bại
nghiêm trọng,
nếu không muốn nói, tối nghiêm trọng, cho chính nền dân chủ của nước
Pháp”.
*
Cuộc chiến chống Mẽo,
có rất nhiều “uẩn khúc”, và sau đây là
những gợi ý
của "Gấu nhà văn", liên quan tới cuộc thánh chiến thứ nhì này.
Thứ nhất, tụi mũi lõ không rành
lịch sử dân Mít.
Cuộc chiến thứ nhì liên quan
tới gốc gác của giống dân Mít, và, có thể nói, dân Mít không làm sao
tránh khỏi
cuộc chiến này. Có dân Mít, là để thực hiện cuộc chiến đó!
Về cái vụ liên can đến gốc
gác, thì em Rose, Bông Hồng, trong Y Sĩ đồng quê của Kafka, có đưa ra
một lời
giải thích. Em người làm nói với ông chủ của em, khi ông chủ cần cặp
ngựa để thắng
cái xe, để đi một lèo vượt Trường Sơn, cứu con bịnh thập tử nhất sinh
Miền Nam,
và trong cơn mệt mỏi giận dữ tìm hoài không ra cặp ngựa, lối xóm cũng
chẳng ai
cho mượn, bèn đạp cái cánh cửa chuồng lợn đánh rầm một cái, cửa mở
tung, và con
quỉ chuồng lợn xuất hiện, cùng cặp ngựa:
-Ông chủ mà cũng không biết
trong nhà của mình có gì!
Dân Miền Bắc không hề nghĩ đến,
chẳng bao giờ thắc mắc về một con quỉ nằm ở trong đáy sâu, trong xương,
trong hồn,
trong tủy họ, cho đến khi đánh cho Mỹ cút Ngụy nhào, thì nó mới nhe
nanh múa vuốt
xuất hiện, hà, hà, ăn cướp mà dám nói giải phóng hử, hử!
*
Viên
y sĩ đá cánh cửa bật tung, và "giải thoát" (deliver: sinh nở, giải
thoát) - trước sự sững sờ của ông - người chăn và hai con ngựa, từ nơi
chuồng
heo. Như sự xuất hiện của cái mũi, từ ổ bánh mì, trong chuyện của
Gogol, sự xuất
hiện của người chăn và hai con ngựa trong "Y sĩ Đồng quê" đã được miêu
tả hầu như là một cơn đẻ (as a birth): người chăn ngựa bò ra "bằng bốn
chân",
hai con ngựa, "con nọ tiếp con kia, bốn chân lẳn vào mình..." Cắn vào
má Rose là hành động đầu tiên của người chăn ngựa, vì vậy mà viên y sĩ
gọi anh
là "đồ súc vật". Tính dâm tà của anh, và vụ xâm phạm cô gái thực sự
mang tính thú vật. Viên y sĩ có thể nghe "cánh cửa nhà tôi long ra từng
mảnh
dưới những cú đập của tên chăn ngựa". Cùng lúc, tên chăn ngựa đóng vai
quen thuộc của quỉ dữ, trong chuyện dân gian, đề nghị một chuyện trao
đổi ma
quái. Tên giữ ngựa/con quỉ như từ dưng không trồi lên, dụ khị
(offering) thân
chủ của nó: mày muốn được cái đó hả, thì đây này; nhưng, cái mà con quỉ
lấy đi
còn quí giá, còn ý nghĩa hơn nhiều. Viên y sĩ nói: ta sẽ không đổi
chuyến đi với
cái giá cô gái. Nhưng một khi ông chấp nhận đôi ngựa, "định mệnh đã an
bài"!
Tchekhov
và
Kafka
Bạn
cũng có thể hình dung ra
con quỉ, là anh láng giềng độc địa, mày cần cặp ngựa ư, OK, và cung cấp
cho anh
bộ đội Cụ Hồ đủ thứ trên đời, luôn cả mấy sợi lông chim mà cũng ‘made
in China’,
và đến khi làm thịt được thằng em Nam Bộ, mới hà, hà, nào đảo đâu,
núi đâu,
gái đâu, Bô Xịt đâu…. ?
Camus, rebellion and the
Arab spring
Kamel Daoud
Camus, rebellion and the
Arab spring
During the Arab uprisings and
afterwards, Camus was somehow planted among the crowds
On January 4 1960, the Algerian-born
French novelist and philosopher Albert Camus died in a car accident in
France.
He left a grave in that country, his books to the world, and a curious
legacy
in the Arab world.
His best-known novel, L’Etranger,
first published in 1942, focuses on the story of Meursault, a French
Algerian
who, after attending his mother’s funeral, kills an unnamed Arab. The
Arab
political left has long held the murder of that unnamed man, casually
killed on
a beach, against Camus. (The late scholar Edward Said referred to
Meursault as
a “sign of the colonial unconscious”.) It’s a symbolic murder, of
course, for
Arabs in the novels of Camus are mere shadows, anonymous people,
reaching an
apogee of invisibility in La Peste and L’Etranger.
Only in Le
premier homme, Camus’s final — posthumous — novel does the reader
finally
come across a flesh-and-blood Arab with a first name of his own.
Resentment against Camus in Algeria was
reinforced by his stand during the Algerian war of liberation of the
1950s. The
author of L’homme révolté was silent while the Algerians were
fighting
French colonialism, until he made his famous, much-distorted statement
in
Stockholm in 1957, on receiving the Nobel Prize for literature:
“Between
justice and my mother, I choose my mother.”
The Absurdism Camus described, the hymn
to courage in the face of what cannot be explained, the challenge to
totalitarianism,
will not be perpetuated by the Arab intelligentsia of the generation
that
witnessed decolonisation. The Arab revolutionary is not Camus’s homme
révolté and Camus is largely absent from our school handbooks.
Today, Islamism thrives as a philosophy
of life and death in the Arab world, a way of thinking born of the
crash of
independences, the collapse of the progressives and the failure of an
alternative philosophy to religious revival. In the early 1990s, at an
Islamist
students’ meeting in an Algerian university, voices were heard
clamouring for
Camus’s death, despite the fact that he was already long dead.
What blame is now levelled at the
philosopher? No longer the Arab’s murder in L’Etranger, but
God’s murder
in L’homme révolté and Le mythe de Sisyphe. Absurdism
is an
attack on God. Algerian Islamists, the first to have made an attempt at
restoring the caliphate and planning a coup in the name of Allah, have
developed a strange obsession with Camus, the colonial born under
Allah’s sun,
on Algerian land, whose philosophy is imbued with the strange sincerity
of a
godless saint. They have a dim perception that Camus, through
Absurdism, is
laying bare what is tentatively being hidden under the cover of
preaching and
prayer. It’s a strange reversal. In the sun of the desert, the jihadist
kills
Meursault, who has become a tourist lying in the shade under the rocks,
by the
seaside or the swimming pools.
Since the Tunisian spring of 2011, the
revolutionary has also been Arab. During the uprisings and afterwards,
Camus
was somehow planted among the crowds. At least his books were, or a
phrase, or
a turn of mind, or a way of facing up to the political absurdity of
dictatorships. Or at least L’homme révolté was. The concept of
revolt
that the writer held up high as a destiny is now going through
political
revival.
Camus, however, is not the father of
the Arab spring. He may just offer a way out of the dilemma that
revolutionaries have been locked in for generations: if I rebel,
Islamists will
take power; if I don’t, dictators will stay in power. This is an absurd
trap
indeed for what stands clearly out of Camus’s work is the need to
engage in an
all-out, in-depth struggle: toppling both dictators and gods. It is no
use
cutting off the president’s head if the religious facet goes
unreformed, if
there is no confrontation with it. Revolution will not be complete in
the Arab
world unless it involves both heaven and earth — that is, political
power and
Islamist or religious dictatorship.
Kamel Daoud is author
of ‘The Meursault Investigation’, shortlisted for the 2014 Prix
Goncourt, which
is published in English on July 2 by Oneworld. This piece was
translated by
Yamina Hellal
Bản tiếng Việt
Bài viết, đề ngày May 29, 2015 5:38 pm,
của chính tác giả cuốn sách.
Và cuốn sách, như chúng ta biết, được Goncourt năm
sau [Le journaliste et romancier algérien Kamel Daoud a reçu ce mardi 5
mai le
prix Goncourt du Premier roman pour «Meursault, contre-enquête» (Actes
Sud).]
Như vậy, tờ báo đăng bài này cũng không biết điều này, sau khi cho
đăng, nếu chúng
ta đọc dòng chót:
Kamel Daoud
is author of ‘The Meursault
Investigation’,
shortlisted for the 2014 Prix Goncourt, which is published in English
on July 2
by Oneworld. This piece was translated by Yamina Hellal.
Theo GCC, đọc bài điểm trên Người Kinh
Tế, thú hơn bài này!
New Algerian fiction
Stranger and stranger
WHEN Albert Camus first published his best known
work,
“L’Étranger” in 1942, Algeria was still a colony of France, and “the
Arab” killed by the book’s anti-hero, Meursault, had no name. Seventy
years on, that omission is rectified in a scorching debut novel that is
sure to become an essential companion to Camus’s masterpiece. He was
called Musa.
“The Meursault Investigation” by Kamel Daoud, an
Algerian journalist, is a biting, profound response to French
colonialism. It is also a lamentation for a modern Algeria gripped by
pious fundamentalism. And it has earned the author both the 2015 Prix
Goncourt for best first novel and a Facebook fatwa
from a minor Muslim cleric calling for his death.
The book starts as a caustic, rambling monologue
told by
an old man in a bar to an appropriately nameless French expat. The
narrator is Musa’s younger brother, Harun; he says he and his mother
are “the only genuine heroes of that famous story”. Night by night he
unwinds his version of the tale Camus told, seeking justice for Musa,
condemning the “insulting brevity” of a scene in which the victim did
not even merit a name.
To Musa’s brother, the murderer and the famous
writer
are one and the same; in his telling, reality and fiction slip and
collide. The book’s brilliance lies in the gradual way Mr Daoud reveals
Harun to be a perfect mirror: the tragic double of Meursault/Camus. The
plot of his story is similarly twinned with that of Camus’s work.
Harun’s own crime and the consequent condemnation set off reverberating
echoes. “Maman died today,” Camus’s original opening line, becomes
“Mama’s still alive today.”
The reader begins to grasp that Harun is as much a
stranger in his liberated country as Meursault once was. Both men are
consumed by the violence of colonialism and its legacy. Harun has no
use for the imams of his neighbourhood. “Religion”, he quips, “is
public transportation I never use.” In Mr Daoud’s story Harun is duly
hounded, not by the priest who harangues Meursault, but by “a whole
pack of religious fanatics”. When the ghost of Camus sidles up from the
back of the bar, the old man wryly notes: “Ha, ha, I’m his Arab. Or
maybe he’s mine.”
If Camus’s writing is “capable of giving air facets
like
diamonds”, as Harun says, Mr Daoud’s prose is propulsive and charged.
The pages glitter with memorable phrases. This brave book is a
vertiginous response to a century of trauma. But read the Frenchman’s
version first.
Correction: We got our opening lines
muddled.
Camus started “L’Étranger” with “Maman died today”,
not “Maman died yesterday” which was our original suggestion.
Sorry about that. This was changed on May 29th 2015.
Bản tiếng Việt
Camus, khởi nghĩa và mùa
xuân Ả Rập
Kamel Daoud
Phạm Nguyên
Trường dịch
Trong các cuộc nổi
dậy của Mùa Xuân Ả Rập và sau đó, Camus dường như đang lẩn khuất giữa
đám đông.
Ngày 04 tháng 1 năm 1960, Albert Camus,
nhà văn và triết gia người Pháp sinh ở Algeria đã chết trong một vụ tai
nạn xe
hơi ở Pháp. Ông để lại một ngôi mộ ở đất nước này, còn những cuốn sách
thì dành
cho thế giới, và ông cũng để lại một di sản kỳ lạ trong thế giới Ả Rập.
Tác phẩm nổi tiếng nhất, cuốn tiểu
thuyết Người Dưng (L’Etranger), xuất bản lần đầu vào năm
1942,
nói về Meursault, một người Algeria gốc Pháp, sau khi tham dự đám tang
của mẹ
mình, đã hạ sát một người Ả Rập vô danh. Trong một thời gian dài, phái
Tả ở
trong thế giới Ả Rập không tha thứ cho Camus vì vụ một người đàn ông vô
danh
tình cờ bị giết trên bãi biển đó. (Một học giả đã quá cố, ông Edward
Said, từng
coi Meursault là “biểu hiện của thái độ thực dân một cách vô thức”).
Không nghi
ngờ gì rằng đây là vụ giết người mang tính biểu tượng, vì người Ả Rập
trong các
tiểu thuyết của Camus chỉ đơn giản là những cái bóng, những người không
hề có
tên tuổi gì và đỉnh cao của sự vô danh, vô hình của họ được thể hiện rõ
nhất
trong hai cuốn tiểu thuyết Dịch Hạch (La Peste) và L’Etranger.
Chỉ có có trong cuốn tiểu thuyết cuối cùng, cuốn Con người đầu tiên
(Le
premier homme), được xuất bản sau khi Camus đã chết, thì độc giả
mới thấy
một người Ả Rập bằng xương có thịt và có tên tuổi.
Quan điểm của Camus trong giai đoạn
diễn ra cuộc chiến tranh giải phóng Algeria hồi những năm 1950 còn làm
người ta
hận ông hơn nữa. Tác giả cuốn của Con người nổi loạn (L’homme
révolté)
đã không lên tiếng khi người Algeria chiến đấu chống lại chủ nghĩa thực
dân
Pháp, cho đến khi ông đưa ra lời tuyên bố nổi tiếng – ý nghĩa của nó đã
bị
người ta bóp méo – ở Stockholm vào năm 1957, khi ông nhận giải Nobel
văn
chương: “Giữa công lý và mẹ tôi, tôi chọn mẹ”.
Chủ nghĩa phi lý mà Camus mô tả trong
các tác phẩm của mình, chính là bài tụng ca lòng can đảm khi đối mặt
với những
hiện tượng không thể giải thích được, là thách thức đối với chế độ toàn
trị, đã
không được giới trí thức Ả Rập trong giai đoạn phi thực dân hóa tiếp
thu. Nhà
cách mạng trong thế giới Ả Rập không phải là homme révolté (con người
nổi loạn)
của Camus. Và nói chung, các trường học của chúng ta người ta không dạy
Camus.
Hiện nay, trong thế giới Ả Rập, người
ta lao vào Hồi giáo để tìm triết lý về sống và chết, đấy là cách tư duy
được
sinh ra khi tinh thần độc lập bị phá hủy, khi sự tiến bộ bị đập tan và
không có
triết lý nào đủ sức thay thế cho sự hồi sinh của tôn giáo. Vào đầu
những năm
1990, tại cuộc họp của các sinh viên Hồi giáo trong một trường đại học
ở
Algeria, người ta đã nghe được những lời kêu gọi tử hình Camus, mặc dù,
trên
thực tế ông đã chết từ lâu.
Người ta đã lên án triết gia vì tội gì?
Bây giờ đã không phải còn là vụ giết người Ả Rập trong tác phẩm L’Etranger,
mà là vụ giết Thượng Đế trong tác phẩm L’homme révolté và Thần
thoại
Sisyphus (Le Mythe de Sisyphe). Chủ nghĩa phi lý là cuộc tấn
công
vào Thượng Đế. Những người Hồi giáo Algeria, tức là những người đầu
tiên tìm
cách khôi phục chế độ của các Caliphate và lập kế hoạch đảo chính nhân
danh
thánh Allah, không hiểu sao, đã bị Camus – một người thực dân, sinh ra
dưới ánh
nắng mặt trời của Allah, trên đất Algeria, người cổ động cho triết lý
chứa đầy
sự chân chân thành kì lạ của một vị thánh vô thần – ám ảnh. Họ hiểu rất
mù mờ
về Camus, thông qua chủ nghĩa phi lý, ông đã lột trần tất cả những thứ
mà người
ta cố tính che giấu dưới những lời rao giảng và những cuốn kinh. Thật
là một
bước ngoặt kỳ lạ. Dưới ánh nắng của mặt trời sa mạc, chiến binh thánh
chiến
(jihadist) giết Meursault, nhưng bây giờ Meursault là bất kỳ du khách
nào nằm
dưới bóng mát dưới những tảng đá, bên bờ biển hoặc hồ bơi.
Kể từ mùa xuân Tunisia năm 2011, người
Ả Rập cũng đã trở thành các nhà cách mạng. Trong các cuộc nổi dậy và
sau đó,
Camus dường như đang lẩn khuất giữa đám đông. Ít nhất là những cuốn
sách của
ông, hoặc một câu nói, hoặc một cách tư duy, hoặc biện pháp đấu tranh
với sự
phi lý về mặt chính trị của chế độ độc tài. Ít nhất là cuốn L’homme
révolté
đã có mặt giữa những đám đông như thế. Khái niệm về khởi nghĩa mà nhà
văn nâng
lên thành định mệnh đang thấm vào toàn bộ quá trình hồi sinh về mặt
chính trị.
Nhưng Camus không phải là cha đẻ của
mùa xuân Arab. Ông chỉ trình bày một lối thoát ra khỏi tình trạng tiến
thoái
lưỡng nan mà các nhà cách mạng đã gặp trong suốt nhiều thế hệ: nếu tôi
nổi
loạn, người Hồi giáo sẽ nắm quyền lực; nếu tôi không nổi loạn, các nhà
độc tài
sẽ tiếp tục nắm quyền. Trên thực tế, đây là một cái bẫy cực kỳ phi lý
vì sợi
chỉ đỏ xuyên suốt các tác phẩm của Camus là cần phải tham gia vào cuộc
đấu
tranh toàn diện và sâu sắc: lật đổ cả các nhà cai trị độc tài lẫn thánh
thần.
Chặt đầu tổng thống mà không tiến hành cải cách tôn giáo, không đấu
tranh chống
lại tôn giáo thì sẽ chẳng có ý nghĩa gì. Cách mạng trong thế giới Ả Rập
chỉ
thành công khi nó động chạm đến cả đất lẫn trời – nghĩa là, động chạm
đến quyền
lực chính trị và quyền lực độc đoán của Hồi
giáo.
Ghi chú:
Kamel Daoud là tác giả cuốn The
Meursault Investigation (Cuộc điều tra Meursault), được đưa vào
danh sách ngắn
các tác phẩm dự giải Goncourt năm 2014. Bài báo này do Yamina Hellal
dịch sang
tiếng Anh.
Nguồn:
http://www.ft.com/intl/cms/s/0/a5191184-051f-11e5-9627-00144feabdc0.html
|
|