Thái
Bá Tân
Note: Độc giả
TV gửi, nhân đọc “Người Không Mặt”, chắc hẳn?
Tks
NQT
Ui chao, đọc
thì lại nhớ cái lần về lại nơi ông cụ bị làm thịt, thắp nén nhang. Bà
chị ruột cùng đi, ngồi trên xe, nhưng không xuống. Một mình thằng em
lụi cụi thắp nhang, vái bố vài cái, rồi lên xe, rồi về xứ lạnh.
Thảo Trường
phán, về thắp nén nhang, chụp cái lô cốt trên đê làng, rồi đi, là đủ
rồi, khỏi
về nữa!
Khi trở về lại
Đất Bắc, Gấu cũng có 1 giấc mộng như của Râu Kẽm, không phải cho Gấu mà
là cho mớ
tro cốt của bà cụ và thằng em trai.
Về 1 phát, là
vỡ mộng.
Sự thực, Gấu
đã lờ mờ đoán ra được, trước đó. Suốt thời gian sau 30 Tháng Tư 1975,
tới khi bỏ
chạy được quê hương, 1989, bà chị và thằng em chẳng hề hỏi thăm mẹ và
em, tất là
đã biết hoàn cảnh, số phận; mẹ thì già, nghèo, bịnh, thằng em thì
ghiền, một số
người làng vô Nam, về, cho biết, thăm hỏi gì nữa.
Chỉ có 1 đứa
em của Gấu, không phải cùng dòng, mà là thằng con riêng của bà cụ, sau
khi ông
cụ mất, tìm đủ cách vô thăm mẹ và anh.
Trường hợp đứa con bà cụ có với ông chồng sau, thì cũng thật là đau
thương cay đắng, và 1
phần vì nó,
mà Gấu không làm sao thương được mẹ, chỉ đến khi mẹ mất rồi, ở xứ
người. nhớ lại,
nhìn lại, thì mới biết thương mẹ.
Mới nhìn ra
cái con người thực của Gấu, một tên Bắc Kít khốn nạn, cà chớn, trong
máu đầy “trùng
độc”, là Cái Ác Bắc Kít, đó là sự thực.
Có lần, Gấu quen 1 ông ra
đi từ miền Bắc, làm thơ, có tí tên tuổi, thành thử
không tiện nêu tên. Anh ta lấy bài của Gấu gửi cho 1 ông Bắc Kít, cũng
ra đi từ
Miền Bắc, nhưng nổi tiếng hơn nhiều, cũng không tiện nêu tên, đọc, như
để giới
thiệu. Ông này lúc đầu gắt nhặng lên, tôi đâu có thì giờ, nhưng sau
chắc cũng
ghé mắt coi thử, và mail cho anh bạn, phán, thằng khốn này, phải là Bắc
Kít!
Thời gian cụ
quen ông chồng sau, là thời gian cụ mang mấy đứa con về Tề, trừ Gấu đi
học, ở với
ông bác.
Đó là thời
gian ở Phú Thọ, ông bác làm hiệu trưởng 1 trường tiểu học, Gấu và bà
chị, Chị Phúc,
cô con gái độc nhất của bác, hai chị em làm nghề làm nón.
Kỷ niệm, một
lần sốt, bị bà bác bắt ăn cháo, hết sốt rồi, vẫn bắt ăn cháo, đến sau
này, chỉ
nghe đến từ “cháo” là run bắn người, có vào hồi này.
Ông ta là quận
trưởng vùng quê Gấu, và vì chạy vạy, nuôi con, buôn hàng từ Tề
ra Kháng
Chiến, cụ phải quen biết nhờ vả ông ta.
*
Có lẽ đúng
thế thật. Hạnh phúc nhất là được thấy đất nước thanh bình, ổn định và
càng ngày
càng phát triển.
Hà Nội, ngày 2 tháng Mười năm 2002
Thái Bá Tân (1)
Vị độc
giả
TV hỏi, Gấu có quen tác giả.
Không quen,
nhưng nghe cái tên thì thấy quen quen, bèn gõ Google, ra mấy dòng trên.
No còm.
No quen, really.
HUYỆN LÀNG
VÀ NGƯỜI LÀNG
Thái Bá Tân
Hồi cải cách
ruộng đất năm 1956 tôi còn nhỏ, nhưng cũng đủ lớn để chứng kiến khá
nhiều chuyện
xẩy ra trong làng. Mãi đến giờ tôi vẫn không sao quên nổi cái không khí
điên
khùng, kỳ cục những ngày ấy. Cả làng như đang trong cơn lên đồng tập
thể. Đêm
nào cũng họp hành và đấu tố. Hàng xóm đấu hàng xóm, thằng ở đấu ông
chủ, có cả
trường hợp anh em đấu nhau hay thậm chí con cái đấu cha mẹ. Toàn những
mày tao
chi tớ, nhổ nước bọt, chỉ tay dí mặt trông mà khiếp. Ban ngày thì cả
làng kéo
nhau đi xem xử bắn bọn “gián điệp” và “cường hào gian ác”. Làng mình
không hoặc
chưa có thì xem ở làng khác.
Nổi bật nhất
là lễ rước “quả thực”, tức là lễ rước khắp làng những của cải, đồ đạc
tịch thu
của địa chủ trước khi chia cho dân làng. Vui lắm, thích lắm. Nhưng địa
chủ thì
ít, lại chủ yếu thuộc diện qui chụp theo chỉ tiêu trên giao xuống, nên
cũng chẳng
có nhiều để chia. Thế mà ai cũng hỉ hả ra mặt. Tự dưng không đâu người
ta cho
mình cái này cái nọ, hỏi làm sao không vui? Nhà tôi thuộc diện bần cố
nông nên
cũng được một cái chum và nửa con trâu, chung với ông bác. Bố mẹ tôi
cũng hỉ hả
lắm, dù tôi biết hai cụ chưa bao giờ phải đi ở hay làm thuê cuốc mướn
cho tên địa
chủ nào. Qua vụ này, tôi đâm ra ghét mấy ông bà nông dân tham lam, tráo
trở.
Chỉ đạo toàn
bộ cuộc lên đồng tập thể kéo dài cả tháng ấy là hai ông Đội, một từ
Vinh, một từ
tận trung ương về. Ông trung ương là người làng, có tên Hoạt, nghe nói
ông tự
xung phong, chứ cỡ ông không ai xuống cấp xã. Ông này trạc ba mươi lăm,
bốn
mươi tuổi, người vạm vỡ, ít nói và có thói quen chốc chốc lại ngúc ngắc
đầu như
đang cố xua một con ruồi vô hình.
Để nêu gương
cách mạng, ông chọn ở nhà lão Thọt theo phương châm ba cùng, là cùng
ăn, cùng ở
và cùng làm việc, mặc dù ông chỉ về ngủ vào lúc đêm khuya, trên cái
giường duy
nhất trong nhà. Lão Thọt thì ngủ trong ổ rơm dưới bếp, thường có tôi
ngủ cùng
vì lão có cả một kho truyện ma để kể. Bù lại, ban ngày tôi nhổ tóc bạc
và bắt rận
cho lão. Không hiểu sao người ta gọi Thọt khi lão đi đứng bình thường
như mọi
người. Lão còn khỏe mạnh dù đã hơn sáu mươi, trước từng đi lính sang
Dijon bên
Pháp. Nhưng lão mù, mà cũng mới đây thôi, sau một lần đau mắt và được
ông thầy
lang làng bên chữa bằng cách đắp hai con nhái đã nướng chín lên mắt.
Mấy ngày sau
khi Đội về, đêm nằm lão bảo tôi:
“Chúng nó bắt
đầu ăn thịt nhau đấy mày ạ?”
“Sao phải ăn
thịt nhau?” tôi hỏi.
“Rồi mày
xem. Bọn này chẳng hay ho gì đâu”.
“Bọn nào ạ?”
“Bọn Đội. Bọn
chó chết. Nhất là thằng Lan”.
Lan là tên
anh Đội thứ hai. Hắn còn trẻ nhưng rất hống hách, chuyên xúi người ta
đấu nhau,
và là thằng đầu têu đánh dã man những người bị qui oan. Đã thế hắn còn
tham ăn
và háu gái. Người ta thấy hắn bắt gà vịt và sờ mông, bóp vú đàn bà giữa
ban
ngày ban mặt mà chẳng ai dám nói gì. So với hắn, ông Hoạt còn tử tế hơn
nhiều,
dẫu vì ông khối người phải khốn khổ.
Một tối nọ
cô Bích, cháu đằng ngoại của lão Thọt, tấm tức chạy đến bảo lão cô bị
hắn đè ra
hiếp, dọa nếu không chịu, cả nhà cô sẽ bị qui địa chủ, tức là bị xử
bắn. Lão Thọt
nghe không nói một lời nào. Đêm ấy tôi nghe lão nghiến răng kèn kẹt
mãi. Tối
hôm sau, lúc ấy đã khuya, lão chui vào ổ rơm, ôm chặt tôi rồi thì thầm:
“Tao giết hắn
rồi!”
“Giết ai?”
tôi ngạc nhiên hỏi.
“Thằng chó
chết ấy chứ còn ai nữa. Chém một phát đứt ngang cuống họng. Ngoài đíếm
canh”.
“Nhưng bác
mù…”
“Mù ít thôi.
Tao giả vờ đấy. Cấm mà bép xép với ai đấy nhé! Tao giết!”
Khỏi phải
nói cả làng bị một phen điêu đứng thế nào. Người ta khám từng nhà, tra
khảo từng
người. Có hẳn một đoàn công an từ huyện về mà cuối cùng vẫn không tìm
ra thủ phạm
giết thằng Lan. Tất nhiên không ai nghi ngờ lão Thọt, vì lão mù.
Dần dần mọi
chuyện cũng lắng xuống. Tiếp đến là sửa sai và làng lại đi vào nếp cũ.
Ông Hoạt
quay ra Hà Nội với công việc xưa nay của mình trong ngành an ninh. Ông
thăng
quan tiến chức nhanh chóng và chẳng bao lâu trở thành người danh giá
nhất làng,
đặc biệt khi ông về thăm quê bằng ô tô con, chiếc đài bé xíu đeo bên
hông. Ở thủ
đô, lần nào gặp mặt đồng hương xã nhân năm mới ông cũng có mặt, và
đương nhiên
ngồi ở chỗ nổi bật nhất, được trọng vọng nhất. Tôi cũng nhiều lần bắt
tay, nói
chuyện với ông, dẫu không mấy thân mật vì chênh lệch tuổi tác và nghề
nghiệp.
Tôi tặng ông một vài cuốn sách tôi viết, và ngạc nhiên khi biết ông đọc
chúng.
Thậm chí đọc kỹ, có lần còn gọi điện nhận xét. Hình như ông thích tôi,
tôi
không biết vì sao, nhưng có cảm giác như thế. Một lần vui miệng, ông
nói ông đã
cứu tôi khỏi bị công an bắt.
“Ngày mới về
nước, cậu viết mấy bài thơ ủy mị, kêu khổ. Chúng nó đưa vào sổ đen,
định bắt
nhưng tớ đỡ cho, bảo người cùng làng và thằng ấy tốt nên mới thôi”.
Tôi cảm ơn
ông và chẳng biết nói gì thêm. Tôi có biết mình bị theo dõi, nhưng bị
bắt và đi
tù như một số văn nghệ sỹ lúc ấy thì quả thật không ngờ tới. Mà rồi tôi
chỉ mới
tập tạnh vào nghề chứ đâu đã thành danh như bây giờ.
Một hôm, cách
đây khoảng ba năm, ông gọi điện cho tôi và nói, giọng quan trọng:
“Cậu đến
ngay nhà tớ, có việc muốn nhờ!”
Đến nơi, tôi
ngạc nhiên thấy ông đang đứng chờ trước cổng nhà, mặc bộ quân phục đại
lễ, huân
huy chương đầy ngực. Ông vội chui vào xe và nói như ra lệnh:
“Lên Chèm!
Khoan hẵng hỏi. Tớ sẽ chỉ đường.” Ông vẫn chưa quên cái giọng nói
chuyện với cấp
dưới khi ở cơ quan, dù đã về hưu gần hai chục năm nay, và tôi là người
làng ông
đang nhờ giúp đỡ.
Tôi lặng lẽ
làm theo, tò mò muốn biết chuyện gì đang xẩy ra.
Cuối cùng,
ông bảo tôi dừng xe bên sông Hồng, cách đền Ông Trọng không xa. Lúc ấy
đã sáu
giờ và mặt trời đang tắt dần ở phía Tây. Tôi bước theo ông đi xuống mép
sông, vẫn
hoàn toàn chưa biết ông định làm gì. Ở tuổi tám mươi, trông ông còn
khỏe và cao
lớn. Cái đầu vẫn thỉnh thoảng lắc lắc như xưa. Thế mà nghe nói như ông
đang bệnh
nặng.
Chỗ sông này
nước xuáy, ăn lõm vào bờ khá sâu. Ông đứng lên tảng đá lớn sát bờ, ra
hiệu tôi
lại gần và nói, cũng bằng cái giọng ra lệnh lúc nãy:
“Hãy nhìn
cho kỹ những gì tớ sắp làm…”
“Bác định
làm gì?” tôi hỏi, không dấu nổi sự ngạc nhiên và sợ ông nhảy xuống sông
tự tử.
“Cậu sẽ biết
ngay đây. Tớ chỉ cần cậu như một người làm chứng”.|
Rồi ông
thong thả cởi từng chiếc huân, huy chương trên bộ quần áo đại lễ màu
trắng, vứt
mạnh xuống dòng nước chảy xiết. Khoảng dăm chiếc, và tôi chẳng biết đó
là huân,
huy chương gì.
“Xong. Ta về!
Coi như cậu đã trả ơn tớ không cho công an bắt ngày nào.”
“Vì sao bác
làm thế?” tôi hỏi khi đã ngồi trên xe.
“Vì tớ sắp
chết”. Biết tôi đang ngạc nhiên, ông nói tiếp: “Mà trước khi chết ai
cũng muốn
lòng mình thanh thản”.
“Vâng, nhưng
chuyện này liên quan gì đến mấy chiếc huân chương?”
“Tại chỗ nước
xuáy kia, sau khi cướp chính quyền năm bốn lăm, tớ đã giết một lãnh tụ
đảng Việt
Quốc. Bắt cóc giữa đường, cho vào bao tải rồi ném úm xuống đó. Ban đêm,
tất
nhiên, và cùng hai đồng chí khác của Nha cảnh sát cách mạng”.
Tôi ngồi im,
chẳng biết nói gì.
“Và người ta
tặng huân chương cho tớ về việc ấy”, ông hạ giọng, vẻ chua chát.
Im lặng một
lúc, tôi nói, cốt để an ủi ông:
“Cái thời nó
thế thì phải thế. Vả lại, đấy là nhiệm vụ cách mạng giao.”
“Đành vậy,
nhưng dẫu sao… Nếu là tớ, cậu có thể chết thảnh thơi được không?”
“Không”.
Khi xe về gần
đến nhà, tôi hỏi:
“Sao bác
không bảo con cháu làm cái việc bác nhờ tôi hôm nay?”
“Cái bọn hời
hợt, hãnh tiến ấy, nhờ để chúng phá à? Chúng chỉ có một niềm tự hào duy
nhất là
con cháu cán bộ cách mạng lão thành”.
Một tháng
sau ông chết ở bệnh viện K, suýt đươc an táng trong nghĩa trang Mai
Dịch. Tất
nhiên các đài, báo trung ương đều đưa tin, long trọng và cảm động