Diễn Văn Nobel 2010
Nobel
Lecture
December 7,
2010
In Praise of
Reading and Fiction
Ca Ngợi Đọc
và Giả Tưởng
Diễn Văn Nobel 2010
Nobel
Lecture
December 7,
2010
GNV là người
đầu tiên giới thiệu tới độc giả Mít, "hơn một" tác giả mũi lõ, đa số
họ, GNV biết
tới, là nhờ đọc tờ Partisan Review.
[Kundera Gấu cũng là thằng đầu tiên giới
thiệu, khi giữ mục Tạp Ghi cho tờ Văn Học của NMG: Mùa Thu những di dân].
Kỷ niệm
thú vị có lẽ cũng nhiều, để nhẩn nha nhớ lại, nhưng 1 trong số đó, là,
lần giới
thiệu Adorno và câu nói nổi tiếng của ông: “Làm thơ sau Auschzitz thì
thật là dã
man”. Nhà văn hàng đầu hải ngoại Võ Đình bực lắm, phán, thằng cha
Adorno này là
ai mà vung tay quá tr[ch]án. Và ông chứng minh, sau Lò Thiêu vẫn có
thơ, và
đó là
thơ của Phan Nhật Nam: Đêm tận thất
thanh! (1)
Tuy nhiên,
không chỉ một Võ Đình bực vì câu nói của thằng cha Adorno. Czeslaw
Milosz cũng
nực. Trong bài viết ngắn, viết về ‘hậu môn của thế giới’, ông cho biết,
chính là
vào cái năm ông ở hậu môn thế giới, ở Ba Lan, ông làm được thơ, và thơ
cũng không
tệ.
Cái tác phẩm
của bậc thầy về Lò Thiêu vừa mới tái khám phá ra được, A lost master of
the Holocaust, chính là tác
phẩm được viết khi tác
giả của nó ở… Lò Thiêu!
(1)
Đêm Tận Thất
Thanh.
Văn Học số
Xuân Đinh Sửu [129&130], trong phần Tạp Ghi, ông Nguyễn Quốc Trụ
viết:
"... rằng sau Auschwitz, 'nếu cá nhân nào đó mà còn làm được thơ thì
thật
là dã man' (sic), và 'mọi văn hóa sau Auschwitz chỉ là rác rưởi'.
Tôi chưa từng
được quen biết, trong lãnh vực văn học, ông Adorno này, nên không lạm
bàn rông
rài. Chỉ "trộm" nghĩ rằng câu nói của ông [ta] có vẻ như...
"vung tay quá trán". Có thể đổi được chăng những câu phê phán này
thành... "sau Auschwitz mà còn làm thơ... Trời ơi, Tuyệt!"? Hay là, "Mọi văn hóa sau Auschwitz là những
nhánh kỳ hoa bung lên từ bãi dơ bầy nhầy, ruồi nhặng sâu bọ lúc nhúc,
thối
um"?
Đêm Tận Thất
Thanh là một nhánh kỳ hoa đó...
Tôi không
may mắn (?) từng đọc tác giả Adorno nói trên....
Loxahatchee,
Florida 5-2-97
24 tiếng trước
Tết Đinh Sửu, ở Việt Nam
Võ Đình
Trên đây
trích từ bài viết của Võ Đình, ở cuối cuốn Đêm Tận Thất Thanh của "bạn
ta" là Phan Nhật Nam. Trong cuốn sách bạn ta tặng, buổi tối tại nhà
Nguyễn
Đình Thuần. Với lời đề tặng:
Của Ông Sơ Dạ
Hương với tình thân 30 năm Nguyễn Quốc Trụ, La Pagode.
CA
Oct/28/2003.
PNN ký tên.
- Primary
Sources: An excerpt from H. G. Adler’s “Panorama.”
*
THE LONG
VIEW
A
rediscovered master of Holocaust writing.
BY RUTH
FRANKLIN
Bài điểm sách
& giới thiệu một bực thầy, một "vị thánh của Lò Thiêu", khác, này,
quá tuyệt.
Qua đó, là cuộc đấu sinh tử giữa Adorno và Adler, và cùng với nó, là
vấn nạn,
liệu vưỡn có thơ sau Lò Thiêu.
Chắc chắn vưỡn
có thơ, sau Lò Thiêu, vì, có thể nói, thơ sau Lò Thiêu, là, Lò Thiêu!
Đây là ý của
nhà văn Nobel Jelinek
Khi Adorno
nói, sau Auschwitz mà còn làm thơ thì thật là dã man,
ông muốn nói, theo như tôi hiểu, hai điều:
Một là: Không thể làm thơ sau Auschwitz.
Hai là: Nếu sau Auschwitz vẫn có thơ, thì phải có Auschwitz trong cái
gọi là
thơ đó.
Elfriede Jelinek
Nhật Ký
Nobel 2004
Những
Hình Hài Nobel
Elfriede
Jelinek
Trong nhật
ký đề ngày 1 tháng Tám 1914, Arthur Schnitzler ghi có nhận một lá thư
báo cho
ông biết rằng Áo là quốc gia được chọn để nhận giải Nobel Văn học năm
nay
(1914), và giải này được cưa đôi giữa ông ta và nhà biếm văn ấn tượng
Peter
Altenberg.
Ông không thật sự hài lòng. Bà vợ ông lại càng bực mình khi nghĩ
đến chuyện
phải cưa đôi giải thưởng. Tuy nhiên, vài ngày sau, mọi người có chuyện
khác để
cùng nhau lo ngay ngáy. Chiến tranh thế giới. Tàn lụi thế giới.
Ông ghi
nhật ký như vậy.
Năm đó không có giải thưởng.
Trái với giả định của Schnitzler, giải thưởng Nobel không trao
trên căn bản
quốc gia, xứ sở. Nếu không, Áo đã chẳng phải đợi ròng rã những chín
mươi năm mới
thực sự vớ được nó: Nobel năm nay, 2004, về tay nhà viết tiểu thuyết và
kịch
Elfriede Jelinek. Giống như Schnitzler, Jelinek là người bị những đồng
bào của
bà bêu riếu, coi như một “Nestbeschmutzer”, kẻ làm ô danh đất nước
mình, bằng cách vạch áo cho người
xem lưng, bày cái mặt bẩn thỉu đê tiện của Áo quốc ra cho thế giới bên
ngoài
nhìn thấy. Tour du lịch vào thế giới chìm sex-xiếc ở Vienna, mà
Schnitzler dâng
hiến, mời gọi chúng ta trong tác phẩm gây xì-căng-đan, Reigen (Round
Dance:
Khiêu vũ vòng tròn, 1900) có thể đặt sóng đôi bên cuốn tiểu thuyết được
nhiều
người biết nhất, và có lẽ, tuyệt nhất, của Jelinek, Die
Klavierspielerin, 1983,
do Joachim Neugroschel dịch qua tiếng Anh với nhan đề The Piano Teacher, Cô
giáo dạy dương cầm, Michael Haneke dựng thành phim năm 2001.
Jelinek bóc trần những gì được coi là cấm kỵ của cuộc sống văn
hoá và
trong gia đình người Áo, trình diện cho chúng ta một cô giáo dương cầm
nghiêm
trang, khéo ăn khéo mặc là Erika Kohut, nhưng cũng chính cô giáo nghiêm
trang
ăn vận khéo léo này lén lút dòm những màn trình diễn khiêu dâm, rình mò
những cặp
trai gái làm tình, và luôn thủ trong người một lưỡi dao cạo, dùng nó để
dấm dúi
cắt da xẻo thịt của chính mình. Cuốn tiểu thuyết bày ra một liên hệ rất
ư là
không bình thường giữa cô giáo và bà mẹ già độc đoán. Xung đột mẹ con
đạt đỉnh
cao khi cô gái đánh đập bà mẹ già. Hay những cách đối xử của cô giáo
với người
học trò, Walter Klemmer, anh này bình thường nói chuyện âm nhạc với cô
giáo rất
ư là tình cảm, rất ư là say mê, cho tới khi anh bắt cô giáo phải làm
tình bằng
mồm với anh ta tại nhà xí. Tất cả những chuyện đó được kể bằng một văn
phong
linh hoạt, bóng loáng, tỉnh bơ, mà, như cái mốt của thời hậu hiện đại,
văn
phong này không cố tình dấy lên ở độc giả một cảm xúc nào; một thứ văn
phong “nó chỉ là nó”, được biểu hiện qua những
qui chiếu
mang tính liên văn bản và hoàn toàn chỉ là chữ nghĩa của riêng nó.
Trang chót
cuốn tiểu thuyết là cảnh Erika bị anh học trò đập cho một trận, tự làm
mình bị
thương ở vai, cứ thế lê về nhà, máu chảy ròng ròng trên lối đi, xen này
được
thêm thắt bằng những trích dẫn lấy từ đoạn kết thúc cuốn Vụ án của
Kafka. Đoạn
tả cảnh hành quyết Joseph K.
Jelinek không đơn độc khi trắng trợn vạch áo cho người xem lưng nước
Áo. Bà đại
diện cho cả một thế hệ nhà văn Áo - trong số đó có Felix Mitterer,
Peter
Turrini và nhà văn quá cố Thomas Bernhard - họ công kích tính phi nhân
và giả đạo
đức của đất nước của họ.
Có lẽ Jelinek là người có nhiều lý do hơn hết, trong số họ, để làm như
vậy. Cha
của bà, một người nửa Tiệp, nửa Do Thái, vậy mà không bị tống vô trại
tập
trung, chỉ vì ông là một nhà hóa học nhờ vậy mà có ích cho Đệ Tam
Reich, một
nhà nước mà Áo quốc rất mong được kết nhập. Bằng một sự can đảm đáng
nể, bà lên
tố cáo những hoạt động của Kurt Waldheim cho Wehrmacht (Quân lực Quốc
xã) trong
thời gian chiến tranh, cùng những trò ma mãnh của tay chính trị cực hữu
Jorg Haider.
Được gợi hứng từ vở kịch của một kịch tác gia thế kỷ 19, Johann
Nestroy,
Hauptling Abendwind (1862) về những giống dân ăn thịt người, văn minh
nửa vời,
bà phác họa Waldheim, một “Tổng thống Abendwind”, và bà coi Áo quốc là “vô địch thế giới trong cái
trò vờ
vĩnh, bị bệnh quên” (amnesia).
Những tấn công nhắm vào Jelinek của giới truyền thông thì rất ư cay
độc, có lẽ
bởi một người đàn bà ‘mồm loa mép giải’ mà lại toàn về những
chuyện thật không đáng nói ra, là chuyện
không nên, mà có lẽ còn là do hoàn cảnh chính trị khó xử của bà nữa. Là
người
công khai tuyên bố mình ủng hộ chủ nghĩa Cộng sản, bà ngang ngạnh và
không chút
khoan nhượng trong việc phân tích sự dính dấp giữa quyền lực kinh tế
với quyền
lực về tính dục. Trong tác phẩm của bà vào năm 1977, viết tiếp Nhà búp
bê, kịch
của Ibsen, nhân vật Nora trở thành tình nhân của một thương gia, người
này bắt
cô sử dụng những trò dâm đãng của mình để moi tin tức từ người chồng
cũ, rồi
sau đó bỏ rơi cô gái. Dưới nhãn hiệu nữ quyền, Jelinek quan sát, miêu
tả bằng
cách nào quý bà thông đồng với nhau trong trò chơi bạo dâm, cái đã
khiến mấy bà
bị chế ngự, đành chịu phục tùng, chỉ biết đáp ứng lại bằng trò tự làm
nhục, làm
tổn thương chính mình, như nhân vật Erika, hay bằng cách giết con mình,
như
nhân vật bà vợ giữ nhà bị hành hạ, lạm dụng quá cỡ trong Dâm tính
(Lust, 1989).
Tới đây, chúng ta thấy có những vấn đề. Bởi vì với bà, là một thứ chủ
nghĩa phản
nhân bản mang tính Mác xít [Marxist anti-humanism] tự nó biểu lộ ra,
qua sự kiềm
chế khắt khao lên những nhân vật của bà, và chỉ được nới lỏng một chút,
ở trong
Cô Giáo Dương Cầm. Chính một thái độ như vậy đã chối bỏ những thân phận
đàn bà,
bỏ mặc họ mắc bẫy ở trong những trò dâm đãng vinh danh giống đực ngạo
nghễ
[triumphant male sadism], và những trò bạo dâm vô phương cứu giúp của
phái nữ
[helpless female masochism]. Allyson Fiddler, nhà học giả quan trọng
nhất về
Jenikek ở trong thế giới nói tiếng Anh, đã trích dẫn một câu nói của
Jelinek,
trong một cuộc phỏng vấn; bà thừa nhận: “Tôi không thể nào miêu tả
bất cứ một
sự vật gì theo kiểu hướng thượng... Mặc dù là một người Mác xít, tôi
không thể
nào cổ xúy cho một chủ nghĩa lạc quan cách mạng”.
Sự bi quan của Jelinek cũng hiển nhiên không kém trong những sáng tác “xanh” (green writing) của bà.
[Đây là muốn
nói đến cách mạng xanh, hoà bình xanh, bảo vệ thiên nhiên môi trường. -
ND].
Áo, vùng đất của Mozart, còn tự khoe mình như là một thiên đàng của môn
leo núi
vốn chưa bị hư hỏng bởi những đầu óc chỉ nghĩ tới lợi nhuận. Jelinek
thuộc vào
một chuỗi nhà văn dẫn đầu bởi Thomas Bernhard, trong cuốn Frost (1963),
thay vì
ca ngợi miền đất thiên đàng của môn chơi thể thao ‘vua’ này, thì lại mô tả nó với
những xóm
làng miền núi già cỗi, suy tàn, dân làng rặt những bệnh cùng tật, tính
tình
hung hăng, lỗ mãng, trong một khung cảnh đất đai đã bị khai thác tối đa
bởi nạn
phá rừng, đập thủy điện và thú săn bắn. Totenauberg (1991), kịch của
bà, về
Heidegger, giáo chủ của giáo phái hiện sinh, tấn công cái trò thờ phụng
sự
trinh nguyên của thời tiền kỹ thuật mang tính nhà quê của ông này cùng
cái việc
thập thò thì thụt đi đêm với bọn chính trị phản động là đám Nazi. Cuốn
tiểu
thuyết mới nhất, Gier (Tham lam, 2000) trong đó có cảnh mô tả một cái
hồ hôi thối,
không phải do thiên nhiên mà do con người tạo ra, bằng chất nổ, để dùng
làm nơi
thải những rác rưởi, đồ phế thải trong xây cất đường xá. Nhân vật chính
trong
cuốn tiểu thuyết, một anh chàng cảnh sát đồi bại, cộc cằn, tàn nhẫn,
ném xuống
hồ thi thể những ngưòi đàn bà mà anh ta lừa dối rồi sau đó giết chết.
Có lẽ chúng ta sẽ lĩnh hội những cảnh trên đây một cách rõ ràng nhất
nếu đọc
tác giả của nó như là một nhà biếm văn (satirist). Như Bernhard, những
tác phẩm
chỉ trích kịch liệt mang tính ám ảnh của ông kết án người Áo về mọi cái
xấu xa
đê tiện, từ việc phò tá Đức quốc xã tới chuyện không chịu thay vớ,
Jelinek là một ‘Übertreibungskunstler” - từ của nhà phê bình
người Áo
Wendelin Schmidt-Dengler, tức một nghệ sĩ luôn thái quá (an artist of
exaggeration). Nhìn dưới ánh sáng đó, sự bất lực của những nhân vật của
bà
tương xứng với cái nhìn của phái Thi Sơn về nghệ sĩ châm biếm. Tôi đặc
biệt
nghĩ tới cảnh này ở đầu cuốn Die Kinder der Toten (Những đứa con của
Thần chết,
1995): một chiếc xe buýt chở học sinh, do một anh tài xế say rượu bị
trật ra khỏi
một con đường vùng núi, nằm giữa cánh đồng “như một bọ cánh cứng cẩu
thả, bị đá đến
nỗi quật ngược ra phía sau, bốn chân thò ra ngoài, quẫy lung tung,
tuyệt vọng”. “Quẫy lung tung, tuyệt vọng” áp dụng đúng y chang vào
kiểu tự sự của Jelinek, với những
xen lập đi lập lại, để diễn tả tình trạng trì đọng của cuộc sống của
những nhân
vật của bà. Sau cùng, thiên nhiên trong tác phẩm của bà không chỉ đóng
vai trò
đối thể bị con người lạm dụng mà còn như một quy chuẩn châm biếm (a
satiric
norm). Cái bản tính vật dục của Erika Kohut, được tượng hình con vật,
chính nó
chế nhạo những nỗ lực của cô nhằm tự kiểm soát mình. Và ở cuối Những
đứa con của
Thần chết, thiên nhiên đến lượt nó trả thù: khách sạn dành cho du
khách, với
cái tên sặc mùi “lãng mạn rẻ tiền” (kitsch) là Alpenrose
(Bông hồng An-pơ), bị một trận đất chuồi
khổng lồ nuốt chửng, như thể sự thực về một nước Áo hiện đại không còn
bị ém nhẹm
được nữa.
Tôi không tin tưởng rằng Jelinek là một nhà văn lớn. Nhưng bà là một
nhà
văn đáng đọc và có ích. Có thể xem việc trao giải Nobel cho bà không
chỉ là công
nhận tác phẩm và tư thế đối kháng chông chênh của bà, mà còn như là một
cử chỉ
đẹp, tuy muộn màng, đối với cả một hội những kẻ bị từ chối, gồm những
nhà văn
Áo nổi tiếng trong đó có Rilke, Hofmannsthal, Musil, Broch, Karl Kraus,
Joseph
Roth và Ingeborg Bachmann.
Robertson, Ritchie
Nguồn: Nobel Bodies, Phụ
trang văn học Thời báo London (TLS), số ngày
15/10/2004.
Nguyễn Quốc Trụ dịch
Chú thích:
Đăng lại bản dịch trên e_Văn. Cám ơn BBT, đặc biệt TTCĐ, đã sửa giùm
một số sai
sót.
NQT
Note: GNV
quên luôn bài này, tình cờ vớ lại được. Tuyệt!
Bài diễn văn
Nobel, đếch thèm ngó ngàng gì đến việc viết, viết cái gì, viết cho ai,
tại sao viết…. mà chỉ ca ngợi cái đọc, và giả tưởng, nghĩa là tỉu
thiết, nhất là
tỉu thiết.
TV sẽ dịch lai rai sau. Bữa nay xuống phố, lại vớ thêm được 1 bài nữa,
cũng của Vargas Llosa, trên tờ Books, tên báo tiếng Anh, nhưng báo
tiếng Tây, tếu
thế, Ý nghĩ của tớ về văn hóa.
Bèn bệ luôn! Thú nhất là cái hình bìa. Thực sự họ
là ai: Jésus, Marie, Judas?
Tờ LRB có bài
“Yankee cút cha mày đi”. Còn có cái nhật ký của Simic, đọc thú lắm, thí
dụ câu
này: Cầu Chúa phù hộ chiến tranh,
nếu không, bao nhiêu tiền cực khổ làm ra đều
phải biếu đám nghèo!
*
GNV là người
đầu tiên giới thiệu tới độc giả Mít, "hơn một" tác giả mũi lõ, đa số
họ, GNV biết
tới, là nhờ đọc tờ Partisan Review.
[Kundera Gấu cũng là thằng đầu tiên giới
thiệu, khi giữ mục Tạp Ghi cho tờ Văn Học của NMG: Mùa Thu những di dân].
Kỷ niệm
thú vị có lẽ cũng nhiều, để nhẩn nha nhớ lại, nhưng 1 trong số đó, là,
lần giới
thiệu Adorno và câu nói nổi tiếng của ông: “Làm thơ sau Auschzitz thì
thật là dã
man”. Nhà văn hàng đầu hải ngoại Võ Đình bực lắm, phán, thằng cha
Adorno này là
ai mà vung tay quá tr[ch]án. Và ông chứng minh, sau Lò Thiêu vẫn có
thơ, và
đó là
thơ của Phan Nhật Nam: Đêm tận thất
thanh! (1)
Tuy nhiên,
không chỉ một Võ Đình bực vì câu nói của thằng cha Adorno. Czeslaw
Milosz cũng
nực. Trong bài viết ngắn, viết về ‘hậu môn của thế giới’, ông cho biết,
chính là
vào cái năm ông ở hậu môn thế giới, ở Ba Lan, ông làm được thơ, và thơ
cũng không
tệ.
Cái tác phẩm
của bậc thầy về Lò Thiêu vừa mới tái khám phá ra được, A lost master of
the Holocaust, chính là tác
phẩm được viết khi tác
giả của nó ở… Lò Thiêu!
(1)
Đêm Tận Thất
Thanh.
Văn Học số
Xuân Đinh Sửu [129&130], trong phần Tạp Ghi, ông Nguyễn Quốc Trụ
viết:
"... rằng sau Auschwitz, 'nếu cá nhân nào đó mà còn làm được thơ thì
thật
là dã man' (sic), và 'mọi văn hóa sau Auschwitz chỉ là rác rưởi'.
Tôi chưa từng
được quen biết, trong lãnh vực văn học, ông Adorno này, nên không lạm
bàn rông
rài. Chỉ "trộm" nghĩ rằng câu nói của ông [ta] có vẻ như...
"vung tay quá trán". Có thể đổi được chăng những câu phê phán này
thành... "sau Auschwitz mà còn làm thơ... Trời ơi, Tuyệt!"? Hay là, "Mọi văn hóa sau Auschwitz là những
nhánh kỳ hoa bung lên từ bãi dơ bầy nhầy, ruồi nhặng sâu bọ lúc nhúc,
thối
um"?
Đêm Tận Thất
Thanh là một nhánh kỳ hoa đó...
Tôi không
may mắn (?) từng đọc tác giả Adorno nói trên....
Loxahatchee,
Florida 5-2-97
24 tiếng trước
Tết Đinh Sửu, ở Việt Nam
Võ Đình
Trên đây
trích từ bài viết của Võ Đình, ở cuối cuốn Đêm Tận Thất Thanh của "bạn
ta" là Phan Nhật Nam. Trong cuốn sách bạn ta tặng, buổi tối tại nhà
Nguyễn
Đình Thuần. Với lời đề tặng:
Của Ông Sơ Dạ
Hương với tình thân 30 năm Nguyễn Quốc Trụ, La Pagode.
CA
Oct/28/2003.
PNN ký tên.
Nobel
Lecture
December 7,
2010
In Praise of
Reading and Fiction
I learned to
read at the age of five, in Brother Justiniano’s class at the De la
Salle
Academy in Cochabamba, Bolivia. It is the most important thing that has
ever
happened to me. Almost seventy years later I remember clearly how the
magic of
translating the words in books into images enriched my life, breaking
the
barriers of time and space and allowing me to travel with Captain Nemo
twenty
thousand leagues under the sea, fight with d’Artagnan, Athos, Portos,
and
Aramis against the intrigues threatening the Queen in the days of the
secretive
Richelieu, or stumble through the sewers of Paris, transformed into
Jean
Valjean carrying Marius’s inert body on my back.
Reading
changed dreams into life and life into dreams and placed the universe
of
literature within reach of the boy I once was. My mother told me the
first
things I wrote were continuations of the stories I read because it made
me sad
when they concluded or because I wanted to change their endings. And
perhaps
this is what I have spent my life doing without realizing it:
prolonging in
time, as I grew, matured, and aged, the stories that filled my
childhood with
exaltation and adventures.
I wish my
mother were here, a woman who was moved to tears reading the poems of
Amado
Nervo and Pablo Neruda, and Grandfather Pedro too, with his large nose
and
gleaming bald head, who celebrated my verses, and Uncle Lucho, who
urged me so
energetically to throw myself body and soul into writing even though
literature, in that time and place, compensated its devotees so badly.
Throughout my life I have had people like that at my side, people who
loved and
encouraged me and infected me with their faith when I had doubts.
Thanks to
them, and certainly to my obstinacy and some luck, I have been able to
devote
most of my time to the passion, the vice, the marvel of writing,
creating a
parallel life where we can take refuge against adversity, one that
makes the
extraordinary natural and the natural extraordinary, that dissipates
chaos,
beautifies ugliness, eternalizes the moment, and turns death into a
passing
spectacle.
Writing
stories was not easy. When they were turned into words, projects
withered on
the paper and ideas and images failed. How to reanimate them?
Fortunately, the
masters were there, teachers to learn from and examples to follow.
Flaubert
taught me that talent is unyielding discipline and long patience.
Faulkner,
that form – writing and structure – elevates or impoverishes subjects.
Martorell, Cervantes, Dickens, Balzac, Tolstoy, Conrad, Thomas Mann,
that scope
and ambition are as important in a novel as stylistic dexterity and
narrative
strategy. Sartre, that words are acts, that a novel, a play, or an
essay,
engaged with the present moment and better options, can change the
course of
history. Camus and Orwell, that a literature stripped of morality is
inhuman,
and Malraux that heroism and the epic are as possible in the present as
is the
time of the Argonauts, the Odyssey, and the Iliad.
If in this
address I were to summon all the writers to whom I owe a few things or
a great
deal, their shadows would plunge us into darkness. They are
innumerable. In
addition to revealing the secrets of the storytelling craft, they
obliged me to
explore the bottomless depths of humanity, admire its heroic deeds, and
feel
horror at its savagery. They were my most obliging friends, the ones
who
vitalized my calling and in whose books I discovered that there is hope
even in
the worst of circumstances, that living is worth the effort if only
because
without life we could not read or imagine stories.
At times I
wondered whether writing was not a solipsistic luxury in countries like
mine,
where there were scant readers, so many people who were poor and
illiterate, so
much injustice, and where culture was a privilege of the few. These
doubts,
however, never stifled my calling, and I always kept writing even
during those
periods when earning a living absorbed most of my time. I believe I did
the
right thing, since if, for literature to flourish, it was first
necessary for a
society to achieve high culture, freedom, prosperity, and justice, it
never
would have existed. But thanks to literature, to the consciousness it
shapes,
the desires and longings it inspires, and our disenchantment with
reality when
we return from the journey to a beautiful fantasy, civilization is now
less
cruel than when storytellers began to humanize life with their fables.
We would
be worse than we are without the good books we have read, more
conformist, not
as restless, more submissive, and the critical spirit, the engine of
progress,
would not even exist. Like writing, reading is a protest against the
insufficiencies of life. When we look in fiction for what is missing in
life,
we are saying, with no need to say it or even to know it, that life as
it is
does not satisfy our thirst for the absolute – the foundation of the
human
condition – and should be better. We invent fictions in order to live
somehow
the many lives we would like to lead when we barely have one at our
disposal.
Without
fictions we would be less aware of the importance of freedom for life
to be
livable, the hell it turns into when it is trampled underfoot by a
tyrant, an
ideology, or a religion. Let those who doubt that literature not only
submerges
us in the dream of beauty and happiness but alerts us to every kind of
oppression, ask themselves why all regimes determined to control the
behavior
of citizens from cradle to grave fear it so much they establish systems
of
censorship to repress it and keep so wary an eye on independent
writers. They
do this because they know the risk of allowing the imagination to
wander free
in books, know how seditious fictions become when the reader compares
the
freedom that makes them possible and is exercised in them with the
obscurantism
and fear lying in wait in the real world. Whether they want it or not,
know it
or not, when they invent stories the writers of tales propagate
dissatisfaction, demonstrating that the world is badly made and the
life of
fantasy richer than the life of our daily routine. This fact, if it
takes root
in their sensibility and consciousness, makes citizens more difficult
to
manipulate, less willing to accept the lies of the interrogators and
jailers
who would like to make them believe that behind bars they lead more
secure and
better lives.
Good
literature erects bridges between different peoples, and by having us
enjoy,
suffer, or feel surprise, unites us beneath the languages, beliefs,
habits,
customs, and prejudices that separate us. When the great white whale
buries
Captain Ahab in the sea, the hearts of readers take fright in exactly
the same
way in Tokyo, Lima, or Timbuctu. When Emma Bovary swallows arsenic,
Anna
Karenina throws herself in front of the train, and Julien Sorel climbs
to the
scaffold, and when, in “El sur,” the urban doctor Juan Dahlmann walks
out of
that tavern on the pampa to face a thug’s knife, or we realize that all
the
residents of Comala, Pedro Páramo’s village, are dead, the shudder is
the same
in the reader who worships Buddha, Confucius, Christ, Allah, or is an
agnostic,
wears a jacket and tie, a jalaba, a kimono, or bombachas. Literature
creates a
fraternity within human diversity and eclipses the frontiers erected
among men
and women by ignorance, ideologies, religions, languages, and
stupidity.
Since every
period has its horrors, ours is the age of fanatics, of suicide
terrorists, an
ancient species convinced that by killing they earn heaven, that the
blood of
innocents washes away collective affronts, corrects injustices, and
imposes
truth on false beliefs. Every day, all over the world, countless
victims are
sacrificed by those who feel they possess absolute truths. With the
collapse of
totalitarian empires, we believed that living together, peace,
pluralism, and
human rights would gain the ascendancy and the world would leave behind
holocausts, genocides, invasions, and wars of extermination. None of
that has
occurred. New forms of barbarism flourish, incited by fanaticism, and
with the
proliferation of weapons of mass destruction, we cannot overlook the
fact that
any small faction of crazed redeemers may one day provoke a nuclear
cataclysm.
We have to thwart them, confront them, and defeat them. There aren’t
many,
although the tumult of their crimes resounds all over the planet and
the
nightmares they provoke overwhelm us with dread. We should not allow
ourselves
to be intimidated by those who want to snatch away the freedom we have
been
acquiring over the long course of civilization. Let us defend the
liberal
democracy that, with all its limitations, continues to signify
political
pluralism, coexistence, tolerance, human rights, respect for criticism,
legality, free elections, alternation in power, everything that has
been taking
us out of a savage life and bringing us closer – though we will never
attain it
– to the beautiful, perfect life literature devises, the one we can
deserve
only by inventing, writing, and reading it. By confronting homicidal
fanatics
we defend our right to dream and to make our dreams reality.
In my youth,
like many writers of my generation, I was a Marxist and believed
socialism
would be the remedy for the exploitation and social injustices that
were
becoming more severe in my country, in Latin America, and in the rest
of the
Third World. My disillusion with statism and collectivism and my
transition to
the democrat and liberal that I am – that I try to be – was long and
difficult
and carried out slowly as a consequence of episodes like the conversion
of the
Cuban Revolution, about which I initially had been enthusiastic, to the
authoritarian, vertical model of the Soviet Union; the testimony of
dissidents
who managed to slip past the barbed wire fences of the Gulag; the
invasion of
Czechoslovakia by the nations of the Warsaw Pact; and because of
thinkers like
Raymond Aron, Jean Francois Rével, Isaiah Berlin, and Karl Popper, to
whom I
owe my reevaluation of democratic culture and open societies. Those
masters
were an example of lucidity and gallant courage when the intelligentsia
of the
West, as a result of frivolity or opportunism, appeared to have
succumbed to
the spell of Soviet socialism or, even worse, to the bloody witches’
Sabbath of
the Chinese Cultural Revolution.
As a boy I
dreamed of coming some day to Paris because, dazzled by French
literature, I
believed that living there and breathing the air breathed by Balzac,
Stendhal,
Baudelaire, and Proust would help transform me into a real writer, and
if I did
not leave Peru I would be only a pseudo Sundays-and-holidays writer.
And the
truth is I owe to France and French culture unforgettable lessons, for
example
that literature is as much a calling as it is a discipline, a job, an
obstinacy. I lived there when Sartre and Camus were alive and writing,
in the years
of Ionesco, Beckett, Bataille, and Cioran, the discovery of the theater
of
Brecht and the films of Ingmar Bergman, the Theatre National Populaire
of Jean
Vilar and the Odéon of Jean-Louis Barrault, of the Nouvelle Vague and
the
Nouveau Roman and the speeches, beautiful literary pieces, of André
Malraux,
and what may have been the most theatrical spectacle in Europe during
that
time, the press conferences and Olympic thunderings of General de
Gaulle. But
perhaps I am most grateful to France for the discovery of Latin
America. There
I learned that Peru was part of a vast community united by history,
geography,
social and political problems, a certain mode of being, and the
delicious
language it spoke and wrote. And in those same years, it was producing
a new,
forceful literature. There I read Borges, Octavio Paz, Cortázar, García
Márquez, Fuentes, Cabrera Infante, Rulfo, Onetti, Carpentier, Edwards,
Donoso,
and many others whose writings were revolutionizing narrative in the
Spanish
language, and thanks to whom Europe and a good part of the world
discovered
that Latin America was not the continent only of coups, operetta
despots,
bearded guerrillas, and the maracas of the mambo and the cha-cha-cha
but of
ideas, artistic forms, and literary fantasies that transcended the
picturesque
and spoke a universal language.
From that
time to this, not without stumbling and blunders, Latin America has
made
progress although, as César Vallejo said in a poem, Hay, hermanos,
muchísimo
que hacer [There is still, brothers, so much to do]. We are
afflicted with
fewer dictatorships than before, only Cuba and her named successor,
Venezuela,
and some pseudo populist, clownish democracies like those in Bolivia
and
Nicaragua. But in the rest of the continent democracy is functioning,
supported
by a broad popular consensus, and for the first time in our history, as
in
Brazil, Chile, Uruguay, Peru, Colombia, the Dominican Republic, Mexico,
and
almost all of Central America, we have a left and a right that respect
legality, the freedom to criticize, elections, and succession in power.
That is
the right road, and if it stays on it, combats insidious corruption,
and
continues to integrate with the world, Latin America will finally stop
being
the continent of the future and become the continent of the present.
I never felt
like a foreigner in Europe or, in fact, anywhere. In all the places I
have
lived, in Paris, London, Barcelona, Madrid, Berlin, Washington, New
York,
Brazil, or the Dominican Republic, I felt at home. I have always found
a lair
where I could live in peace, work, learn things, nurture dreams, and
find
friends, good books to read, and subjects to write about. It does not
seem to
me that my unintentionally becoming a citizen of the world has weakened
what
are called “my roots,” my connections to my own country – which would
not be
particularly important – because if that were so, my Peruvian
experiences would
not continue to nourish me as a writer and would not always appear in
my
stories, even when they seem to occur very far from Peru. I believe
instead
that living for so long outside the country where I was born has
strengthened
those connections, adding a more lucid perspective to them, and a
nostalgia
that can differentiate the adjectival from the substantive and keep
memories
reverberating. Love of the country where one was born cannot be
obligatory, but
like any other love must be a spontaneous act of the heart, like the
one that
unites lovers, parents and children, and friends.
I carry Peru
deep inside me because that is where I was born, grew up, was formed,
and lived
those experiences of childhood and youth that shaped my personality and
forged
my calling, and there I loved, hated, enjoyed, suffered, and dreamed.
What
happens there affects me more, moves and exasperates me more than what
occurs
elsewhere. I have not wished it or imposed it on myself; it simply is
so. Some
compatriots accused me of being a traitor, and I was on the verge of
losing my
citizenship when, during the last dictatorship, I asked the democratic
governments
of the world to penalize the regime with diplomatic and economic
sanctions, as
I have always done with all dictatorships of any kind, whether of
Pinochet,
Fidel Castro, the Taliban in Afghanistan, the Imams in Iran, apartheid
in South
Africa, the uniformed satraps of Burma (now called Myanmar). And I
would do it
again tomorrow if – may destiny not wish it and Peruvians not permit it
– Peru
were once again the victim of a coup that would annihilate our fragile
democracy. It was not the precipitate, emotional action of a resentful
man, as
some scribblers wrote, accustomed to judging others from the point of
view of
their own pettiness. It was an act in line with my conviction that a
dictatorship represents absolute evil for a country, a source of
brutality and
corruption and profound wounds that take a long time to close, poison
the
nation’s future, and create pernicious habits and practices that endure
for
generations and delay democratic reconstruction. This is why
dictatorships must
be fought without hesitation, with all the means at our disposal,
including
economic sanctions. It is regrettable that democratic governments,
instead of
setting an example by making common cause with those, like the Damas de
Blanco
in Cuba, the Venezuelan opposition, or Aung San Suu Kyi and Liu Xiaobo,
who
courageously confront the dictatorships they endure, often show
themselves
complaisant not with them but with their tormenters. Those valiant
people,
struggling for their freedom, are also struggling for ours.
A compatriot
of mine, José María Arguedas, called Peru the country of “every blood.”
I do
not believe any formula defines it better: that is what we are and that
is what
all Peruvians carry inside us, whether we like it or not: an aggregate
of
traditions, races, beliefs, and cultures proceeding from the four
cardinal
points. I am proud to feel myself the heir to the pre-Hispanic cultures
that
created the textiles and feather mantles of Nazca and Paracas and the
Mochican
or Incan ceramics exhibited in the best museums in the world, the
builders of
Machu Picchu, Gran Chimú, Chan Chan, Kuelap, Sipán, the burial grounds
of La
Bruja and El Sol and La Luna, and to the Spaniards who, with their
saddle bags,
swords, and horses, brought to Peru Greece, Rome, the Judeo-Christian
tradition, the Renaissance, Cervantes, Quevedo, and Góngora, and the
harsh
language of Castile sweetened by the Andes. And with Spain came Africa,
with
its strength, its music, and its effervescent imagination, to enrich
Peruvian
heterogeneity. If we investigate only a little we discover that Peru,
like the
Aleph of Borges, is a small format of the entire world. What an
extraordinary
privilege for a country not to have an identity because it has all of
them!
The conquest
of America was cruel and violent, like all conquests, of course, and we
should
criticize it but not forget as we do that those who committed pillage
and
crimes were, for the most part, our great-grandfathers and
great-great-grandfathers, the Spaniards who came to America and adopted
American
ways, not those who remained in their own country. Such criticism, to
be just,
should be self-criticism. Because when we gained our independence from
Spain
two hundred years ago, those who assumed power in the former colonies,
instead
of liberating the Indians and creating justice for old wrongs,
continued to
exploit them with as much greed and ferocity as the conquerors and, in
some
countries, decimating and exterminating them. Let us say this with
absolute
clarity: for two centuries the emancipation of the indigenous
population has
been our exclusive responsibility, and we have not fulfilled it. This
continues
to be an unresolved issue in all of Latin America. There is not a
single
exception to this ignominy and shame.
I love Spain
as much as Peru, and my debt to her is as great as my gratitude. If not
for
Spain, I never would have reached this podium or become a known writer
and
perhaps, like so many unfortunate colleagues, I would wander in the
limbo of
writers without luck, publishers, prizes, or readers, whose talent –
sad
comfort – posterity may one day discover. All my books were published
in Spain,
where I received exaggerated recognition, and friends like Carlos
Barral,
Carmen Balcells, and so many others were zealous about my stories
having readers.
And Spain granted me a second nationality when I could have lost mine.
I have
never felt the slightest incompatibility between being Peruvian and
having a
Spanish passport, because I have always felt that Spain and Peru are
two sides
of the same coin, not only in my small person but in essential
realities like
history, language, and culture.
Of all the
years I have lived on Spanish soil, I remember as most brilliant the
five I
spent in a dearly loved Barcelona in the early 1970s. Franco’s
dictatorship was
still in power and shooting, but by then it was a fossil in rags, and
especially in the field of culture, incapable of maintaining its
earlier
controls. Cracks and chinks were opening that the censors could not
patch over,
and through them Spanish society absorbed new ideas, books, currents of
thought, and artistic values and forms prohibited until then as
subversive. No
city took as much or better advantage of this start of an opening than
Barcelona or experienced a comparable excitement in all fields of ideas
and
creativity. It became the cultural capital of Spain, the place you had
to be to
breathe anticipation of the freedom to come. And, in a sense, it was
also the
cultural capital of Latin America because of the number of painters,
writers,
publishers, and artists from Latin American countries who either
settled in or
traveled back and forth to Barcelona: it was where you had to be if you
wanted
to be a poet, novelist, painter, or composer in our time. For me, those
were
unforgettable years of comradeship, friendship, plots, and fertile
intellectual
work. Just as Paris had been, Barcelona was a Tower of Babel, a
cosmopolitan,
universal city where it was stimulating to live and work and where, for
the
first time since the days of the Civil War, Spanish and Latin American
writers
mixed and fraternized, recognizing one another as possessors of the
same
tradition and allied in a common enterprise and certainty: the end of
the
dictatorship was imminent and in democratic Spain, culture would be the
principal
protagonist.
Although it
did not occur exactly that way, the Spanish transition from
dictatorship to
democracy has been one of the best stories of modern times, an example
of how,
when good sense and reason prevail and political adversaries set aside
sectarianism
for the common good, events can occur as marvelous as the ones in
novels of
magic realism. The Spanish transition from authoritarianism to freedom,
from
underdevelopment to prosperity, from third-world economic contrasts and
inequalities to a country of middle classes, her integration into
Europe and
her adoption in a few years of a democratic culture, has astonished the
entire
world and precipitated Spain’s modernization. It has been moving and
instructive for me to experience this near at hand, at times from the
inside. I
fervently hope that nationalism, the incurable plague of the modern
world and
of Spain as well, does not ruin this happy tale.
I despise
every form of nationalism, a provincial ideology – or rather, religion
– that
is short-sighted, exclusive, that cuts off the intellectual horizon and
hides
in its bosom ethnic and racist prejudices, for it transforms into a
supreme
value, a moral and ontological privilege, the fortuitous circumstance
of one’s
birthplace. Along with religion, nationalism has been the cause of the
worst
slaughters in history, like those in the two world wars and the current
bloodletting in the Middle East. Nothing has contributed as much as
nationalism
to Latin America’s having been Balkanized and stained with blood in
senseless
battles and disputes, squandering astronomical resources to purchase
weapons
instead of building schools, libraries, and hospitals.
We should
not confuse a blinkered nationalism and its rejection of the “other,”
always
the seed of violence, with patriotism, a salutary, generous feeling of
love for
the land where we were born, where our ancestors lived, where our first
dreams
were forged, a familiar landscape of geographies, loved ones, and
events that
are transformed into signposts of memory and defenses against solitude.
Homeland is not flags, anthems, or apodictic speeches about emblematic
heroes,
but a handful of places and people that populate our memories and tinge
them
with melancholy, the warm sensation that no matter where we are, there
is a
home for us to return to.
Peru is for
me Arequipa, where I was born but never lived, a city my mother,
grandparents,
and aunts and uncles taught me to know through their memories and
yearnings,
because my entire family tribe, as Arequepeños tend to do, always
carried the
White City with them in their wandering existence. It is Piura in the
desert,
mesquite trees and the long-suffering burros that Piurans of my youth
called
“somebody else’s feet” – an elegant, sad name – where I discovered that
storks
did not bring babies into the world but couples made them by doing
outrageous
things that were a mortal sin. It is San Miguel Academy and the
Varieties
Theater where for the first time I saw a short work I had written
produced on
stage. It is the corner of Diego Ferré and Colón, in Lima’s Miraflores
– we
called it the Happy Neighborhood – where I exchanged short pants for
long
trousers, smoked my first cigarette, learned to dance, fall in love,
and open
my heart to girls. It is the dusty, pulsing editorial offices of the
paper La
Crónica where, at sixteen, I stood virgil over my first arms as a
journalist, a trade that, along with literature, has occupied almost my
entire
life and, like books, has made me live more, know the world better, and
be with
men and women from everywhere and every class, excellent, good, bad,
and
execrable people. It is the Leoncio Prado Military Academy, where I
learned
that Peru was not the small middle-class redoubt where I had lived
until then,
confined and protected, but a large, ancient, rancorous, unequal
country,
shaken by all kinds of social storms. It is the clandestine cells of
Cahuide
where, with a handful of San Marcos students, we prepared the world
revolution.
And Peru is my friends in the Freedom Movement with whom for three
years, in
the midst of bombs, blackouts, and terrorist assassinations, we worked
in
defense of democracy and the culture of freedom.
Peru is
Patricia, my cousin with the upturned nose and indomitable character,
whom I
was lucky enough to marry forty-five years ago and who still endures
the
manias, neuroses, and temper tantrums that help me to write. Without
her my
life would have dissolved a long time ago into a turbulent whirlwind,
and
Alvaro, Gonzalo, Morgana and the six grandchildren who extend and
gladden our
existence would not have been born. She does everything and does
everything
well. She solves problems, manages the economy, imposes order on chaos,
keeps
journalists and intrusive people at bay, defends my time, decides
appointments
and trips, packs and unpacks suitcases, and is so generous that even
when she
thinks she is rebuking me, she pays me the highest compliment: “Mario,
the only
thing you’re good for is writing.”
Let us
return to literature. The paradise of childhood is not a literary myth
for me
but a reality I lived and enjoyed in the large family house with three
courtyards in Cochabamba, where with my cousins and school friends we
could
reproduce the stories of Tarzan and Salgari, and in the prefecture of
Piura,
where bats nested in the lofts, silent shadows that filled the starry
nights of
that hot land with mystery. During those years, writing was playing a
game my
family celebrated, something charming that earned applause for me, the
grandson, the nephew, the son without a papa because my father had died
and
gone to heaven. He was a tall, good-looking man in a navy uniform whose
photo
adorned my night table, which I prayed to and then kissed before going
to
sleep. One Piuran morning – I do not think I have recovered from it yet
– my
mother revealed that the gentleman was, in fact, alive. And on that
very day we
were going to live with him in Lima. I was eleven years old, and from
that
moment everything changed. I lost my innocence and discovered
loneliness,
authority, adult life, and fear. My salvation was reading, reading good
books,
taking refuge in those worlds where life was glorious, intense, one
adventure
after another, where I could feel free and be happy again. And it was
writing,
in secret, like someone giving himself up to an unspeakable vice, a
forbidden
passion. Literature stopped being a game. It became a way of resisting
adversity, protesting, rebelling, escaping the intolerable, my reason
for
living. From then until now, in every circumstance when I have felt
disheartened
or beaten down, on the edge of despair, giving myself body and soul to
my work
as a storyteller has been the light at the end of the tunnel, the plank
that
carries the shipwrecked man to shore.
Although it
is very difficult and forces me to sweat blood and, like every writer,
to feel
at times the threat of paralysis, a dry season of the imagination,
nothing has
made me enjoy life as much as spending months and years constructing a
story,
from its uncertain beginnings, the image memory stores of a lived
experience
that becomes a restlessness, an enthusiasm, a daydream that then
germinates
into a project and the decision to attempt to convert the agitated
cloud of
phantoms into a story. “Writing is a way of living,” said Flaubert.
Yes,
absolutely, a way of living with illusion and joy and a fire throwing
out
sparks in your head, struggling with intractable words until you master
them,
exploring the broad world like a hunter tracking down desirable prey to
feed an
embryonic fiction and appease the voracious appetite of every story
that, as it
grows, would like to devour every other story. Beginning to feel the
vertigo a
gestating novel leads us to, when it takes shape and seems to begin to
live on
its own, with characters that move, act, think, feel, and demand
respect and
consideration, on whom it is no longer possible to arbitrarily impose
behavior
or to deprive them of their free will without killing them, without
having the
story lose its power to persuade – this is an experience that continues
to bewitch
me as it did the first time, as complete and dizzying as making love to
the
woman you love for days, weeks, months, without stopping.
When
speaking of fiction, I have talked a great deal about the novel and
very little
about the theater, another of its preeminent forms. A great injustice,
of
course. Theater was my first love, ever since, as an adolescent, I saw
Arthur
Miller’s Death of a Salesman at the Segura Theater in Lima, a
performance that left me transfixed with emotion and precipitated my
writing a
drama with Incas. If there had been a theatrical movement in the Lima
of the
1950s, I would have been a playwright rather than a novelist. There was
not,
and that must have turned me more and more toward narrative. But my
love for
the theater never ended; it dozed, curled up in the shadow of novels,
like a
temptation and a nostalgia, above all whenever I saw an enthralling
play. In
the late 1970s, the persistent memory of a hundred-year-old great-aunt,
Mamaé,
who in the final years of her life cut off her surrounding reality to
take
refuge in memories and fiction, suggested a story. And I felt,
prophetically,
that it was a story for the theater, that only on stage would it take
on the
animation and splendor of successful fictions. I wrote it with the
tremulous
excitement of a beginner and so enjoyed seeing it on stage with Norma
Aleandro
in the heroine’s role that since then, between novels and essays, I
have
relapsed several times. And I must add, I never imagined that at the
age of
seventy I would mount (I should say, stumble onto) a stage to act. That
reckless adventure made me experience for the first time in my own
flesh and
bone the miracle it is for someone who has spent his life writing
fictions to
embody for a few hours a character of fantasy, to live the fiction in
front of
an audience. I can never adequately thank my dear friends, the director
Joan
Ollé and the actress Aitana Sánchez Gijón, for having encouraged me to
share
with them that fantastic experience (in spite of the panic that
accompanied
it).
Literature
is a false representation of life that nevertheless helps us to
understand life
better, to orient ourselves in the labyrinth where we are born, pass
by, and
die. It compensates for the reverses and frustrations real life
inflicts on us,
and because of it we can decipher, at least partially, the hieroglyphic
that
existence tends to be for the great majority of human beings,
principally those
of us who generate more doubts than certainties and confess our
perplexity
before subjects like transcendence, individual and collective destiny,
the
soul, the sense or senselessness of history, the to and fro of rational
knowledge.
I have
always been fascinated to imagine the uncertain circumstance in which
our
ancestors – still barely different from animals, the language that
allowed them
to communicate with one another just recently born – in caves, around
fires, on
nights seething with the menace of lightning bolts, thunder claps, and
growling
beasts, began to invent and tell stories. That was the crucial moment
in our
destiny, because in those circles of primitive beings held by the voice
and
fantasy of the storyteller, civilization began, the long passage that
gradually
would humanize us and lead us to invent the autonomous individual, then
disengage him from the tribe, devise science, the arts, law, freedom,
and to
scrutinize the innermost recesses of nature, the human body, space, and
travel
to the stars. Those tales, fables, myths, legends that resounded for
the first
time like new music before listeners intimidated by the mysteries and
perils of
a world where everything was unknown and dangerous, must have been a
cool bath,
a quiet pool for those spirits always on the alert, for whom existing
meant
barely eating, taking shelter from the elements, killing, and
fornicating. From
the time they began to dream collectively, to share their dreams,
instigated by
storytellers, they ceased to be tied to the treadmill of survival, a
vortex of
brutalizing tasks, and their life became dream, pleasure, fantasy, and
a revolutionary
plan: to break out of confinement and change and improve, a struggle to
appease
the desires and ambitions that stirred imagined lives in them, and the
curiosity to clear away the mysteries that filled their surroundings.
This
never-interrupted process was enriched when writing was born and
stories, in
addition to being heard, could be read, achieving the permanence
literature
confers on them. That is why this must be repeated incessantly until
new
generations are convinced of it: fiction is more than an entertainment,
more
than an intellectual exercise that sharpens one’s sensibility and
awakens a
critical spirit. It is an absolute necessity so that civilization
continues to
exist, renewing and preserving in us the best of what is human. So that
we do
not retreat into the savagery of isolation and life is not reduced to
the
pragmatism of specialists who see things profoundly but ignore what
surrounds,
precedes, and continues those things. So that we do not move from
having the
machines we invent serve us to being their servants and slaves. And
because a
world without literature would be a world without desires or ideals or
irreverence, a world of automatons deprived of what makes the human
being
really human: the capacity to move out of oneself and into another,
into
others, modeled with the clay of our dreams.
From the
cave to the skyscraper, from the club to weapons of mass destruction,
from the
tautological life of the tribe to the era of globalization, the
fictions of
literature have multiplied human experiences, preventing us from
succumbing to
lethargy, self-absorption, resignation. Nothing has sown so much
disquiet, so
disturbed our imagination and our desires as the life of lies we add,
thanks to
literature, to the one we have, so we can be protagonists in the great
adventures, the great passions real life will never give us. The lies
of
literature become truths through us, the readers transformed, infected
with
longings and, through the fault of fiction, permanently questioning a
mediocre
reality. Sorcery, when literature offers us the hope of having what we
do not
have, being what we are not, acceding to that impossible existence
where like
pagan gods we feel mortal and eternal at the same time, that introduces
into
our spirits non-conformity and rebellion, which are behind all the
heroic deeds
that have contributed to the reduction of violence in human
relationships.
Reducing violence, not ending it. Because ours will always be,
fortunately, an
unfinished story. That is why we have to continue dreaming, reading,
and
writing, the most effective way we have found to alleviate our mortal
condition, to defeat the corrosion of time, and to transform the
impossible
into possibility.
Stockholm,
December 7, 2010
Translation
by Edith Grossman
Éloge de la
lecture et de la fiction
J’ai appris
à lire à l’âge de cinq ans, dans la classe du frère Justiniano, au
collège de
La Salle à Cochabamba (Bolivie). C’est ce qui m’est arrivé de plus
important
dans la vie. Presque soixante-dix ans après je me rappelle nettement
comment
cette magie, celle de traduire en images les mots des livres, a enrichi
mon
existence, brisant les barrières de l’espace et du temps en me
permettant de
parcourir avec le capitaine Nemo dans son sous-marin vingt mille lieues
sous les
mers, de lutter aux côtés de d’Artagnan, d’Athos, de Porthos et
d’Aramis contre
les intrigues qui menaçaient la Reine au temps du retors Richelieu, ou
de me
traîner dans les entrailles de Paris, devenu Jean Valjean, portant sur
son dos
le corps inerte de Marius.
La lecture
transformait le rêve en vie et la vie en songe, en mettant à la portée
du petit
bonhomme que j’étais l’univers de la littérature. Ma mère me raconta
que les
premières choses que j’écrivais étaient les suites des histoires que je
lisais,
parce que j’étais triste qu’elles finissent, ou que je voulais en
corriger la
fin. Et c’est peut-être cela que j’ai fait toute ma vie sans le
savoir :
prolonger dans le temps, alors que je grandissais, mûrissais et
vieillissais,
les histoires qui avaient rempli mon enfance d’exaltation et
d’aventures.
J’aimerais
que ma mère fût ici, elle qui était toujours émue et pleurait en lisant
les
poèmes d’Amado Nervo et de Pablo Neruda ; et aussi mon grand-père
Pedro,
long nez et calvitie luisante, qui célébrait mes vers, et l’oncle Lucho
qui
m’encouragea tellement à m’investir corps et âme dans l’écriture, bien
que la
littérature, à cette époque et en ce lieu, eût si mal nourri ses
adorateurs. Ma
vie durant j’ai eu de ces gens à mes côtés qui m’aimaient et
m’encourageaient,
et me communiquaient leur foi quand je doutais. Grâce à eux, et sans
doute,
aussi, à mon obstination et un peu de chance, j’ai pu consacrer une
bonne part
de mon temps à cette passion, ce vice et cette merveille : écrire,
créer
une vie parallèle où nous réfugier contre l’adversité, et qui rend
naturel
l’extraordinaire, extraordinaire le naturel, dissipe le chaos, embellit
la
laideur, éternise l’instant et fait de la mort un spectacle passager.
Rien n’était
moins facile que d’écrire des histoires. En devenant mots, les projets
se
flétrissaient sur le papier, idées et images fléchissaient. Comment les
ranimer ? Par bonheur, les maîtres étaient là pour qu’on apprenne
d’eux et
qu’on suive leur exemple. Flaubert m’a enseigné que le talent est une
discipline
tenace et une longue patience. Faulkner, que la forme – écriture et
structure –
est ce qui grandit ou appauvrit les sujets. Martorell, Cervantès,
Dickens,
Balzac, Tolstoï, Conrad, Thomas Mann, que le nombre et l’ambition sont
aussi
importants dans un roman que l’habileté stylistique et la stratégie
narrative.
Sartre, que les mots sont des actes et qu’un roman, une pièce de
théâtre, un
essai, engagés dans l’actualité et le meilleur choix, peuvent changer
le cours
de l’histoire. Camus et Orwell, qu’une littérature dépourvue de morale
est
inhumaine, et Malraux, que l’héroïsme et la poésie épique avaient leur
place
dans l’actualité autant qu’à l’époque des Argonautes, l’Iliade et
l’Odyssée.
Si je
convoquais en ce discours tous les écrivains à qui je dois un peu ou
beaucoup,
leurs ombres nous plongeraient dans l’obscurité. Ils sont innombrables.
Non
seulement ils m’ont révélé les secrets du métier d’écrire, mais ils
m’ont fait
explorer les abîmes de l’humain, admirer ses prouesses et m’horrifier
de ses
égarements. Ils furent les amis les plus serviables, les animateurs de
ma
vocation, et j’ai découvert dans leurs livres que, même dans les pires
circonstances, il reste de l’espoir et qu’il vaut la peine de vivre, ne
serait-ce que parce que sans la vie nous ne pourrions lire ni imaginer
des
histoires.
Je me suis
demandé parfois si dans des pays comme le mien, qui compte si peu de
lecteurs
et tant de pauvres, d’analphabètes et d’injustices, et où la culture
reste le
privilège d’un tout petit nombre, écrire n’était pas un luxe
solipsiste. Mais
ces doutes n’ont jamais étouffé ma vocation, car j’ai toujours continué
à
écrire, même dans ces périodes où les travaux alimentaires absorbaient
presque
tout mon temps. Je crois avoir agi sagement car, si pour que la
littérature
fleurisse dans une société il avait fallu d’abord accéder à la haute
culture, à
la liberté, à la prospérité et la justice, elle n’aurait jamais existé.
Au
contraire, grâce à la littérature, aux consciences qu’elle a formées,
aux
désirs et élans qu’elle a inspirés, au désenchantement de la réalité au
retour
d’une belle histoire, la civilisation est maintenant moins cruelle que
lorsque
les conteurs ont entrepris d’humaniser la vie avec leurs fables. Nous
serions
pires que ce que nous sommes sans les bons livres que nous avons
lus ;
nous serions plus conformistes, moins inquiets, moins insoumis, et
l’esprit
critique, moteur du progrès, n’existerait même pas. Tout comme écrire,
lire
c’est protester contre les insuffisances de la vie. Celui qui cherche
dans la fiction
ce qu’il n’a pas exprime, sans nul besoin de le dire ni même de le
savoir, que
la vie telle qu’elle est ne suffit pas à combler notre soif d’absolu,
fondement
de la condition humaine, et qu’elle devrait être meilleure. Nous
inventons les
fictions pour pouvoir vivre de quelque manière les multiples vies que
nous
voudrions avoir quand nous ne disposons à peine que d’une seule.
Sans les
fictions nous serions moins conscients de l’importance de la liberté
qui rend
vivable la vie, et de l’enfer qu’elle devient quand cette liberté est
foulée
aux pieds par un tyran, une idéologie ou une religion. Que ceux qui
doutent que
la littérature, qui nous plonge dans le rêve de la beauté et du
bonheur, nous
alerte, de surcroît, contre toute forme d’oppression, se demandent
pourquoi
tous les régimes soucieux de contrôler la conduite des citoyens depuis
le
berceau jusqu’au tombeau, la redoutent au point d’établir des systèmes
de
censure pour la réprimer et surveillent avec tant de suspicion les
écrivains
indépendants. Ces régimes savent bien, en effet, le risque pris à
laisser
l’imagination discourir dans les livres, et combien séditieuses
deviennent les
fictions quand le lecteur compare la liberté qui les rend possibles et
s’y
étale, avec l’obscurantisme et la peur qui le guettent dans le monde
réel.
Qu’ils le veuillent ou non, qu’ils le sachent ou pas, les fabulateurs,
en
inventant des histoires, propagent l’insatisfaction, en montrant que le
monde
est mal fait, que la vie de l’imaginaire est plus riche que la routine
quotidienne.
Ce constat, s’il s’ancre dans la sensibilité et la conscience, rend les
citoyens plus difficiles à manipuler, à accepter les mensonges de ceux
qui
voudraient leur faire croire qu’entre les barreaux, au milieu
d’inquisiteurs et
de geôliers, ils vivent mieux et plus en sécurité.
La bonne
littérature tend des ponts entre gens différents et, en nous faisant
jouir,
souffrir ou nous surprendre, elle nous unit par-delà les langues, les
croyances, les us et coutumes ou les préjugés qui nous séparent. Quand
la
grande baleine blanche ensevelit Achab dans la mer, le cœur des
lecteurs se
serre pareillement à Tokyo, Lima ou Tombouctou. Lorsqu’Emma Bovary
avale son
arsenic, qu’Anna Karénine se jette sous un train et Julien Sorel monte
à
l’échafaud, et quand, dans Le Sud, de Borges, le gentil docteur
Juan
Dahlmann sort de ce café de la pampa pour affronter au couteau un
tueur, ou
quand nous réalisons que tous les habitants de Comala, ce village de Pedro
Páramo, sont morts, le frisson qui nous parcourt est le même chez
un
lecteur qui adore Bouddha, Confucius, le Christ, Allah ou est
agnostique, qu’il
porte veston et cravate, djellaba, kimono ou bombachas. La littérature
crée une
fraternité à l’intérieur de la diversité humaine et éclipse les
frontières
érigées entre hommes et femmes par l’ignorance, les idéologies, les
religions,
les langues et la stupidité.
Comme toutes
les époques ont connu leurs peurs, la nôtre est celle des fanatiques,
celle des
terroristes suicidaires, une espèce ancienne convaincue qu’en tuant on
gagne le
paradis, que le sang des innocents lave les affronts collectifs,
corrige les
injustices et impose la vérité sur les fausses croyances.
D’innombrables
victimes sont immolées chaque jour en divers lieux du monde par ceux
qui se
sentent détenteurs de vérités absolues. L’on croyait qu’avec
l’effondrement des
empires totalitaires, la coexistence, la paix, le pluralisme, les
droits de
l’homme s’imposeraient et que le monde laisserait loin derrière lui les
holocaustes, les génocides, les invasions et les guerres
d’extermination. Rien
de cela ne s’est produit. On voit proliférer de nouvelles formes de
barbarie,
attisées par le fanatisme et, avec la multiplication d’armes de
destruction
massive, on ne peut exclure que n’importe quel groupuscule de
rédempteurs fous
provoque un jour un cataclysme nucléaire. Il faut leur couper la route,
les
affronter et les défaire. Ils ne sont pas nombreux, bien que le fracas
de leurs
crimes résonne dans toute la planète et que l’on soit saisis d’horreur
par ce
cauchemar. Nous ne devons pas nous laisser intimider par ceux qui
voudraient
nous ravir la liberté que nous avons conquise dans le long et héroïque
processus de civilisation. Défendons la démocratie libérale qui, malgré
toutes
ses insuffisances, signifie encore le pluralisme politique, la
coexistence, la
tolérance, les droits de l’homme, le respect de la critique, la
légalité, les
élections libres, l’alternance au pouvoir, tout ce qui nous a tirés de
la vie
sauvage et nous a rapprochés – sans que nous n’arrivions jamais à
l’atteindre –
de la vie belle et parfaite simulée par la littérature, celle que nous
ne
pouvons mériter qu’en l’inventant, en l’écrivant et en la lisant. En
affrontant
les fanatiques assassins nous défendons notre droit à rêver et à faire
de nos
rêves la réalité.
Dans ma
jeunesse, comme maints écrivains de ma génération, j’ai été marxiste et
j’ai
cru que le socialisme allait être le remède à l’exploitation et aux
injustices
sociales qui accablaient mon pays, l’Amérique latine et le reste du
tiers-monde.
Revenu de l’étatisme et du collectivisme, mon passage au démocrate et
au
libéral que je suis – que je tente d’être – a été long, difficile, et
réalisé
lentement, à la faveur d’événements tels que l’alignement de la
Révolution
cubaine, si enthousiasmante au début, sur le modèle autoritaire et
vertical de
l’Union Soviétique, le témoignage des dissidents qui parvenaient à
s’évader des
barbelés du Goulag, l’invasion de la Tchécoslovaquie par les pays du
Pacte de
Varsovie, et grâce à des penseurs tels que Raymond Aron, Jean-François
Revel,
Isaiah Berlin et Karl Popper, à qui je dois ma revalorisation de la
culture
démocratique et des sociétés ouvertes. Ces maîtres furent un exemple de
lucidité et de hardiesse quand l’intelligentsia de l’Occident semblait,
par frivolité
ou opportunisme, avoir succombé au charme du socialisme soviétique ou,
pire
encore, au sabbat sanguinaire de la révolution culturelle chinoise.
Enfant je
rêvais d’aller un jour à Paris parce que, ébloui par la littérature
française,
je croyais que vivre là et respirer l’air qu’avaient respiré Balzac,
Stendhal,
Baudelaire et Proust, allait m’aider à devenir un véritable écrivain,
et qu’en
ne sortant pas du Pérou je ne serais qu’un pseudo écrivain du dimanche
et jour
férié. Et il est bien vrai que je dois à la France et à la culture
française
des enseignements inoubliables, comme de dire que la littérature est
autant une
vocation qu’une discipline, un travail et une obstination. J’ai vécu là
quand
Sartre et Camus étaient vivants et écrivaient, dans les années de
Beckett,
Bataille, Ionesco et Cioran, de la découverte du théâtre de Brecht et
du cinéma
d’Ingmar Bergman, du TNP de Jean Vilar et de l’Odéon de Jean-Louis
Barrault, de
la Nouvelle Vague et du Nouveau Roman, et de ces discours, morceaux de
bravoure
littéraires, d’André Malraux, ainsi que, peut-être, du spectacle le
plus
théâtral de l’Europe d’alors, les conférences de presse et les coups de
tonnerre olympiens du général de Gaulle. Mais ce dont je suis peut-être
le plus
reconnaissant à la France, c’est de m’avoir fait découvrir l’Amérique
latine.
C’est là que j’ai appris que le Pérou faisait partie d’une vaste
communauté
unie par l’histoire, la géographie, la problématique sociale et
politique, par
une certaine façon d’être et la langue savoureuse qu’elle parlait et
dans
laquelle elle écrivait. Et qu’elle produisait, en ces mêmes années, une
littérature innovante et exaltante. C’est là que j’ai lu Borges,
Octavio Paz,
Cortázar, García Márquez, Fuentes, Cabrera Infante, Rulfo, Onetti,
Carpentier, Edwards,
Donoso et bien d’autres, dont les textes révolutionnaient alors
l’écriture
narrative en langue espagnole et grâce auxquels l’Europe et une bonne
partie du
monde découvraient que l’Amérique latine n’était pas seulement le
continent des
coups d’État, des caudillos d’opérette, des guérilleros barbus et des
maracas
du mambo ou du cha-cha-cha, mais aussi celui des idées, des formes
artistiques
et des fantaisies littéraires qui dépassaient le pittoresque pour
parler un
langage universel.
Depuis cette
époque jusqu’à nos jours, non sans trébuchements et faux-pas,
l’Amérique latine
a progressé, mais, comme le disait César Vallejo dans ce
vers : Il
y a, frères, énormément à faire. Nous souffrons de moins de
dictatures que
naguère, sauf à Cuba et au Venezuela, prêt à l’aider, ainsi que dans de
pseudo-démocraties populistes et grotesques, comme celles de Bolivie et
du
Nicaragua. Mais dans le reste du continent, tant bien que mal, la
démocratie
fonctionne, appuyée par un vaste consensus populaire, et pour la
première fois
dans notre histoire, nous avons une gauche et une droite qui, comme au
Brésil,
au Chili, en Uruguay, au Pérou, en Colombie, en République Dominicaine,
au
Mexique et dans presque toute l’Amérique centrale, respectent la
légalité, la
liberté de critiquer, les élections et l’alternance au pouvoir. C’est
là le bon
chemin et, si elle persévère, si elle combat l’insidieuse corruption et
poursuit son intégration au monde, l’Amérique latine cessera enfin
d’être le
continent du futur pour devenir celui du présent.
Je ne me
suis jamais senti un étranger en Europe ni, à vrai dire, nulle part
ailleurs.
Dans les endroits où j’ai vécu, à Paris, Londres, Barcelone et Madrid,
Berlin,
Washington et New York, au Brésil ou en République Dominicaine, je me
suis
senti chez moi. J’ai toujours trouvé un gîte où je pouvais vivre en
paix et
travailler, apprendre des choses, nourrir des illusions, rencontrer des
amis,
faire de bonnes lectures et trouver des sujets d’écriture. Il ne me
semble pas
qu’être devenu, sans me le proposer, un citoyen du monde, ait affaibli
ce qu’on
appelle « les racines », mes liens avec mon propre pays – ce
qui
n’aurait pas non plus grande importance –, car s’il en avait été ainsi,
les
expériences péruviennes ne continueraient pas à alimenter mon écriture
et
n’apparaîtraient pas toujours dans mes histoires, même quand celles-ci
semblent
se passer très loin du Pérou. Je crois que de vivre tant de temps hors
du pays
où je suis né a plutôt renforcé ces liens, en leur adjoignant une
perspective
plus lucide, et la nostalgie, qui sait faire la différence entre le
contingent
et le substantiel et maintient dans tout leur éclat les souvenirs.
L’amour de
son pays natal n’est pas une obligation, mais, à l’instar de tout autre
amour,
c’est un mouvement spontané du cœur, comme celui qui unit les amants,
les
parents et leurs enfants, et les amis entre eux.
Le Pérou, je
le porte dans mes entrailles parce que j’y suis né, que j’y ai grandi
et m’y
suis formé, et que j’ai vécu là ces expériences d’enfance et de
jeunesse qui
ont modelé ma personnalité, forgé ma vocation, et parce que c’est là
que j’ai
aimé, haï, joui, souffert et rêvé. Ce qui s’y passe m’affecte
davantage, me
touche et m’exaspère plus que ce qui se produit ailleurs. Je ne l’ai
pas
cherché ni ne me le suis imposé, il en est simplement ainsi. Certains
compatriotes m’ont accusé de traîtrise et j’ai été sur le point de
perdre ma
citoyenneté quand, pendant la dernière dictature, j’ai demandé aux
gouvernements démocratiques du monde de pénaliser le régime par des
sanctions
diplomatiques et économiques, comme je l’ai toujours fait avec toutes
les
dictatures, de quelque nature qu’elles aient été, celle de Pinochet et
de Fidel
Castro, celle des talibans en Afghanistan, celle des imams d’Iran,
celle de l’apartheid
de l’Afrique du Sud, celle des satrapes en uniforme de la Birmanie
(aujourd’hui
Myanmar). Et je le referais demain si – ne le veuille le destin et ne
le
permettent les Péruviens – le Pérou était victime une fois de plus d’un
coup
d’État qui réduirait à néant notre fragile démocratie. Ce n’était
certes pas
sous l’effet précipité et passionnel du ressentiment, comme l’ont écrit
quelques gratte-papier habitués à juger les autres à partir de leur
propre
petitesse. Ce fut un acte conforme à ma conviction qu’une dictature
représente
le mal absolu pour un pays, une source de brutalité et de corruption,
et de
profondes blessures qui tardent longtemps à se refermer, qui
empoisonnent son
avenir et créent des habitudes et des pratiques malsaines qui se
prolongent au
long des générations en retardant la reconstruction démocratique. C’est
pourquoi les dictatures doivent être combattues sans ménagement, par
tous les
moyens à notre portée, y compris par des sanctions économiques. Il est
déplorable que les gouvernements démocratiques, au lieu de donner
l’exemple en
se solidarisant avec ceux qui, comme les Dames en Blanc de Cuba, les
résistants
du Venezuela, ou Aung San Suu Kyi et Liu Xiaobo, affrontent
courageusement les
dictatures dont ils pâtissent, se montrent souvent bienveillants, non
envers
eux mais envers leurs bourreaux. Ces personnes courageuses, en
combattant pour
leur liberté, luttent aussi pour la nôtre.
Un de mes
compatriotes, José María Arguedas, a qualifié le Pérou de pays de
« tous
les sangs ». Je ne crois pas qu’il y ait de meilleure formule pour
le
définir. C’est ce que nous sommes et avons dans nos veines, tous les
Péruviens,
que nous le voulions ou pas : une somme de traditions, de races,
de
croyances et de cultures provenant des quatre points cardinaux. Je suis
fier de
me sentir héritier des cultures précolombiennes qui fabriquèrent les
tissus et
les manteaux de plumes de Nazca et de Paracas, et les céramiques
mochicas ou
incas qui sont exhibées dans les meilleurs musées du monde, des
bâtisseurs du
Machu Picchu, du Grand Chimú, Chan Chan, Kuelap, Sipán, des huacas de
la
Sorcière, du Soleil et de la Lune ; fier aussi des Espagnols qui,
dans
leur bagage, avec leurs épées et leurs chevaux, apportèrent au Pérou la
Grèce
et Rome, la tradition judéo-chrétienne, la Renaissance, Cervantès,
Quevedo et
Góngora, ainsi que la rude langue de Castille adoucie par les Andes. Et
qu’avec
l’Espagne l’Afrique, avec sa robustesse, sa musique et son imagination
effervescente, soit venue aussi enrichir l’hétérogénéité péruvienne. Si
nous
grattons un peu nous découvrons que le Pérou, comme l’Aleph de Borges,
est en
petit format le monde entier. Quel privilège extraordinaire que celui
d’un pays
qui n’a pas une identité parce qu’il les a toutes !
La conquête
de l’Amérique fut cruelle et violente, comme toutes les conquêtes,
certes, et
nous devons la critiquer, mais sans oublier, ce faisant, que ceux qui
commirent
ces saccages et ces crimes furent, en grand nombre, nos
arrière-grands-parents
et nos trisaïeuls, les Espagnols qui allèrent aux Amériques et s’y
métissèrent,
non ceux qui restèrent sur leurs terres. Cette critique, pour être
juste, doit
être une autocritique. Parce qu’en devenant indépendants de l’Espagne,
voici
deux cents ans, ceux qui assumèrent le pouvoir dans les anciennes
colonies, au
lieu de racheter l’Indien et de lui rendre justice pour les dommages
anciens,
ont continué à l’exploiter avec autant de cupidité et de férocité que
les
conquistadores, voire, dans quelques pays, en le décimant et
l’exterminant.
Disons-le clairement : depuis deux siècles, l’émancipation des
indigènes
est de notre responsabilité exclusive et nous l’avons manquée. Elle
demeure
toujours en suspens dans toute l’Amérique latine. Il n’y a pas une
seule
exception à cet opprobre et à cette honte.
J’aime l’Espagne
autant que le Pérou et ma dette envers elle est aussi grande que l’est
ma
gratitude. Sans l’Espagne je ne me trouverais pas aujourd’hui à cette
tribune,
ni ne serais un écrivain connu ; comme tant d’autres collègues
infortunés,
je serais sans doute dans les limbes des scribouillards malchanceux,
sans
éditeurs, sans récompenses, sans lecteurs, dont le talent peut-être –
triste
consolation – serait découvert par la postérité. C’est en Espagne que
furent
publiés tous mes livres et que j’ai obtenu une reconnaissance
excessive ;
et que des amis comme Carlos Barral et Carmen Balcells, ainsi que tant
d’autres, se sont évertués à trouver des lecteurs à mes histoires. Et
l’Espagne
m’a accordé une seconde nationalité quand j’allais perdre la mienne. Je
n’ai
jamais senti la moindre incompatibilité entre être péruvien et avoir un
passeport espagnol parce que j’ai toujours pensé que l’Espagne et le
Pérou sont
l’avers et le revers d’une même chose, et pas seulement dans ma petite
personne, mais également dans des réalités essentielles comme
l’histoire, la
langue et la culture.
De toutes
les années que j’ai vécues sur le sol espagnol, je me rappelle dans
leur
fulgurance les cinq ans passés dans ma chère Barcelone au début des
années
soixante-dix. La dictature de Franco était toujours debout et fusillait
encore,
mais c’était déjà un fossile effiloché, et, surtout dans le domaine de
la
culture, incapable de conserver les contrôles de naguère. Des failles
s’ouvraient que la censure ne parvenait pas à colmater et c’est par ces
entrebâillements que la société espagnole absorbait de nouvelles idées,
des
livres, des courants de pensée, des valeurs et des formes artistiques
jusque là
interdits pour cause de subversion. Aucune ville ne profita autant et
mieux que
Barcelone de ce début d’ouverture ni ne vécut un bouillonnement
semblable dans
le domaine des idées et de la création. Elle devint la capitale
culturelle de
l’Espagne, le lieu où il fallait être pour respirer cet avant-goût de
la
liberté qui allait venir. Et, d’une certaine façon, elle fut aussi la
capitale
culturelle de l’Amérique latine par la quantité de peintres,
d’écrivains,
d’éditeurs et d’artistes en provenance des pays latino-américains qui
s’y
installèrent, ou allaient et venaient à Barcelone, parce que c’est là
qu’il
fallait se trouver si l’on voulait être un poète, un romancier, un
peintre ou
un compositeur de notre temps. Ce furent pour moi des années
inoubliables de
compagnonnage, d’amitié, de complicité et de fécond travail
intellectuel. Tout
comme Paris auparavant, Barcelone fut une Tour de Babel, une ville
cosmopolite
et universelle, où il était stimulant de vivre et de travailler, et où,
pour la
première fois depuis l’époque de la guerre civile, des écrivains
espagnols et
latino-américains se mêlèrent et fraternisèrent, en se reconnaissant
maîtres
d’une même tradition et alliés dans une entreprise commune ; et la
certitude que la fin de la dictature était imminente et que dans
l’Espagne
démocratique la culture serait le protagoniste principal.
Bien qu’il
n’en allât pas exactement ainsi, la transition espagnole de la
dictature à la
démocratie a été une des meilleures histoires des temps modernes, car
elle a
montré comment, lorsque la sagesse et la raison prévalent et les
adversaires
politiques rangent au vestiaire le sectarisme en faveur du bien commun,
des
faits prodigieux peuvent se produire comme ceux des romans du réalisme
magique.
La transition espagnole de l’autoritarisme à la liberté, du
sous-développement
à la prospérité, d’une société de contrastes économiques et
d’inégalités
tiers-mondistes à un pays de classes moyennes, son intégration à
l’Europe et
son adoption en quelques années d’une culture démocratique, a fait
l’admiration
du monde entier et enclenché la modernisation de l’Espagne. Cela a été
pour moi
une expérience émouvante et enrichissante que de la vivre de très près
et, par
moments, de l’intérieur. Puissent les nationalismes, fléau incurable du
monde
moderne et aussi de l’Espagne, ne pas gâcher cette histoire heureuse.
Je déteste
toute forme de nationalisme, d’idéologie – ou plutôt de religion –
provinciale,
aux idées courtes et exclusives, qui rogne l’horizon intellectuel et
dissimule
en son sein des préjugés ethniques et racistes, car elle transforme en
valeur
suprême, en privilège moral et ontologique, la circonstance fortuite du
lieu de
naissance. En même temps que la religion, le nationalisme a été la
cause des
pires boucheries de l’histoire, comme celle des deux guerres mondiales
et de la
saignée actuelle au Moyen-Orient. Rien n’a contribué autant que le
nationalisme
à la balkanisation de l’Amérique latine, ensanglantée par des combats
et des
litiges insensés, et gaspillant des ressources astronomiques en achat
d’armes
au lieu de construire écoles, bibliothèques et hôpitaux.
Il ne faut
pas confondre le nationalisme avec ses œillères et son refus de
« l’autre », toujours source de violence, avec le
patriotisme,
sentiment sain et généreux, d’amour de la terre où l’on a vu le jour,
où ont
vécu ses ancêtres et se sont forgés les premiers rêves, paysage
familier de
géographies, d’êtres chers et d’événements qui deviennent des
moments-clés de
la mémoire et des boucliers contre la solitude. La patrie ce ne sont ni
les
drapeaux ni les hymnes, ni les discours apodictiques sur des héros
emblématiques,
mais une poignée de lieux et de personnes qui peuplent nos souvenirs et
les
teintent de mélancolie, la sensation chaude que, où que nous soyons, il
existe
un foyer auquel nous pourrons retourner.
Le Pérou est
pour moi cet Arequipa où je suis né mais n’ai jamais vécu, une ville
que ma
mère, mes grands-parents, mes oncles et tantes m’ont appris à connaître
à
travers leurs souvenirs et leurs regrets, parce que toute ma tribu
familiale,
comme font généralement les Aréquipègnes, a toujours transporté avec
elle la
ville Blanche dans son existence nomade. Le Pérou c’est cette Piura du
désert,
ce caroubier et ce petit âne patient, que les Piurans de ma jeunesse
appelaient
« le pied de l’autre » – triste et bel appellatif –, ville où
j’ai
découvert que ce c’étaient pas les cigognes qui apportaient au monde
les bébés,
mais les couples en faisant des horreurs qui étaient un péché mortel.
Le Pérou
c’est ce collège San Miguel et le théâtre Variedades où pour la
première fois
j’ai vu sur scène une œuvrette écrite par moi. C’est ce coin de Diego
Ferré et
Colón, dans le Miraflores liménien, que nous appelions le Quartier
Joyeux, où
j’ai troqué mes culottes courtes contre un pantalon, où j’ai fumé ma
première
cigarette, où j’ai appris à danser, à tomber amoureux et à faire des
déclarations aux filles. C’est la poussiéreuse et brinquebalante salle
de
rédaction du journal La Crónica où, à l’âge de seize ans, j’ai
fait mes
premiers pas dans le journalisme, un métier qui, avec la littérature, a
occupé
presque toute ma vie et m’a permis, comme les livres, de vivre
davantage, de
connaître mieux le monde et de fréquenter des gens de toute part et de
toute
nature, des gens excellents, bons, méchants et exécrables. C’est le
collège
militaire Leoncio Prado où j’ai appris que le Pérou n’était pas ce
petit réduit
de classe moyenne où j’avais vécu jusqu’alors confiné et protégé, mais
un grand
et vieux pays, violent et inégalitaire, secoué par toutes sortes de
tempêtes
sociales. Ce sont les cellules clandestines de Cahuide où, avec une
poignée de
condisciples de l’université San Marcos, nous préparions la révolution
mondiale. Et le Pérou, enfin, ce sont mes amis du Mouvement Liberté
avec qui,
trois années durant, au milieu des bombes, des coupures d’électricité
et des
attentats terroristes, nous avons œuvré en défense de la démocratie et
pour la
culture de la liberté.
Le Pérou
c’est Patricia, ma cousine, nez retroussé et caractère indomptable,
avec qui
j’ai eu la chance de me marier voici quarante-cinq ans et qui supporte
encore
mes manies, mes névroses et ces crises de rage qui m’aident à écrire.
Sans elle
ma vie aurait été emportée depuis longtemps dans un tourbillon
chaotique, sans
connaître la naissance d’Álvaro, de Gonzalo et de Morgana, ni des six
petits-enfants qui nous prolongent et réjouissent notre existence.
C’est elle
qui fait tout et fait tout bien. Elle résout les problèmes, gère les
finances,
met en ordre le chaos, maintient à distance les journalistes et les
intrus,
défend mon temps, décide des rendez-vous et des déplacements, fait et
défait
les valises, et elle est si généreuse que, même lorsqu’elle croit me
gronder,
elle me fait le meilleur des éloges : « Mario, tu ne sers
qu’à une
chose, à écrire ».
Revenons à
la littérature. Le paradis de l’enfance n’est pas pour moi un mythe
littéraire,
mais une réalité que j’ai vécue et dont j’ai joui dans la grande maison
familiale aux trois patios, à Cochabamba, où, avec mes cousines et mes
camarades de classe, l’on pouvait mimer les histoires de Tarzan et de
Salgari,
et à la préfecture de Piura, sous les poutres de laquelle nichaient les
chauves-souris, ombres silencieuses qui peuplaient de mystère les nuits
étoilées de cette terre chaude. Ces années-là, écrire était un jeu
auquel ma
famille applaudissait, une grâce pour laquelle on m’acclamait, moi, le
petit-fils, le neveu, le fils sans père, parce que mon père était mort
et se
trouvait au ciel. C’était un monsieur de haute taille et joli garçon,
en
uniforme de marin, dont la photo trônait sur ma table de chevet et
qu’après
avoir fait mes prières j’embrassais avant de m’endormir. Un matin à
Piura, dont
je crois ne m’être jamais remis, ma mère me révéla que ce monsieur, en
vérité,
était vivant. Et que ce même jour nous irions vivre avec lui à Lima.
J’avais
onze ans et, dès lors, tout changea. Je perdis mon innocence et
découvris la
solitude, l’autorité, la vie adulte et la peur. Mon salut fut de lire,
lire les
bons livres, me réfugier dans ces mondes où vivre était exaltant,
intense, une
aventure après l’autre, où je pouvais me sentir libre et être à nouveau
heureux. Et d’écrire, en cachette, comme quelqu’un qui se livre à un
vice
inavouable, à une passion interdite. La littérature cessa d’être un
jeu, pour
devenir une façon de résister à l’adversité, de protester, de me
révolter,
d’échapper à l’intolérable : ma raison de vivre. Dès lors et
jusqu’à
présent, dans toutes les circonstances où je me suis senti abattu ou
meurtri et
au bord du désespoir, me livrer corps et âme à mon travail de
fabulateur a été
la lumière qui signale la sortie du tunnel, la planche de salut qui
porte le
naufragé jusqu’au rivage.
Bien que
cela représente beaucoup de travail et me fasse suer à grosses gouttes,
et qu’à
l’instar de tout écrivain je ressente parfois la menace de la paralysie
ou de
la sècheresse de l’imagination, rien ne m’a fait autant jouir dans la
vie que
de passer des mois et des années à bâtir une histoire, depuis sa
naissance
incertaine, cette image que la mémoire a emmagasinée à partir de
quelque
expérience vécue et devenue inquiétude, enthousiasme, fantaisie,
jusqu’à sa
germination en projet et en décision de tenter de transformer ce
brouillard
peuplé de fantômes en une histoire. « Écrire est une manière de
vivre », a dit Flaubert. Oui, assurément, une manière de vivre
dans
l’illusion et la joie, avec un feu crépitant dans la tête, en luttant
contre
les mots indociles jusqu’à les maîtriser, en explorant le vaste monde
comme un
chasseur derrière des proies convoitées pour alimenter la fiction en
herbe et
apaiser cet appétit vorace de toute histoire qui, en grossissant,
voudrait
avaler toutes les histoires. Arriver à sentir le vertige auquel nous
pousse un
roman en gestation, quand il prend forme et semble commencer à vivre
pour son
propre compte, avec des personnages qui bougent, agissent, pensent,
sentent et
exigent respect et considération, auxquels on ne peut plus imposer
arbitrairement une conduite et qu’on ne peut priver de leur
libre-arbitre sans
les tuer, sans que l’histoire perde son pouvoir de persuasion, telle
est
l’expérience qui me fascine tout autant que la première fois, aussi
pleine et
vertigineuse que lorsqu’on fait l’amour avec la femme aimée des jours,
des
semaines et des mois, sans s’arrêter.
En parlant
de la fiction, je vous ai beaucoup parlé du roman et peu du théâtre,
une autre
de ses formes éminentes. C’est, bien sûr, une grande injustice. Le
théâtre fut
mon premier amour, depuis que, dans mon adolescence, je vis représenter
au
théâtre Segura, de Lima, La mort d’un commis voyageur, d’Arthur
Miller,
spectacle qui me bouleversa d’émotion et me poussa à écrire un drame
sur les
Incas. Si la Lima des années cinquante avait connu un mouvement
théâtral
j’aurais été dramaturge plutôt que romancier. Comme il n’y en avait
pas, cela
m’a orienté de plus en plus vers l’art narratif. Mais mon amour pour le
théâtre
n’a jamais cessé, il a sommeillé pelotonné à l’ombre des romans, comme
une
tentation et une nostalgie, surtout quand je voyais quelque pièce qui
me
subjuguait. À la fin des années soixante-dix, le souvenir tenace d’une
grand-tante centenaire, la Mamaé, qui, au dernier temps de sa vie,
rompit avec
la réalité environnante pour se réfugier dans les souvenirs et la
fiction, me
suggéra une histoire. Et je sentis, comme un signe du destin, que
c’était là
une histoire pour le théâtre, et que c’est seulement sur les planches
qu’elle
connaîtrait l’animation et la splendeur des fictions réussies. Je l’ai
écrite
avec le tremblement excité du débutant et j’ai eu un tel plaisir en la
voyant
mise en scène, avec Norma Aleandro dans le rôle de l’héroïne, que,
depuis,
entre deux romans, deux essais, j’ai récidivé plusieurs fois. Mais ce
que je
n’aurais jamais imaginé, c’est qu’à l’âge de soixante-dix ans j’allais
monter,
à vrai dire, me traîner sur les planches pour jouer. Cette aventure
téméraire
m’a faire vivre pour la première fois en chair et en os le miracle que
cela
représente, pour quelqu’un qui a passé sa vie à écrire des fictions,
que
d’incarner pour quelques heures un personnage issu de son imagination,
de vivre
la fiction face au public. Je ne pourrais jamais assez remercier mes
chers
amis, le metteur en scène Joan Ollé et l’actrice Aitana Sánchez Gijón,
pour
m’avoir poussé à partager avec eux cette fantastique expérience (malgré
tout
mon trac).
La
littérature est une représentation fallacieuse de la vie qui,
néanmoins, nous
aide à mieux la comprendre, à nous orienter dans le labyrinthe dans
lequel nous
sommes nés, que nous traversons et où nous mourons. Elle nous dédommage
des
revers et des frustrations que nous inflige la vie véritable et grâce à
elle nous
déchiffrons, du moins partiellement, ce hiéroglyphe qu’est souvent
l’existence
pour la grande majorité des êtres humains, principalement pour nous,
qui
abritons plus de doutes que de certitudes, et avouons notre perplexité
devant
des sujets tels que la transcendance, le destin individuel et
collectif, l’âme,
le sens ou le non-sens de l’histoire, l’en-deçà et l’au-delà de la
connaissance
rationnelle.
J’ai
toujours été fasciné en imaginant cette circonstance incertaine où nos
ancêtres, à peine différents encore de l’animal, sitôt né le langage
qui leur
permettait de communiquer entre eux, ont commencé, dans les cavernes,
autour
d’un feu de bois, les nuits pleines de menaces – éclairs, tonnerres,
grognements de fauves –, à inventer des histoires et à se les raconter.
Ce fut
là le moment crucial de notre destin, car c’est dans ces cercles
d’êtres
primitifs suspendus à la voix et à l’imagination du conteur qu’a débuté
la
civilisation, ce long cheminement qui, peu à peu, allait nous humaniser
et nous
permettre d’inventer l’individu souverain, en le détachant de la tribu
et, avec
lui, la science, les arts, le droit et la liberté, à scruter les
entrailles de
la nature, du corps humain, de l’espace et à voyager dans les étoiles.
Ces
contes, fables, mythes, légendes, qui résonnèrent pour la première fois
comme
une musique nouvelle devant des auditoires intimidés par les mystères
et les
dangers d’un monde où tout était inconnu et dangereux, durent
représenter un
bain rafraîchissant, un havre pour ces esprits toujours sur le
qui-vive, pour
qui exister voulait dire à peine manger, s’abriter des éléments, tuer
et
forniquer. Dès qu’ils commencèrent à rêver en collectivité, à partager
leurs
chimères, incités par les conteurs, ils cessèrent d’être ligotés à la
noria de
la survie, à ce tourbillon d’activités abrutissantes, et leur vie
devint songe,
jouissance, fantaisie, et un dessein révolutionnaire – celui de
rompre ce
confinement, changer et améliorer –, un combat pour apaiser ces
aspirations et
ces ambitions suscitées chez eux par les vies figurées, et la curiosité
d’élucider les inconnues qui constellaient leur environnement.
Ce processus
jamais interrompu s’est enrichi ensuite avec la naissance de
l’écriture, et les
histoires non seulement s’écoutaient, mais pouvaient aussi se lire,
accédant à
la permanence que leur confère la littérature. Aussi faut-il le répéter
sans
cesse jusqu’à en convaincre les nouvelles générations : la fiction
est
plus qu’un divertissement, plus qu’un exercice intellectuel qui aiguise
la sensibilité
et éveille l’esprit critique. C’est une nécessité indispensable pour
que la
civilisation continue d’exister, en se renouvelant et en conservant en
nous le
meilleur de l’humain. Pour que nous ne revenions pas à la barbarie de
la
non-communication et que la vie ne se réduise pas au pragmatisme des
spécialistes qui voient les choses en profondeur mais ignorent ce qui
les
entoure, précède et prolonge. Pour qu’après avoir inventé les machines
qui nous
servent nous ne devenions pas leurs esclaves et serviteurs. Et parce
qu’un
monde sans littérature serait un monde sans désirs, sans idéal, sans
insolence,
un monde d’automates privés de ce qui fait que l’être humain le soit
vraiment : la capacité de sortir de soi-même pour devenir un autre
et des
autres, modelés dans l’argile de nos rêves.
De la
caverne au gratte-ciel, de la massue aux armes de destruction massive,
de la
vie tautologique de la tribu à l’ère de la globalisation, les fictions
de la
littérature ont multiplié les expériences humaines, en empêchant que,
hommes et
femmes, nous ne succombions à la léthargie, au repli sur soi, à la
résignation.
Rien n’a semé autant l’inquiétude, secoué autant l’imagination et les
désirs
que cette vie de mensonges que nous ajoutons à celle que nous avons
grâce à la
littérature afin de connaître la grande aventure et la grande passion
que la
vie véritable ne nous donnera jamais. Les mensonges de la littérature
deviennent des vérités à travers nous, ses lecteurs, transformés,
contaminés
d’aspirations et cela par la faute de la fiction, remettant toujours en
question la médiocre réalité. Par ce sortilège, qui nous berce de
l’illusion
d’avoir ce que nous n’avons pas, d’être ce que nous ne sommes pas et
d’accéder
à cette existence impossible où, comme des dieux païens, nous nous
sentons
terrestres et éternels à la fois, la littérature introduit dans nos
esprits la
non-conformité et la rébellion, qui sont derrière toutes les prouesses
ayant
contribué à diminuer la violence dans les rapports humains. À diminuer
la
violence, non à en finir avec elle. Parce que la nôtre sera toujours,
heureusement, une histoire inachevée. C’est pourquoi nous devons
continuer à
rêver, à lire et à écrire, ce qui est la façon la plus efficace que
nous ayons
trouvée de soulager notre condition périssable, de triompher de l’usure
du
temps et de rendre possible l’impossible.
Stockholm, 7
décembre 2010
Traduction
par Albert Bensoussan