|
Cynthia Ozick
Cái tít, chưa biết dịch sao cho gọn, nhìn
vô khu rừng gương, đại khái thế.
Manguel là 1 trong những tác giả đầu tiên Gấu được đọc, khi vừa
mới ra được hải ngoại, và người giới thiệu, là Nguyễn Tiến Văn, khi anh
còn ở Toronto.
Manguel là dân Canada, như GCC, hay như NTV, nhưng NTV bây giờ
về luôn trong nước. Cuốn đầu tiên Gấu đọc, là cuốn bảnh nhất của ông Lịch
sử Đọc. Nhờ cuốn này, Gấu biết rõ hơn về Kafka.
Manguel gốc Do Thái. Trong cuốn trên, có 1 bài về gốc gác Do Thái
của ông.
Những ám ảnh “có tính Kafka” của ông, lạ sao, Kafkaeque, có nhiều,
rất giống Gấu, thí dụ ẩn dụ Babel, “xây được nhưng chớ có trèo lên”. Tuy
nhiên, cách hiểu chúng, chẳng hề giống Gấu, nghĩa là, không bị THNM
như Gấu. Trong cuốn trên, Manguel rành 1 bài viết cho Cynthia Ozick,
“The Irresolutions of Cynthia Ozick”. Bà định nghĩa chính bà: Nửa của
tôi là công dân của thế giới, half of me is a citizen who lives in the
world, và nửa còn lại, là nhà văn, and half of me is a writer. Sau đó,
bà nói thêm, “I am a pagan. The writer in me flies from God and goes to the
gods”. Tôi là 1 tên vô thần. Cái tên nhà văn ở trong tôi từ Chúa bay ra,
và trở lại với những vị thần.
Cynthia Ozick, trả lời phỏng vấn, "Cuốn sách thay đổi đời tôi",
cho biết, đó là cuốn “Washington Square”, của Henry James. Bà viết:
Một bữa, khi tôi 17 tuổi, ông anh mang về nhà một tuyển tập những
câu chuyện bí mật, mystery stories, trong, lạ lùng sao, có truyện The
Beast in the Jungle của Henry James. Đọc nó, tôi có cảm tưởng đây là câu
chuyện của chính đời tôi. Một người đàn ông lớn tuổi, đột nhiên khám phá
ra, ông bỏ phí đời mình hàng bao năm trời.
Đó là lần đầu tiên Henry James làm quen với tôi. “Washington Square”
tới với tôi muộn hơn. Câu chuyện của cô Catherine được kể một cách trực
tiếp, cảm động, và gây sốc. Đề tài xuyên suốt tác phẩm này là: Sự giả
đò. Giả đò làm một người nào đó, mà sự thực mình không phải như vậy. Ở
trong đó có một ông bố tàn nhẫn, ích kỷ, giả đò làm một người cha thương
yêu, lo lắng cho con hết mực. Có, một anh chàng đào mỏ giả đò làm người
yêu chân thành sống chết với tình, một bà cô vô trách nhiệm, ngu xuẩn,
ba hoa, nông nổi giả đò làm một kẻ tâm sự ruột, đáng tin cậy của cô cháu.
Và sau cùng, cô Catherine, nạn nhân của tất cả, nhập vai mình: thảm kịch
bị bỏ rơi, biến cô trở thành một người đàn bà khác hẳn.
Ozik cho rằng, ý tưởng giả đò đóng vai của mình, là trung tâm của
cả hai vấn đề, làm sao những nhà văn suy nghĩ và tưởng tượng, và họ viết
về cái gì. Không phải tất cả những nhà văn đều bị vấn đề giả đò này
quyến rũ, nhưng, tất cả những nhà văn, khi tưởng tượng, phịa ra những nhân
vật của mình, là khởi từ vấn đề giả đò, nhập vai.
Into the Looking-Glass Wood
Tuy nhiên, nguy hiểm khủng
khiếp của vấn đề giả đò này là:
Những nhà văn giả đò ở trong đời thực, sẽ không thể nào là những
nhà văn thành thực của giả tưởng. Cái giả sẽ bò vô tác phẩm.
[Writers who are impersonators in life cannot be honest writers
in fiction. The falsehood will leach into the work].
Đây là
đòn Kim Dung gọi là Gậy ông làm lưng ông!
Nhà văn giả đò, nhà văn dởm, nhà văn đóng vai nhà văn... Thứ
này đầy rẫy trong văn chương Mít.
Gấu đọc Washington Square khi còn Sài Gòn,
và bị nó đánh cho một cú khủng khiếp, ấy là vì cứ tưởng tượng, sẽ có một
ngày, bắt cóc em BHD ra khỏi cái gia đình có một ông bố tàn nhẫn, ích
kỷ, đảo ngược cái cảnh tượng thê lương ở trong cuốn tiểu thuyết:
Khi ông bố không bằng lòng cho cô con gái kết hôn cùng anh chàng
đào mỏ, cô gái quyết định bỏ nhà ra đi, và đêm hôm đó, đợi người yêu
đến đón, đợi hoài, đợi hoài, tới tận sáng bạch...
Và Gấu
nhớ tới lời ông anh nhà thơ phán, mi yêu thương nó thì xách cổ nó ra khỏi
cái gia đình đó, như vậy là may mắn cho cả nó và cho cả mi!
Ôi chao giá mà Gấu làm được chuyện tuyệt vời đó nhỉ.
Thì đâu thèm làm Gấu nhà văn làm gì!
Thất bại làm người tình đích thực của BHD, đành giả đò đóng
vai Gấu nhà văn.
Thảm thật!
*
Kỳ tới Gấu sẽ cho trình làng, hai ông giả đò, một của thế giới,
và một, của Mít.
Ông Mít này, đẻ ra một cái, là đã giả đò đóng vai [nhà văn dởm]
của mình rồi!
Note: Nhớ, Washington Square, đọc mê quá, Gấu bèn
tới gặp Nguyễn Đông Ngạc, đề nghị. Anh bèn "avant" - avance, mới đúng,
avancer - đưa trước, tạm ứng, đặt cọc - vẫn nhớ 5 ngàn, 1 món tiền cũng
khơ khớ, Gấu có cái tít của cuốn sách, thuổng Kiều, Trời Xanh Quen Thói...
Note: Tin Văn sẽ giới thiệu bài viết của Manguel, về Ozick. Bà
này cũng khốn khổ khốn nạn, với Lò Thiêu, và những "râu ria" của nó,
qua những nhân vật, như Anne Frank, Kafka...
Thông Điệp Của Anne Frank
Trong
chương 9, và cũng là chương chót Những Di chúc bị Phản bội, Kundera
bàn về một sự thô bạo trong thế giới văn chương: vấn đề cắt xén, vặn
vẹo tác phẩm, ngay từ khi tác giả còn sống, và lẽ dĩ nhiên, càng trở
nên thô bạo hơn, khi họ đã chết rồi.
Ông kể chuyện, vào cuối đời, Stravinsky quyết định tự trình
diễn, như một tay dương cầm, hay một nhạc trưởng, toàn bộ âm nhạc
của ông. Và bị chế diễu thậm tệ: khi Stravinsky trình diễn qua vai nhạc
trưởng, ông ta khiếp đảm đến độ, mắt dán vào nốt nhạc, tuy đã thuộc lòng.
Và tính giờ. Mọi nguồn vui rời bỏ ông!
Kundera tự hỏi tại sao, và ông tìm được câu trả lời, khi
nghiên cứu 146 bức thư, của Stravinsky gửi cho Ernest Ansermet (người
chế diễu), khởi sự năm 1914: My dear Ansernet, My dear fellow, My dear
friend, Very dear, My dear Ernest, rồi bất thình lình: "Paris Oct 14,
1937, Rất vội, bạn thân của tôi. Tuyệt đối không có bất cứ một lý do
gì cắt xén Chơi Bài (Jeu de cartes) khi trình diễn... Cá nhân bạn cảm
thấy một vài động tác hơi ngán ngẩm (boring). Về chuyện đó, tôi chịu
thua. Nhưng tôi thật sự ngỡ ngàng khi bạn cố thuyết phục tôi về vụ "cắt
xén"; tôi, người đã trình diễn nó tại Venice, và cũng đã cho bạn biết về
sự hứng khởi của khán thính giả... Tôi thực sự không tin khán thính giả
của bạn kém thông minh, so với ở Venice. Nghĩ rằng bạn có thiện ý, khi muốn
co dãn để công chúng dễ hiểu hơn: Bạn, người đã từng can đảm chơi một danh
tác đầy rủi ro như Giao hưởng Đàn Gió (Symphonies of Wind Instruments);
khi khăng khăng cho rằng nó phải thành công, và công chúng thừa sức để thông
cảm! Bởi vậy tôi không để cho bạn cắn xén "Jeu de cartes". Tôi nghĩ, tốt
nhất đừng chơi nó gì hết, còn hơn là với sự dè dặt! Tôi không còn gì để
thêm. Chấm hết!
Ngày 15, tháng Mười, bạn trả lời: "Tôi chỉ xin bạn tha
lỗi cho tôi, về một cắt xén nho nhỏ..." "I am sorry, nhưng không cho
phép bạn về bất cứ một cắt xén nào trong Jeu de cartes... Bạn ơi, đây
đâu phải nhà của bạn."
Samuel Beckett có lẽ vô địch, trong nỗ lực bảo vệ nghệ phẩm:
ông theo dõi từng chi tiết, ngay cả khi tập dượt, và nhiều lần nhẩy
lên sàn tập, để tự tay điều khiển diễn viên. Rồi in cả một cuốn sách,
những ghi chú trình diễn Tàn Cưộc (Endgame). Bạn ông, và là nhà xuất
bản đứng coi thiên hạ trình diễn, nếu cần đưa ra tòa, để bảo vệ tác phẩm,
sau khi ông đã chết.
Kafka gửi bản thảo Hoá Thân tới một tờ báo. Ông chủ, nhà
văn Robert Musil, bằng lòng in, với điều kiện tác giả rút ngắn lại.
(Buồn thật, hai thiên tài văn chương bàn chuyện in ấn, xuất bản tác
phẩm văn học!). Trả lời của Kafka, cũng nguyên tắc, và cũng lạnh lùng
như Stravinsky: Tôi chịu được chuyện bỏ vô thùng rác, nhưng không
thể chịu nổi việc in, mà cắt xén, xẻ thịt nó! Ông không được may mắn
như Stravinsky, hay Beckett. Và điều này một phần lớn, là do Max Brod,
người theo truyền thuyết, vì nhân loại, đã phản bội di chúc của Kafka.
Theo Kundera, Max Brod tuy yêu bạn, cố gắng hiểu bạn, đưa bạn ra ánh sáng,
tạo nên cả một môn học "Kafkology", nhưng chính ông là người xa lạ nhất
với nghệ thuật của Kafka.
Thật dễ dàng khi không vâng lời một người đã chết. Càng
dễ dàng hơn, khi người chết là một nạn nhân của Lò Thiêu Người, một cô
bé, lại là con gái của một ông bố: trường hợp Anne Frank.
Nếu Anne Frank không mất tại trại tập trung vào năm 1945,
cô ăn mừng lễ sinh nhật 68 tuổi vào tháng Sáu vừa qua (1997). Và
nếu cô không giữ tập nhật ký khác thường, qua đó, chúng ta có thể coi
cô là một trong những nhà văn nổi tiếng của thế kỷ - cho dù vậy, số
phận của cô cũng không quá sức bi đát, như là bây giờ, sau những khám
phá mới nhất về cô.
Cô sinh ra để là một nhà văn. Vào năm 13 tuổi, cô đã cảm
thấy quyền năng này; tới 15, cô điều khiển được nó. Nếu cô được phép sống,
thật dễ dàng khi tưởng tượng, biết bao nhiêu tiểu thuyết, khảo luận,
từ cái nguồn giầu sang, từ ngòi bút lưu loát, chín mùi chữ nghĩa đó.
Người ta cũng thấy được những tác phẩm chẳng bao giờ có được đó, sẽ gần
gụi với Nadine Gordimer, Nobel văn chương, hơn là Francois Sagan. Cô bé
la lên, vào mùa xuân năm 1944: "Ta muốn tiếp tục sống, ngay cả sau
cái chết của ta!" (I want to go on living even after my death!)
Ở đây không phải là tình trạng hưng phấn thái quá của tuổi
trẻ. Bằng trực giác cô đã nhận ra, sự lớn lao của nghệ thuật nghĩa là
gì. Và cũng đã nhận ra sức mạnh văn chương nằm bên dưới bàn tay
của cô, trong những trang nhật ký: một ghi nhận văn học về những cuộc
sống hãi hùng trong hiểm họa thường nhật; một tài liệu nóng bỏng nhắm
thẳng tới tương lai. Vào những tháng cuối cùng, cô miệt mài rũa gọt,
thêm thắt, cắt xén một số đoạn, với hy vọng in nó sau chiến tranh.
Cô gọi bản thảo của cô là Het Achterhuis, tiếng Đức, "căn nhà phía sau",
nhưng thường được dịch là "căn nhà phụ bí mật", và không đúng như ý
của cô, qua tác phẩm. Nó liên can đến lịch sử, tới thực tại, tới sự thực
chết người. "Khi tôi viết", cô tâm sự, "tôi có thể rũ sạch mọi lo toan.
Sự phiền muộn biến mất, tinh anh tôi sống lại!" Nhưng cô không thể rũ
bỏ sự tù tội, sự huỷ diệt, của mình.
Anne Frank bị bắt và đưa vào trại tập trung cùng với chị
và mẹ như hàng triệu con người. Tất cả bị huỷ diệt, qua một chương trình
đã được tính toán để bảo đảm sự thoái hóa độc ác nhất, mới mẻ nhất, quỷ
ma nhất của con người. Cô thuộc trong số được chỉ định để bị huỷ diệt,
xóa sạch khỏi cuộc đời, không để lại mộ chí, không một ký hiệu, không
một dấu vết, bất kể loại gì. Lỗi của cô - tội ác của cô, là người Do thái,
và như vậy cô bị xếp vào trong những kẻ không có quyền được hiện hữu,
không còn là một vấn đề người, không được như một giống dân hạ cấp, ngay
cả làm nô lệ cũng không luôn. Thoát bị đưa vô phòng hơi ngạt, cô chết
vì bệnh ban đỏ (bệnh chấy rận), một tháng trước khi giải phóng.
Nhật ký, cho dù thế nào cũng không thể coi là câu chuyện
của Anne Frank. Không nên gọi, một câu chuyện là một câu chuyện, nếu
phần cuối bị mất. Và bởi vì phần cuối bị mất cho nên câu chuyện của
Anne Frank trong vòng 50 năm, kể từ khi "Nhật Ký của một Cô Gái Trẻ"
lần đầu tiên được in ra, đã bị vặn vẹo, cắt xén, chuyển hoá, dịch thuật,
gia giảm, giả mạo, trẻ con hóa, ngây thơ hóa, Mỹ hoá, đồng nhất hóa,
cảm tính hoá... và sự thực, đã bị chối bỏ, một cách thật thô lỗ. Trong
số những người làm giả gồm có những nhà bi kịch, những ông giám đốc,
những nhà dịch thuật, ông bố của Anne Frank, và ngay cả, công chúng, kể
luôn cả những độc giả, những khán giả phim ảnh, kịch nghệ, trên toàn
cõi địa cầu. Một tác- phẩm-kể-sự-thực thật sâu xa đã biến thành một
dụng cụ để nói lên một phần sự thực, một phản sự thực. Gần như mọi bàn
tay đụng vào tập nhật ký, với một thiện ý in nó ra, đều đã góp phần làm
chuyện bậy, đảo ngược lịch sử.
Nhật ký được coi như một tài liệu về Lò Thiêu. Điều quan
trọng cần nói, là nó không phải như vậy. Gần như bản in nào cũng choàng
cho nó những vòng hoa, đại khái "ca khúc của đời sống", "sự vui thích
buốt nhói ở nơi tinh thần vô tận của con người". Có một sự chế diễu,
trò hề ở đây. Một ca khúc cho đời? Nhật ký chưa hoàn tất, hoặc đã được hoàn
tất bởi những nơi chốn khủng khiếp: Westerbork, địa ngục chuyển tiếp ở Hòa
Lan, nơi những người Do thái Hòa-lan bị tống xuất từ đó; Auschwitz; hay
bởi những ngọn gió tàn khốc của Bergen-Belsen. Chính tại đây, không phải
tại "căn nhà phụ bí mật", những tội ác mà chúng ta gọi là Holocaust đã
xẩy ra. Ghi nhận của chúng ta là những cột con số, những danh sách tỉ mỉ
những chuyến tống xuất trong những dòng chữ viết tay của những thủ thư đẹp
trai; những cuốn sách chuyển hàng. Có thể Anne Frank đã được chuyển
tới Auschwitz vào đêm Sept 6, 1944, trong chuyến hàng một ngàn mười chín
"sucke" (mẩu). Trong đêm đó 549 người được đưa vào phòng hơi, có một
người trong nhóm Frank, và tất cả trẻ em dưới 15. Anne lúc đó, 15, thoát,
có lẽ để lao động. Từ 20 đến 28 tháng Mười, bị đưa vào phòng hơi ngạt
hơn 6 ngàn người, chỉ trong vòng hai giờ, khi họ mới tới. Nhưng lực lượng
Xô-viết đang hướng về Auschwitz, và vào tháng 11, đã có lệnh giấu diếm mọi
chứng cớ về phòng ngạt, và phá huỷ lò thiêu. Cả chục ngàn tù nhân bị tống
ra ngoài trời, trong chuyến đi tử thần. Nhiều người bị bắn. Trong một chuyến
di tản vào 28 tháng Mười, hoặc 2 tháng 11, Anne được chuyển đi Bergen-Belsen,
chết một hay hai ngày sau đó, vỡ tim, trơ xương, trần trụi dưới một đống
rẻ rách.
Đến với nhật ký mà bỏ qua những Đêm, của Elie Wiesel, hay
Những Kẻ Chết Đuối và Những Người Được Cứu Vớt, của Primo Levi (chỉ
nhắc tới hai chứng nhân), hay những cột con số, những chuyến hàng, những
thuật ngữ như "mẩu"... thì đúng là tự cho phép mình được quyền ngây thơ
một cách xấu xa, không thể tin được! Những ngợi ca theo kiểu "bản chúc
thư hoài hoài về tính cao cả không thể bị huỷ diệt của tinh thần nhân
loại", "một nguồn không bao giờ cạn của can đảm và hứng khởi"... sự thực
chỉ là những trò ru ngủ. Sự thành công, chiến thắng, của Bergen-Belsen,
chính là nó đã thổi sạch, cái gọi là khả tính can đảm, nó cho thấy sự
huỷ diệt dễ dàng của tinh thần nhân loại, và đây là bản di chúc lâu dài
của nó.
"Hier ist kein Warum", một lính gác ở Auschwitz đã cảnh
cáo: ở đây không có "tại sao", không câu hỏi, không câu trả lời, chỉ
là một mầu u tối của không-lý lẽ (unreason). Câu chuyện của Anne Frank,
được kể lại, rất thực, là không cứu chuộc, không thể cứu chuộc. Và
đó là thông điệp của Anne Frank.
NQT
Rất ư là tình cờ, tờ Guardian, số cuối tuần, 20 &
26 May, 2016, phán, đúng như GCC: Á Châu chưa xong đâu, với quá khứ
của nó, khác hẳn Âu Châu.
Xứ Mít chết, khi Hồ bỏ.... Lò Thiêu,
chọn Cái Ác Ác Châu, Cái Ác Tẫu, Cái Ác Bắc Kít, mà, cho đến lúc này,
chưa có thuốc chủng!
Vấn nạn "giả đò" này, Borges cũng nhắc tới, khi định nghĩa,
nhà văn, "kẻ mơ ngày", a day-dreamer.. Trên Tin Văn đã lèm bèm hoài về
nó.
Milosz, khi vinh danh Brodsky, nhắc tới hai khúc thơ của Anna Akhmatova,
qua đó, vị nữ thần thi ca Nga, ở mấp mé bờ điên loạn, nhưng vẫn muốn
"né quá bên, để mô tả nó", và ông cho rằng nhà văn là những kẻ không
giống người thường, khi nó cực kỳ đau khổ, đến trở thành điên loạn, vẫn
"né qua 1 bên", để "mô tả"":
The most profound thing he said about Akhmatova, and perhaps the most
profound words ever spoken about the so-called creative process in general,
is the assertion that she suffered greatly while writing her Requiem.
Her pain at the imprisonment of her son was genuine, but in writing about
it she sensed falsehood precisely because she had to shape her emotions
into form. And form makes use of an emotional situation for its own purposes,
parasitizing it, as it were.
Milosz: Notes about Brodsky
Note: Cô Tư cũng viết về đề tài, và gọi nó, là, Vai diễn cuộc đời
http://www.tanvien.net/Notes/tap_ghi_nnt.html
Note: Bài này,
tuyệt, làm Gấu nhớ tới ý của Akhmatova, nói về lũ viết văn khốn kiếp, trong
khi người ta đau khổ, có cả lũ chúng nó ở trong nỗi đau khổ đó, làm sao không
?, nhưng bằng mọi cách, chúng cũng vẫn cố né qua một bên, để mà nhìn, như
những kẻ ngoại cuộc!
Để mà đóng vai “vai diễn cuộc đời”! (1)
(1)
Brodsky: Với tôi, tính kinh điển, thực tại thực, the main thing,
của Kinh Cầu [thơ Akhmatova], là đề tài về sự xẻ đôi, về sự bất lực của
nhà thơ không có được một phản ứng toàn vẹn [trước thực tại]. Akhmatova
mô tả những kinh hồn thất đảm, những ghê rợn của Đại Khủng Bố của Stalin.
Nhưng cùng một lúc, bà nói hoài hoài về cái tâm trạng mấp mé biến thành
khùng của mình....
Brodsky. No, the text of Requiem is anything but straightforward.
Volkov. Sure, there are two levels here: real biography—Akhmatova
and the fate of her arrested son; and the symbolic—Mary and her son Jesus.
Brodsky. For me the main thing in Requiem is the theme of splitting,
the theme of the authors inability to have an adequate reaction. Akhmatova
describes in Requiem all the horrors of Stalin's "great terror," but at
the same time she is constantly talking about how close she is to madness.
Do you remember?
Already madness dips its wing
And casts a shade
across my heart,
And pours for me a fiery wine
Luring me to the
valley dark.
I realize
that to this madness
The victory I
must yield,
Listening closely
to my own
Delirium, however
strange.
Khổ thơ sau có lẽ là tuyệt vời nhất của tất cả Kinh Cầu. Hai dòng
chót nói sự thực lớn lao nhất. Akhamatova diễn tả tâm trạng của thi sĩ,
khi nhìn mọi chuyện xẩy ra cho bà, như thể, bà đứng qua một bên, Với nhà
thơ, sự kiện, sống, cũng quan trọng
như, sự kiện, diễn tả nó: Nhà thơ bắt đầu trù ẻo mình: Anh là thằng điên
khùng. Mi là một thứ quái vật chi, tại sao mi thản nhiên nhìn những sự
ghê rợn như thế diễn ra trước mặt, như thể nó chẳng liên quan mắc mớ gì
tới mi?
Volkov: Chuyện
trò với Brodsky
Tưởng niệm TTT
NOTES ABOUT BRODSKY
BRODSKY'S PRESENCE acted as a buttress and a point of reference for
many of his fellow poets. Here was a man whose work and life always reminded
us that despite what is so often said and written today, a hierarchy does
exist. This hierarchy is not deducible through syllogisms, nor can it be
decided upon by discussion. Rather, we confirm it anew every day by living
and writing. It has something in common with the elementary division into
beauty and ugliness, truth and falsehood, kindness and cruelty, freedom
and tyranny. Above all, hierarchy signifies respect for that which is elevated,
and disdain, rather than contempt, for that which is inferior.
The label "sublime" can be applied to Brodsky's poetry. In his
fate as a representative of man there was that loftiness of thought which
Pushkin saw in Mickiewicz: "He looked upon life from on high."
In one of his essays Brodsky calls Mandelstam a poet of culture.
Brodsky was himself a poet of culture, and most likely that is why he created
in harmony with the deepest current of his century, in which man, threatened
with extinction, discovered his past as a never-ending labyrinth. Penetrating
into the bowels of the labyrinth, we discover that whatever has survived
from the past is the result of the principle of differentiation based on
hierarchy. Mandelstam in the Gulag, insane and looking for food in a garbage
pile, is the reality of tyranny and degradation condemned to extinction.
Mandelstam reciting his poetry to a couple of his fellow prisoners is a
lofty moment, which endures.
With his poems, Brodsky built a bridge across decades of hackneyed
Russian language to the poetry of his predecessors, to Mandelstam, Akhmatova,
Tsvetaeva. He was not a political poet, for he did not want to enter into
polemics with an opponent that was hardly worthy of him. Instead, he practiced
poetry as a particular type of activity which was not subject to any apparent
dimensions of time.
To aim directly at a goal, refusing to be deflected by voices demanding
one's attention. This means one is capable of distinguishing what is important,
and hewing only to this goal. That is precisely what the great Russian
writers were able to do, and they deserve to be envied for that.
Brodsky's life and creative work aim straight at fulfillment
like an arrow at its target. Of course, this is a delusion, just as with
Pushkin or Dostoevsky. So one must conceive of it differently. Fate aims
straight for its target, while he who is ruled by fate is able to decipher
its main lines and understand, even if only vaguely, what he has been called
to.
A collection of interviews with Brodsky, Reszty nie trzeba
[Keep the Change], in Jerzy lllg's translation, is a constant
source of wonderment for me.* Just to think how much he had to leave out
- what for others was the very essence of the twentieth century: Marxism-Leninism,
Sovietism, nationalism, Nietzscheanism, Freudianism, Surrealism, as well
as a dozen or two other isms.
He could have become a dissident, engage, like his friend Tomas
Venclova. He could have thought about reforming the state. He could have
written avant-garde poems. He could have been a Freudian. He could have
paid homage to structuralism. Nothing of the sort.
Life as a moral fable. The poet imprisoned and condemned by
the state, then sent into exile by the state, and after his death, the
head of that state kneeling beside his coffin. A fairy tale, yet it did
happen like that, in our hardly fairy-tale-like century.
He spoke as one who has authority. Most likely in his youth
he was unbearable because of that self-assurance, which those around him
must have seen as arrogance. That self-assurance was a defense mechanism
in his relations with people and masked his inner irresolution when he
felt that he had to act that way, and only that way, even though he did
not know why. Were it not for that arrogance, he would not have quit school.
Afterward, he often regretted this, as he himself admitted. During his
trial, someone who was less self-assured than he was could probably not
have behaved as he did. He himself did not know how he would behave, nor
did the authorities foresee it; rather, they did not anticipate that, without
meaning to, they were making him famous.
When he was fourteen years old, he passed the entrance exam
to the naval academy and was rejected only because of what was recorded
in his identity papers under the heading "nationality." I try to imagine
him as a cadet. An officer? Lermontov?
Both he and his Petersburg friends behaved in the way Alekksander
Wat had wished for Russian literature: that it would "break with the enemy."
They did not want to be either Soviets or anti-Soviets; they wanted to be
a-Soviet. Certainly, Brodsky was not a political poet. Nonetheless, he wrote
a number of occasional poems (on the funeral of Marshal Zhukov, the war in
Afghanistan, the Berlin Wall, martial law in Poland), and in a speech at
the University of Silesia he thanked Poland for her contribution to overturning
a great evil, Communism. In response to the news that the Institute and
Academy of Art and Literature in New York had voted in Evgeny Evtushenko
as a foreign member, he made his protest known by resigning from the institute.
Submitting to the element of language, or (because this was the
same thing for him) to the voice of the Muse, he asserted that a poet must
want to please not his contemporaries but his predecessors. The predecessors
whose names he mentioned were Lomonosov, Kantemir, Derzhavin, Tsvetaeva,
Mandelstam, Pasternak, Akhmatova. His kingdom of Russian poetry endured
above and outside of history, in accordance with his conviction that language
has its own greatness and selects its own people to serve it.
He was capable of idolizing others. He used to say that he would
be satisfied if he were called Auden's epigone. He did not rule out those
who wrote in "free verse" but he paid particular homage to metrical poets:
Thomas Hardy, Robert Frost, Rainer Maria Rilke. He understood poetry to
be a dialogue across the ages, and so he conversed with Horace and Ovid
(in Russian translations). As he said, he liked Ovid more, because of his
images, even though he was less interesting rhythmically, adhering to the
traditional hexameter. Horace, on the other hand, with the immense metrical
variety of his stanzas, invited Brodsky to compete with him.
It would be a mistake to imagine Brodsky as a bohemian poet, although
if we define bohemia as a milieu on the margins of society and the state,
he belonged to it in his youth in Leningrad. He was competent in various
trades, and they were by no means mere fictions, useful only as proof of
employment. He often "plowed like an ox." He spoke with gratitude of the
University of Michigan in Ann Arbor, because it offered employment to "the
laziest man under the sun," who did not know English. He treated his obligations
as a teacher seriously and it seems his students profited greatly. He made
them memorize thousands of lines of poetry in their own language; no other
professor would have dared to be so old-fashioned. If a student said something
exceptionally stupid in class (for example, from the repertoire of American
political naiveté), Brodsky would throw him out of the classroom.
His autodidacts’ passion allowed him to master English passively
while he was still in Russia; afterward, he quite rapidly acquired the
ability to use the language freely in speech and writing. His astonishing
deftness in the essays he composed in English and in his rhymed translations
of his own poems could only have been the result of truly titanic labor.
He considered Polish poetry the most interesting of contemporary European
poetries. In Leningrad it reached him only as fragments, but important
ones: from Norwid to Garczynski. His translations include some of my poems,
too. "When, already an exile, he translated my "Elegy for N.N.," it occurred
to me that that poem expressed his view of lyric poetry as preserved autobiography,
even if only one-tenth preserved. He understood poets' escaping into prose
as the result of pressure from the remaining nine-tenths. He read my Treatise
on Poetry in Russian, in Natalia Gorbanevskaia's splendid translation.
It was published in America in 1982 as Poeticheskii traktat by the Ann
Arbor publishing house Ardis, which specializes in Russian books.
He had a very strong feeling that he was a part of an estate which
was called "Russian language." Since in his opinion poetry is the highest
achievement of language, he was conscious of his responsibility. If one
were to draw an analogy with the Polish estate, our attachment to Krasicki,
Trembecki, Mickiewicz would be understandable. Young Poland, however, is
a blank spot (with the exception of Boleslaw Lesmian) in comparison with
what was happening in Russia at that time, and only the poets of the Skamander
group can rival the generation of the Russian Acmeists.
Is there anyone among them to whom one could become as attached
as to Mandelstam or Akhmatova? For me, that poet was Jarosfaw Iwaszkiewicz,
but the revolution in versification caused the immediate dissipation of
that canon.
He used to tell his students that they probably were not terribly familiar
with the Decalogue, but it was possible to learn, since there were only
seventeen: the Ten Commandments and the seven cardinal sins-taken together,
the foundation of our civilization. His Muse, the spirit of language, was,
he said, Christian, which explains the Old and New Testament themes in
his poetry.
Generosity was one of his traits. His friends always felt showered
with gifts. He was ready to help at any moment, to organize, to manage
things. But above all, to praise. His generosity is most apparent in his
conversation with Volkov about Akhmatova. What praise of her greatness,
her wisdom, her kindness, and the magnificence of her heart! For him, the
greatness of a poet was inseparable from the poet's greatness as a human
being. Perhaps I
am mistaken, but I am unaware of a single instance when he praised
a poet while admitting at the same time that he was just average as a
human being. It was enough, for example, that Robert Frost was great in
his poetry to justify not inquiring into his biography. This was consistent
with his conviction that aesthetics precedes ethics and is even its source.
The most profound thing he said about Akhmatova, and perhaps the most
profound words ever spoken about the so-called creative process in general,
is the assertion that she suffered greatly while writing her Requiem. Her
pain at the imprisonment of her son was genuine, but in writing about it
she sensed falsehood precisely because she had to shape her emotions into
form. And form makes use of an emotional situation for its own purposes,
parasitizing it, as it were.
He wanted to be useful. He came up with the idea of distributing throughout
America millions of copies of an anthology of American poetry by placing
it in hotels and motels alongside the Bible. He managed to found a Russian
Academy in Rome, modeled after the American Academy in that city. He was
conscious of Russian literature's ties with Italy (Gogol's Dead Souls was
written in Rome; the Eternal City is always present in his own poems and
in Mandelstam's poetry; he wrote about Venice, which he adored). He had no
intention of returning to Russia. It is appropriate, then, that his grave
will be in Venice, like Stravinsky's and Diaghilev’s.
I would like to extract some pedagogical profit from thinking about
Brodsky. Do we have an appreciation of our language such as he had for Russian?
That it is the Russians' greatest treasure, right after the icon? Do not
I myself rebel against the shushing and hissing sounds of Polish, and even
worse, those omnipresent prze and przy syllables, pronounced
"psheh" and "pshih"? And yet Polish is my fatherland, my home, and my glass
coffin. Whatever I have accomplished in it-only that will save me.
And do we, as he did, honor our predecessors? Or do we only sneer and
bite? And why is it that in the home of literature, whose strength was always
poetry, there is suddenly no niche for great poets? Mickiewicz, Slowacki,
Norwid are there-but where are the representatives of our century? Will
Gombrowicz, Schulz, Witkacy replace the pretty pleiad of the Skamander poets?
A comparative study of Brodsky's poetry and Polish poetry would have
to begin with the various laws governing the two languages. What about
a comparison of Lesmian's Russian poetry, of his Pesni premudroi Vasilissy
[Songs of Vasilissa the Wise Woman], with his Polish poetry? But their
past is different, their themes are, too, as is the cultural background
after 1918.
How far can a poem depart from its original mnemonic function? For
Brodsky, phonetics and semantics were inseparable. This is an obvious
matter for a Russian, for whom a poem, if it does not insinuate itself
into one's memory, is not a poem at all. Despite the Polish language's
different laws, one could still memorize the poems of Skamander, and this
is true also of Galczynski's verse.
A departure from metrical norms and from rhymes seems to coincide in
time with a vast revolution in the life of societies in the twentieth
century, which has something in common with an explosion of quantity.
If, as happens to an exaggerated degree in Poland, one were to take France
as a model of artistic currents, Paul Valery, the last poet writing metrical
verse, stands on the border beyond which the decline of the meaning of
poetry begins, until it disappears entirely from the literary marketplace.
Perhaps something similar, in different circumstances, is taking place in
other countries. The scattering of the phrase into words and fragments of
sentences testifies to the fact that poetry's centuries-old coexistence
with the verse of Horace, Virgil, and Ovid has come to an end. It was they
who defined meters for poets of various languages. Someone might like to
ponder the strange parallels between changes in school and in literature:
the revolution in versification coincides in time with high school curricula
which no longer include Latin.
Brodsky loved the English language, perhaps because in the face of
the revolution in versification English seems to have preserved a greater
muscularity, so to speak. For various reasons, which it would be possible
to enumerate, the end of the rhymed verse of the Victorian era was the
occasion for a new modulation of the phrase, and because rhyme in English
did not have the same significance that it had in Italian, for example (Shakespearean
iambic pentameter was "blank"), its disappearance was not a glaring departure
from the practice of earlier poets. Nevertheless, one is taken aback not
only by Brodsky's evaluation of Frost as probably the greatest American poet
of the twentieth century but also by his praise of Edward Arlington Robinson
(1869-1935), who is known as a name from a bygone era. Walt Whitman's utter
lack of influence, in Brodsky's poems and his essays, is also curious.
As is well known, the only elegy on the death of T. S. Eliot in 1965
was written in Russian, by Brodsky. Eliot was already in literary purgatory
at the time, which is the usual reaction to a period of peak fame. But
in Russia he had only just been discovered. Later, as Brodsky admits, he
was disenchanted with Four Quartets. In general, he considered the whole
current of modernism (in the Anglo-Saxon meaning of that term) as unhealthy
for the art of poetry.
He spoke of the politics of his century, employing concepts dating
from antiquity: imperium, tyrant, slave. In relation to art, however, he
was by no means a democrat. In the first place, he believed that poetry
in every society known to history is of interest to little more than one
percent of the population. Second, one cannot speak of equality among poets,
with the exception of the few who are the very best, to whom it is inappropriate
to apply the labels" greater" or "lesser." As egalitarian as could be in
his instincts, an opponent of any division into the intelligentsia and the
people, in relation to art he was as aristocratic as Nabokov and Gombrowicz.
Thinking about him constantly since his death, I try to name the lesson
he bequeathed to us. How did a man who did not complete his high school
education, who never studied at a university, become an authority recognized
by the luminaries of humanistic knowledge? He was intelligent, and not everyone
is granted that gift. But there was also something else that was decisive.
The Leningrad milieu of his generation, those a-Soviet young poets and
translators, devoured books. Their obsessive drive to read everything they
could find in libraries and used bookstores is stunning; they also learned
Polish, as Brodsky did, in order to read Western literature that was available
to them only in that language. The lesson supplied by his life history is
an optimistic one, because it points to the triumph of consciousness over
being. But it also cautions us to consider whether among the young generation
of Polish writers there exist groups with a similar drive for self-education.
"I permitted myself everything except complaints." This saying of Brodsky's
ought to be pondered by every young person who despairs and is thinking
about suicide. He accepted imprisonment philosophically, without anger;
he considered shoveling manure on a Soviet state farm a positive experience;
expelled from Russia, he decided to act as if nothing had changed; he equated
the Nobel Prize with the capricious turns of fate he had experienced previously.
The wise men of antiquity recommended such behavior, but there are not
many people who can behave like that in practice.
Czeslaw Milosz: To Begin Where I Am
* Reszty nie trzeba: Rozmowy z Josifem Brodskim, selected
and edited by Jerzy lllg (Kaatowice: Ksiaznica, 1993).
Cynthia Ozick
Fanatics
Những kẻ cuồng tín
MILENA JESENSKA, KAFKA'S TRANSLATOR AND
lover, has left us a useful and persuasive definition of fanaticism:
"that absolute, unalterable necessity for perfection, purity,
and truth." It was Kafka she meant. Then let us now praise fanaticism,
how it binds the like and the unlike, how it aspires to purity,
how it engenders art at its most sublime, seeking the visionary
and the inescapable; and how it reveres the ascendancy of its desires.
Kafka, a fanatic of language, was
not alone. America had its own language fanatics, of which
he was unaware. In the novel we know as Amerika (The Man Who
Disappeared, also called The Stoker),
anomalous characters populating his American scenes are rife; but Kafka's
imagination, capaciously strange though it was, could not have conceived
of the American Hebraists, as prodigiously single-minded as himself,
who were thriving in the very years he was at work on
Amerika.
That Kafka contended with his native
German even as he powerfully embraced it is one of the salient
keys to his character: the key is in hand, but there is no lock
for it to fit into. German was his, ineradicably, yet insecurely.
His famously self-lacerating lament-that Jews who wrote in German
had "their hind legs stuck in parental Judaism while their forelegs
found no purchase on new ground" - suggests some small helpless underground
animal futilely attempting to escape its burrow. But when he crucially,
even triumphantly, announced, "I am made of literature and nothing
else," it could only mean that it was German idiom and essence,
German root and rootedness, that had formed and possessed him.
Why, then - early in life until
late, and with strenuous diligence - did he pursue the study
of Hebrew? The notebooks that survive (archived in the National
Library of Israel) are redolent of an ironic pathos: an earnest
schoolboy's laboriously inked vocabulary lists, Hebrew into German,
in the very hour that the world's most enduring masterworks were
spilling from this selfsame pen. When at twenty-nine Kafka was first
introduced to Felice Bauer, the young woman to whom he would be
twice engaged but would ever marry, he thought her unprepossessing,
but was nevertheless instantly drawn to her talk: she was, she told
him, studying Hebrew.
The American Hebraists, poets who
in their youth had emigrated from Eastern Europe, were Kafka's
contemporaries. They were also his peers in language fanaticism:
they too were made of language and nothing else - but the language
that formed and possessed them was Hebrew. Unlike Kafka's feverish
wrestling with the fraught and unseemly question of hind legs and
forelegs, they were consumed, body and soul, with no ambivalence
of belonging, by Hebrew. Not only were they fanatics in their claim
of intimately ingrained ownership of Hebrew, its godlike guardians
and creators, they were fanatics in their relation to their new environment.
English was all around them, awaiting their mastery; and they did become
masters of English, and still it was Hebrew that inflamed them. Nor
were they - unlike Kafka - torn by incessant doubt and self-repudiation.
Scattered in cities all over America, they sat in tranquil rooms, on
new ground, immersed in the renewing sublimity of the ancient alphabet.
And then they disappeared.
Kafka did not disappear.
No Hebraist poets inhabit his Amerika,
but we can try to imagine, had he journeyed, like his protagonist
Karl, to the real America, and encountered, say, Preil or Halkin
or Regelson, would they recognize one another as equally eaten by
that glorious but perilous worm, literary fanaticism?
Note: Cuốn trên, mua cũng lâu rồi, nay buồn buồn lôi ra
đọc.
Về Kafka, ngoài bài trên, ngắn, còn bài dài thòng, Siêu việt
hóa Kafkaesque, Transcending the Kafkaesque, quá đỗi OK.
Nhớ là, bạn NL chê bộ ba cuốn về Kafka quá cỡ thợ mộc, ngược
hẳn Ozick, khen thấu trời, và tếu thay, đúng ý NL: Với Kafa, chỉ cần đọc
Nhật Ký.
Fanatics
Những kẻ cuồng tín
MILENA JESENSKA, KAFKA'S TRANSLATOR AND lover,
has left us a useful and persuasive definition of fanaticism:
"that absolute, unalterable necessity for perfection, purity, and
truth." It was Kafka she meant. Then let us now praise fanaticism,
how it binds the like and the unlike, how it aspires to purity, how
it engenders art at its most sublime, seeking the visionary and the
inescapable; and how it reveres the ascendancy of its desires.
Kafka, a fanatic of language, was not alone.
America had its own language fanatics, of which he was unaware.
In the novel we know as Amerika (The Man Who Disappeared,
also called The Stoker), anomalous characters
populating his American scenes are rife; but Kafka's imagination,
capaciously strange though it was, could not have conceived of the
American Hebraists, as prodigiously single-minded as himself, who were
thriving in the very years he was at work on Amerika.
That Kafka contended with his native German
even as he powerfully embraced it is one of the salient keys to
his character: the key is in hand, but there is no lock for it
to fit into. German was his, ineradicably, yet insecurely. His famously
self-lacerating lament-that Jews who wrote in German had "their
hind legs stuck in parental Judaism while their forelegs found no
purchase on new ground" - suggests some small helpless underground
animal futilely attempting to escape its burrow. But when he crucially,
even triumphantly, announced, "I am made of literature and nothing
else," it could only mean that it was German idiom and essence,
German root and rootedness, that had formed and possessed him.
Why, then - early in life until late, and
with strenuous diligence - did he pursue the study of Hebrew?
The notebooks that survive (archived in the National Library of
Israel) are redolent of an ironic pathos: an earnest schoolboy's
laboriously inked vocabulary lists, Hebrew into German, in the
very hour that the world's most enduring masterworks were spilling
from this selfsame pen. When at twenty-nine Kafka was first introduced
to Felice Bauer, the young woman to whom he would be twice engaged
but would ever marry, he thought her unprepossessing, but was nevertheless
instantly drawn to her talk: she was, she told him, studying Hebrew.
The American Hebraists, poets who in their
youth had emigrated from Eastern Europe, were Kafka's contemporaries.
They were also his peers in language fanaticism: they too were made
of language and nothing else - but the language that formed and
possessed them was Hebrew. Unlike Kafka's feverish wrestling with
the fraught and unseemly question of hind legs and forelegs, they
were consumed, body and soul, with no ambivalence of belonging, by
Hebrew. Not only were they fanatics in their claim of intimately ingrained
ownership of Hebrew, its godlike guardians and creators, they were fanatics
in their relation to their new environment. English was all around them,
awaiting their mastery; and they did become masters of English, and
still it was Hebrew that inflamed them. Nor were they - unlike Kafka
- torn by incessant doubt and self-repudiation. Scattered in cities
all over America, they sat in tranquil rooms, on new ground, immersed
in the renewing sublimity of the ancient alphabet.
And then they disappeared.
Kafka did not disappear.
No Hebraist poets inhabit his Amerika,
but we can try to imagine, had he journeyed, like his protagonist
Karl, to the real America, and encountered, say, Preil or Halkin
or Regelson, would they recognize one another as equally eaten by
that glorious but perilous worm, literary fanaticism?
Ai Điếu Franz Kafka
Milena Jesenska
Dr Franz Kafka, một nhà
văn Đức, sống ở Prague, và chết ngày hôm kia, ở Viện điều dưỡng
Kierling, gần Klosterneuburg bei Wien. Ở đây ít người biết ông,
bởi vì ông là một người sống ẩn dật, một hiền nhân luôn mang nỗi
sợ cuộc đời. Trong nhiều năm, ông đau khổ với căn bệnh phổi, và tuy
loay hoay tìm cách chữa trị, ông lại như muốn nuôi căn bệnh đó, cưu mang
nó trong tư tưởng của ông. Có lần ông viết trong một lá thư: khi trái tim
và linh hồn không thể chịu đựng nó được nữa, buồng phổi sẽ chịu giùm nửa
gánh nặng, như vậy là nó được chia khá đồng đều - căn bệnh của ông là
vậy. Nó cho ông một sự dịu dàng kỳ diệu, và một sự tinh khiết trí thức
không đắn đo, câu thúc. Tuy nhiên, chỉ riêng về mặt hình hài thể chất,
Franz Kafka dồn lên hai vai của căn bệnh, toàn thể nỗi kinh hãi cuộc
đời. Ông là một người cả thẹn, luôn khắc khoải, nhẫn nại, dịu dàng, tuy
những cuốn sách ông viết ra thì thật ghê sợ, và đau đớn. Ông đã nhìn
thế giới như đầy những quỷ dữ vô hình, vò xé, và tiêu huỷ những con người
vô phương chống đỡ. Ông quá tiên tri, quá thông minh để có thể sống, và
quá yếu ớt, để chiến đấu. Ông yếu ớt như những con người cao đẹp yếu ớt,
những con người không thể chiến đấu chống lại nỗi sợ bị ngộ nhận, chống
lại trò ma muội, hay tính toán chi ly, bởi vì họ thừa nhận ngay từ đầu,
cái điều của riêng họ, đó là đừng mong chi một sự trợ giúp; sự nhẫn
nhục cam chịu này chỉ làm cho kẻ thắng thế hổ thẹn. Ông hiểu thế nhân,
một sự hiểu biết mà chỉ một ai cao cả, có một sự mẫn cảm hoài hoài mới
có thể có được. Chỉ một ai cô đơn. Chỉ một ai, trong một thoáng nhận
ra kẻ khác, hầu như một nhà tiên tri. Sự hiểu biết thế giới của ông thật
phi thường, và sâu thẳm; chính ông là một thế giới phi thường và sâu thẳm.
Ông đã viết những cuốn sách có ý nghĩa nhất của nền văn chương Đức hiện
đại, những cuốn sách cưu mang trong nó sự chiến đấu của thế hệ hôm nay
xuyên suốt thế giới - trong khi kìm giữ mọi thiên vi. Chúng thực, trần
trụi, và đau thương nên hết đỗi tự nhiên ngay cả khi có tính biểu tượng.
Chúng đầy sự khinh miệt khô cằn và là cảm quan của một người nhìn thế
giới một cách rõ ràng đến không thể chịu đựng được nó, một người mà nỗi
chết không rời, kể từ khi người đó chối từ mọi bon chen hay tìm nơi
ẩn trú, như những người khác thường làm, trong những ảo tưởng này
nọ, của lý trí, hay của vô thức - kể luôn cả những con người cao cả.
Dr Franz Kafka đã viết "The Stoker", chương thứ nhất của một cuốn tiểu
thuyết tuyệt vời, vẫn chưa được xuất bản (đã xuất hiện bằng tiếng Czech
trên Neumann's Cerven (1), "the Judgment", sự xung đột của hai thế
hệ; "The Metamorphisis", cuốn sách mãnh liệt nhất của văn chương Đức
hiện đại; "In the Penal Colony"; những tuyển tập Meditation và A Country
Doctor. Cuốn tiểu thuyết cuối cùng, Before the Law (2), còn trong dạng
bản thảo, sẵn sàng để in ấn, từ nhiều năm. Nó là một trong những cuốn
sách, một khi đọc, cho (ta) cảm nghĩ về một thế giới được miêu tả hoàn
hảo đến nỗi mọi phê phán sau đó đều chỉ là phù phiếm. Tất cả những
cuốn sách của ông vẽ nên sự ghê rợn của những ngộ nhận thầm kín, của
niềm ngây thơ tội lỗi giữa những con người. Ông là một nghệ sĩ và
là một người với một lương tâm khắc khoải, đến nỗi ông có thể
nghe, trong khi những người khác, điếc, cảm thấy, chính họ đang yên
ổn.
(Národni Listy, June 6, 1924)
(1) Milena muốn nói tới tuần báo
Kmen, cũng của S. K. Neuman.
(2) Đây là muốn nói tới cuốn Vụ
Án. Milena chỉ biết có truyện ngắn Before the Law.
Hiển nhiên, bà không biết cuốn tiểu thuyết chót của Kafka, Lâu
Đài. (Ghi chú của nhà xb Kafka Library).
Nguyễn Quốc Trụ chuyển ngữ
MILENA JESENSKA, KAFKA'S TRANSLATOR
AND lover, has left us a useful and persuasive definition of fanaticism:
"that absolute, unalterable necessity for perfection,
purity, and truth." It was Kafka she meant.
Chắc là, Ozick muốn nhắc tới mẩu sau đây:
[Milena letters to Max Brod]
[Bạn có thể tưởng tượng,
đây là thư của "đảo xa", gửi cho MT, viết về TTT!]
Dear Herr Doktor:
[beginning
of August 1920]
... Obviously, we are all
capable of living, because at one time or another we
have all taken refuge in a lie, in blindness, enthusiasm, optimism,
a conviction, pessimism, or something else. But he has never
fled to any refuge, not one. He [Kafka] is absolutely incapable
of lying, just as he is incapable of getting drunk. He lacks
even the smallest refuge; he has no shelter. That is why he is
exposed to everything we are protected from. He is like a naked
man among the dressed ... Everything he is, says, and lives cannot
even be called truth; actually, it is predetermined being, being
in and of itself, being with nothing added that might allow him to
distort his picture of the world- whether into beauty or distress. And
his asceticism is completely unheroic-hence all the greater and loftier.
All "heroism" is lying and cowardice. This is not someone who chooses
asceticism as a means to an end; here is a man who is forced to be ascetic
because of his terrible clairvoyance, his purity and inability to compromise.
There are very intelligent
people who also refuse to make compromises. But they
don magic glasses and see everything in a different light.
That's why they don't need any compromises. That's why they are
able to type quickly and have their women. He stands beside
them and gazes at them in wonder, at everything, even this typewriter
and these women. He will never understand.
His books are amazing.
He himself is far more amazing. Many thanks for everything.
I wish you all the best. I'm allowed to visit you when I come
to Prague, am I not? I send you my most heartfelt greetings.
Hiển nhiên tất cả chúng
ta đều có thể sống, bởi là vì lúc này lúc khác, chúng
ta đều có thể kiếm ra nơi ẩn náu, trong 1 lời dối trá,
trong sự mù lòa, hưng phấn, lạc quan, tin tưởng, biếm thế,
hay một điều gì khác. Nhưng anh ta [Kafka] không làm được
như thế, anh ta chẳng bao giờ chạy tới bất cứ 1 nơi ẩn náu,
không một nơi ẩn náu. Anh ta tuyệt đối không thể nói dối, như
anh ta không thể say rượu. Anh ta không có lấy 1 chốn ẩn náu
cho dù nhỏ bé nhất. Anh ta không có 1 nơi trú ẩn. Chính vì thế
mà anh ta cứ thế phơi ra trước mọi thứ, mọi điều mà chúng ta được
che chở, từ chúng. Anh ta như thể 1 kẻ trần truồng, giữa đám người
ăn vận quần áo. Mọi thứ, mọi điều anh ta là, nói, và sống, không
thể, ngay cả, được gọi là sự thực; sau cùng, đây là một sinh vật
được tiền định, tính toán từ trước, một sinh vật ở trong nó, và của
chính nó, có mà chẳng cần hư vô thêm vào, cái hư vô có thể
cho phép anh vặn vẹo hình ảnh của anh ta về thế giới - trở thành
cái đẹp, hay sự chán chường, kiệt quệ. Và chủ nghĩa khổ hạnh
của anh ta thì hoàn toàn không-anh hùng - từ đó, tất cả lớn
lao, cao vời vợi. Mọi “chủ nghĩa anh hùng” thì là dối trá, hèn
nhát. Đây không phải là 1 kẻ chọn khổ hạnh, như là một phương
tiện đưa tới cứu cánh; dây là 1 người đàn ông bắt buộc khổ
hạnh bởi là vì cái tiên tri khủng khiếp của anh ta, sự trong trắng
của anh ta, và cái không thể thoả hiệp của anh ta.
Cynthia Ozick
Writers, Visible and Invisible
Writers' invisibility
has little to do with Fame, just as Fame has little to do with Literature.
(Fame merits its capital F for its fickleness, Literature its capital L
for its lastingness.) Thespians, celebrities, and politicians, whose appetite
for bottomless draughts of public acclaim, much of it manufactured, is beyond
any normal measure, may feed hotly on Fame - but Fame is always a product
of the present culture: topical and variable, hence ephemeral. Writers
are made otherwise. What writers prize is simpler, quieter, and more enduring
than clamorous Fame: it is recognition. Fame, by and large, is an accountant's
category, tallied in Amazonian sales. Recognition, hushed and inherent
in the silence of the page, is a reader's category: its stealth is its
wealth.
And recognition itself can be fragile, a light too easily shuttered.
Recall Henry James's lamentation over his culminating New York Edition,
with its considered revisions and invaluable prefaces: the mammoth work of
a lifetime unheralded, unread, unsold. That all this came to be munificently
reversed is of no moment: the denizens of Parnassus are deaf to after-the-
fact earthly notice; belatedness does them no good. Nothing is more poisonous
to steady recognition than death: how often is a writer -lauded, feted,
bemedaled - plummeted into eclipse no more than a year or two after the final
departure? Already Norman Mailer is a distant unregretted noise, and William
Styron a mote in the middle distance (a phrase the nearly forgotten Max Beerbohm
applied to the fading Henry James). As for poor befuddled mystical Jack Kerouac
and declamatory fiddle-strumming mystical Allen Ginsberg, both are diminished
to Documents of an Era: the stale turf of social historians and excitable
professors of cultural studies.
Yet these eruptions of sudden muffiings and posthumous silences
must be ranked entirely apart from the forced muteness of living writers
who work in minority languages, away from the klieg lights of the lingua
franca, and whose oeuvres linger too often untranslated. The invisibility
of recently dead writers is one thing, and can even, in certain cases (1
would be pleased to name a few), bring relief; but the invisibility of the
living is a different matter altogether, crucial to literary continuity.
Political shunning - of writers who are made invisible, and also inaudible,
by repressive design - results in what might be called public invisibility,
rooted in external circumstance: the thuggish prejudices of gangsters who
run rotted regimes, the vengeful prejudices of corrupt academics who propose
intellectual boycotts, the shallow prejudices of the publishing lords of
the currently dominant languages, and finally (reductio ad absurdum!) the
ideologically narrow prejudices of some magazine editors. All these are rampant
and scandalous and undermining. But what of an intrinsic, delicate, and far
more ubiquitous private invisibility?
Vladimir Nabokov was once an invisible writer suffering from three
of these unhappy conditions: the public, the private, the linguistic. As
an emigre fleeing the Bolshevik upheavals, and later as a refugee from the
Nazis, he escaped the twentieth century's two great tyrannies. And as an
emigre writing in Russian in Berlin and Paris, he remained invisible to
nearly all but his exiled compatriots. Only on his arrival in America did
the marginalizing term "emigre" begin to vanish, replaced first by the notion
of citizen, and ultimately by American writer - since it was in America
that the invisible became invincible. But Brian Boyd, in Nabokov: The American
Years, his intimate yet panoramic biography, recounts the difficulty of
invisible ink turning visible - not only in the protracted struggle for
the publication of Lolita, but in the most liberal of literary journals.
It was the otherwise audacious New Yorker of the 1950S that rejected a chapter
of Pnin, the novel chronicling Nabokov's helplessly charming and self-parodying
alter ego, "because," according to Boyd, "Nabokov refused to remove references-all
historically accurate - to the regime of Lenin and Stalin." (The phrases
in question included "medieval tortures in a Soviet jail," "Bolshevik dictatorship,"
and "hopeless injustice," characterizations that the editors apparently
regarded either as excessive or as outright falsehoods.) Certainly the politically
expelled chapter did not languish in invisibility for very long; and as
for Lolita, decades after its electrifying and enduring triumph, it burst
out once again, dazzlingly, in the title of Azar Nafisi's widely admired
memoir linking Lolita's fate to the ruthless mullahs of Tehran. (Still,
even today, even in New York, one can find a distinguished liberal journal
willing to make a political pariah of a writer: an instance of ordinarily
visible ink rendered punitively invisible.)
*****
And here at last is the crux and the paradox: writers are hidden beings.
You have never met one - or, if you should ever believe you are seeing a
writer, or having an argument with a writer, or listening to a talk by a
writer, then you can be sure it is all a mistake. Inevitably, we are returned
to Henry James, who long ago unriddled the conundrum of writers' invisibility.
In a story called "The Private Life," Clare Vawdrey, a writer burdened by
one of those peculiar Jamesian names (rhyming perhaps not accidentally with
"tawdry"), is visible everywhere in every conceivable social situation.
He is always available for a conversation or a stroll, always accessible,
always pleasantly anecdotal, never remote or preoccupied. He has a light-minded
bourgeois affability: "He talks, he circulates," James's narrator informs
us, "he's awfully popular, he flirts with you." His work, as it happens,
is the very opposite of his visible character: it is steeped in unalloyed
greatness. One evening, while Vawdrey is loitering outdoors on a terrace,
exchanging banalities with a companion, the narrator steals into Vawdrey's
room - only to discover him seated at his writing table in the dark, feverishly
driving his pen. Since it is physically impossible for a material body to
be in two places simultaneously, the narrator concludes that the social Vawdrey
is a phantom, while the writer working in the dark is the real Vawdrey. "One
is the genius," he explains, "the other's the bourgeois, and it's only the
bourgeois whom we personally know."
And lest we dismiss this as merely another of James's ghost stories,
or simply as a comical parable, we had better recall that celebrated Jamesian
credo, a declaration of private panic mixed with prayerful intuition, which
so many writers secretly keep tacked over their desks: "We work in the dark
- we do what we can-we give what we have. Our doubt is our passion, and our
passion is our task." The statement ends memorably, "The rest is the madness
of art."
The madness of art? Maybe so. But more likely it is the logic of
invisibility. James has it backwards. It's not the social personality who
is the ghost; it is the writer with shoulders bent over paper, the hazy
simulacrum whom we will never personally know, the wraith who hides out
in the dark while her palpable effigy walks abroad, talking and circulating
and sometimes even flirting. Sightings of these ghost writers are rare and
few and un- reliable, but there is extant a small accumulation of paranormal
glimpses that can guide us, at least a little, to a proper taxonomy. For
instance: this blustering, arrogant, self-assured, muscularly disdainful
writer who belittles and brushes you aside, what is he really? When illicitly
spotted facing the lonely glow of his computer screen, he is no more than
a frightened milquetoast paralyzed by the prospect of having to begin a new
sentence. And that apologetically obsequious, self-effacing, breathlessly
diffident and deprecatory creature turns out, when in the trance-like grip
of nocturnal ardor, to be a fiery furnace of unopposable authority and galloping
certainty. Writers are what they genuinely are only when they are at work
in the silent and instinctual cell of ghostly solitude, and never when they
are out industriously chatting on the terrace.
What is the true meaning of "the madness of art"? Imposture, impersonation,
fakery, make-believe - but not the imposture, impersonation, fakery, or
transporting make-believe of ventive storytelling. No: rather, art turns
mad in pursuit of the false face of wishful distraction. The fraudulent writer
is the visible one, the crowd-seeker, the crowd-speaker, the one who will
go out to dinner with you with a motive in mind, or will stand and talk
at you, or will discuss mutual writing habits with you, or will gossip with
you about other novelists and their enviable good luck or their gratifying
bad luck. The fraudulent writer is like Bellow's Henderson: I want, I
want, I want.
If all this is so - and it is so - then how might a young would-be
writer aspire to join the company of the passionately ghostly invisibles?
Or, to put it another way, though all writers are now and again unavoidably
compelled to become visible, how to maintain a coveted clandestine authentic
invisibility? Don't all young writers look to the precincts of visibility,
where heated phalanxes of worn old writers march back and forth, fanning
their brows with their favorable reviews? Isn't that how it's done, via
models and mentors and the wise counsel of seasoned editors? "I beg you,"
says Rilke, addressing one such young writer,
I beg
you to give all that up. You are looking outwards, and of all things that
is what you must now not do. Nobody can advise you and help you, nobody.
There is only one single means. Go inside yourself. Discover the motive
that bids you to write; examine whether it sends its roots down to the
deepest places in your heart, confess to yourself whether you would have
to die if writing were denied you. This before all: ask yourself in the
quietest hour of the night: must I write? Dig down into yourself for a
deep answer. And if this should be in the affirmative if you may meet this
solemn question with a strong and simple "I must, " then build your life
according to this necessity.
Thus the poet Rilke, imploring the untried young to surrender all
worldly reward, including the spur, and sometimes the romantic delusion,
of Fame, in order to succumb to a career in ectoplasm. Note that he speaks
of "the quietest hour of the night," which is also the darkest, where we
do what we can and give what we have. The madness of art - and again I willingly
contradict Henry James-is not in the art, but in the madding and maddening
crowd, where all manner of visibilities elbow one another, while the ghosts
at their writing tables sit alone and write, and write, and write, as if
the necessary transparency of their souls depended upon it.
Cynthia Ozick
Trên TV đã từng giới thiệu Ozick. Gấu
đọc bà, lần đầu, là bài viết về Anne Frank.
Trong cuốn mới ra lò, có 1 bài về Kafka, đọc loáng thoáng thấy
lạ, cực lạ: Transcending the Kafkaesque.
Trong 1 bài viết, Ozick cho biết, cuốn sách thay đổi đời bà, là
cuốn của Henry James, Washington Square, đúng cuốn Gấu thật mê,
khi còn Sài Gòn, và đã tính dịch cho nhà xb Sóng của Nguyễn Đông Ngạc
Cynthia
Ozick, trả lời phỏng vấn, "Cuốn sách thay đổi đời tôi", cho biết,
đó là cuốn Washington Square,
của Henry James. Bà viết:
Một bữa, khi tôi 17 tuổi, ông anh mang
về nhà một tuyển tập những câu chuyện bí mật, mystery stories, trong,
lạ lùng sao, có truyện The Beast in the
Jungle của Henry James. Đọc nó, tôi có cảm tưởng đây là câu
chuyện của chính đời tôi. Một người đàn ông lớn tuổi, đột nhiên khám
phá ra, ông bỏ phí đời mình hàng bao năm trời.
Đó là lần đầu tiên Henry James làm quen
với tôi. Washington Square
tới với tôi muộn hơn. Câu chuyện của cô Catherine được kể một cách
trực tiếp, cảm động, và gây sốc. Đề tài xuyên suốt tác phẩm này là:
Sự giả đò. Giả đò làm một người nào đó, mà sự thực mình không phải như
vậy. Ở trong đó có một ông bố tàn nhẫn, ích kỷ, giả đò làm một người cha
thương yêu, lo lắng cho con hết mực. Có, một anh chàng đào mỏ giả đò
làm người yêu chân thành sống chết với tình, một bà cô vô trách nhiệm, ngu
xuẩn, ba hoa, nông nổi giả đò làm một kẻ tâm sự ruột, đáng tin cậy của
cô cháu. Và sau cùng, cô Catherine, nạn nhân của tất cả, nhập vai mình: thảm
kịch bị bỏ rơi, biến cô trở thành một người đàn bà khác hẳn.
Ozick cho rằng, ý tưởng giả đò đóng
vai của mình, là trung tâm của cả hai vấn đề, làm sao những nhà văn
suy nghĩ và tưởng tượng, và họ viết về cái gì. Không phải tất cả những
nhà văn đều bị vấn đề giả đò này quyến rũ, nhưng, tất cả những nhà
văn, khi tưởng tượng, phịa ra những nhân vật của mình, là khởi từ vấn đề
giả đò, nhập vai.
Tuy nhiên, nguy hiểm khủng khiếp của vấn
đề giả đò này là:
Những nhà văn giả đò ở trong đời thực,
sẽ không thể nào là những nhà văn thành thực của giả tưởng. Cái giả
sẽ bò vô tác phẩm.
[Writers who are impersonators in life cannot
be honest writers in fiction. The falsehood will leach into the work].
Gấu
đọc Washington Square khi
còn Sài Gòn, và bị nó đánh cho một cú khủng khiếp, ấy là vì cứ
tưởng tượng, sẽ có một ngày, bắt cóc em BHD ra khỏi cái gia đình có một
ông bố tàn nhẫn, ích kỷ, đảo ngược cái cảnh tượng thê lương ở trong
cuốn tiểu thuyết:
Khi ông bố không bằng lòng cho cô con gái kết hôn
cùng anh chàng đào mỏ, cô gái quyết định bỏ nhà ra đi, và đêm hôm
đó, đợi người yêu đến đón, đợi hoài, đợi hoài, tới tận sáng bạch...
Và
Gấu nhớ tới lời ông anh nhà thơ phán, mi yêu thương nó thì xách cổ
nó ra khỏi cái gia đình đó, như vậy là may mắn cho cả nó và cho cả
mi!
Ôi chao giá mà Gấu làm được chuyện tuyệt vời đó
nhỉ.
A
Critic at Large October 6, 1997 Issue
WHO OWNS ANNE FRANK?
By Cynthia Ozick
Thông Điệp
Của Anne Frank
http://www.tanvien.net/Tuong_niem/anne_frank.html
Introduction
The
Book of Blam is the first of three novels about the Holocaust in Yugoslavia
written by the Serbian writer Aleksandar Tisma, the other two being
The Use of Man and Kapo. It was published in 1972 in Belgrade and was
well received, as were the two books that followed. Tisrna's work was translated
into seventeen languages and he became internationally known. Although
a child of a Serbian father and Jewish mother, who lost relatives on
his mother's side in the Holocaust, Tisma carne to the subject of the
camps late: He attributed this new interest of his to a trip he took to
Poland in the 1960s and a visit he made to Auschwitz that reminded him
of the horrors he registered as a boy but had learned not to think about
in order to keep his sanity. The trip to Poland made him realize that he
had a history he could not run away from. As Tisma's compatriot Danilo
Kis noted, "One doesn't become a writer accidentally, one's biography
is the first and the greatest cause." Tisrna would have agreed. In one
of his journals he describes himself as a bug who had survived the bug
spray and whose role now is to convey to the descendants of the killers
the atrocities their fathers and grandfathers perpetrated on their millions
of victims.
Tisrna was born in 1928 in Horgos, a town on the border
of Serbia and Hungary, where thousands of Syrian war refugees lately
have massed while waiting to be allowed passage to Western Europe. His
father came from Lika, an impoverished region in western Croatia inhabited
by many Serbs. Though his parents, expecting him to become a priest,
sent him to school in Serbia, on graduation he went to work for a wholesaler
and eventually started a business importing fruit from the south. Tisma's
mother was Jewish Hungarian. She grew up in a small village in Hungary
where her father ran a small, barely thriving store. She met her future
husband at her aunt's rooming house in Horgos where he used to stay on his
business trips. The newlyweds settled in Novi Sad, the largest and most
multiethnic city in the region, where Tisma lived for the rest of his life
and wrote his many books, including The Book of Blam.
In April 1941, when Tisrna was thirteen years old,
Yugoslavia was invaded and occupied by German, Italian, Hungarian, and
Bulgarian troops. Vojvodina, the area north of Belgrade, where Novi Sad
is situated, was divided into three zones: one occupied by Hungary, one
by the newly founded Croatian fascist state, and the rest under German
control. Serbs, who had settled in the region after World War I, when the
Austro-Hungarian Empire was dissolved and Yugoslavia came into existence,
were to be deported; Jews, if they did not fall into the hands of the
Nazis to be taken to Serbia and gassed in mobile gas vans, were persecuted
or perished in a series of raids, the most notorious of which took place
in Novi Sad. There, over a period of three days, starting on January 20, 1942,
some 1,400 Jews and Serbs, including women and small children, were led at
gunpoint onto the frozen Danube, shot in the back, and shoved into holes
in the ice. Tisrna and most of his family were spared thanks to a Hungarian
neighbor who misled the soldiers knocking on doors and searching for people
on their list, but his beloved grandmother Theresa Miller was rounded up
with several hundred other Jews and Serbs and was on her way to the banks
of the Danube to be killed when a cable arrived from military authorities
in Budapest ordering an end to the mass slaughter.
Of course, the persecution and killings continued.
In 1942 all Jews and Serbs between the ages of twenty-one and forty-eight
were conscripted into forced labor battalions. Some 4,000 Jews from Backa
and Baranja were sent to Ukraine, near the front, where they succumbed
to disease and starvation or were murdered; others were put to work
in copper mines and on the railroads in Serbia and Hungary. In March
1944 when Hungary realized that it had taken the losing side in the war
and began to negotiate with the Allies, Germany seized control of the
country and the occupied territories. Any remaining Jews-there had been
approximately 20,000 in Vojvodina before the war; now there were 4,000-were
collected and sent into camps. Some Jews had already left the region
since-until that March-territories held by Hungary were safer than neighboring
Serbia and Croatia. Tisma and his mother were among them. They had traveled
to Budapest in 1942 and he had enrolled at the university to study economics
(changing after a semester to French). He even got a job working in an
office. As he later explained to an interviewer, students enjoyed a privileged
status in Hungary during the war. In 1944, Tisma and his classmates were
conscripted into labor brigades to dig trenches against the advancing Russian
tanks, but except for sleeping in tents they were not otherwise mistreated.
His mother and grandmother also survived, though living in mortal fear as
they watched friends and relatives being taken away to the camps.
"All my novels are autobiographical," Tisma said,
explaining that he is not recounting his life but using elements of his
experience in them. His central characters without exception share
his own sense of alienation. Even as a child, he said that he was aware
of being different and kept asking himself whether that was really true.
He felt he didn't belong, only pretended to, imitating people's voices,
accents, phrases, deeds, while remaining an outsider. Asked in a census
which nationality he belonged to, Tisrna checked off undecided. He had
always wanted to leave, but he had never had the courage to, even when
the opportunities arose. "I am a man who stayed in the hole because he
couldn't part company with its warmth," he confessed in his journal.
Miroslav Blam, the protagonist of this novel, is that
sort of man, a guilt-ridden Holocaust survivor, a Jew who married a Christian
and was therefore exempted from annihilation while the rest of his family
perished in the 1942 raid. He is a loner obsessed with the past, married
to a woman who cheats on him. He has a grown daughter fathered by the
Serbian collaborator who was his wife's lover and who gave him a job and
saved his life after his parents and sister were killed. He walks the
city full of ghosts, a man whose faith in the world has proved to be futile,
since those like his neighbors who lived by it expecting to thrive, as
we all do wherever we live, ended up being murdered and forgotten. "Manhunt"
is the name Blam gives to the onslaught of memories that pursue him and
torment him wherever he goes. They make up the plot of this book and provide
it with its large cast of interesting characters and their astonishing
life stories. Tisma, who had previously published three short-story collections
and a novel about a love affair, said that he wrote this book without
a plan or a model, following his instincts, which, as the reader can verify,
turned out to be flawless.
A friend who read the manuscript told him that even
someone as inconspicuous as his hero must do at least one extraordinary
thing. Not in Tisrna's books. The heroes of an age, he believed, are
not its winners, but those who bear its wounds. He writes about the
private lives of people at the mercy of historical events beyond their
control, the choices they did or did not make, victims and killers, both
of whom he sees clearly, neither judging them nor forgiving them. An interviewer
once asked how he had come to write so well about murderers. Tisma responded
that crime fascinated him; the violence he witnessed during the war had
made him comprehend hatred and cruelty. I've read in my lifetime many vivid
and ghastly accounts of people led to their death in novels and historical
documents, but few that match Tisrna's depiction of what those thousands
inching forward on the frozen Danube felt and told themselves while hearing
the sound of a machine gun, growing closer and closer, louder and louder,
firing in quick bursts and now and then falling silent in the early-morning
dark.
One of the most poignant stories in The Book of Blam
describes how in April 1944 the Jews and their families who were to be
deported to the camps were assembled in the huge synagogue in Novi Sad.
They spent three days and three nights there, not bothered by the guards,
waiting quietly. The only discordant note came from five or six dogs
who had trotted alongside their owners as they were being led to the
synagogue and remained outside watching for an opportunity to dash inside.
The guards chased them away, yelling and cursing, but the dogs came back.
They did see their masters one last time, nuzzling them and getting them
to part with some hidden morsel of food, when they were at the station
waiting to be loaded into the train, but soon the train was on the move
and the dogs were left alone on the tracks, though they kept running after
it for a long time until at last their noses lost the familiar smells of
their owners.
At the end of The Book of Blam, Blam goes to a concert
held in that same synagogue, known for its fabulous acoustics. There
is one other Jew in the large crowd, an old man who dodged death in a
camp playing the violin in a band that accompanied prisoners on their way
to the firing squad.
-CHARLES SIMIC
Cuốn này, cũng là về Lò Thiêu.
Cuốn phê bình, mới nhất, của Cynthia Ozick, đa số bài viết, cũng là
về Lò Thiêu. Bài viết Siêu thoát cái gọi là Kafka, Transcending
the Kafkaesque, Gấu đọc thoáng, thì có vẻ giống 1 bài điểm cuốn tiểu
sử mới ra lò về Kafka. Bài Souls, lèm bèm về câu phán khủng khiếp
của Adorno. Rồi bài Love and Levity at Auschwits, điểm
cuốn mới ra lò của Martin Amis, 1 cuốn tiểu thuyết về Lò Thiêu: Vùng Lợi
Tức, Zone of Interest. Ozick phán, một cuốn tiểu thuyết về Lò Thiêu, nó
có cái quyền năng làm hư ruỗng lịch sử, corrupt history, và như thế, thereby,
làm hư ruỗng trái tim độc giả!
Bà này cũng bị cái búa, hay cái rìu phá băng
Lò Thiêu, bổ trúng đầu.
Bà đã từng phán, cuốn nhật ký của Anne Frank đúng ra
nên đốt bỏ: Loài người chẳng có ai xứng đáng để đọc nó.
Ui chao, GCC đã áp dụng câu này cho hiện tượng Trâm
Thạc cái con mẹ gì đó, khi 1 đấng phê bình gia VC gán ghép cuốn nhật
ký này, với nhật ký của Anne Frank, nhưng theo GCC, cuốn của Trâm Thạc
dễ đốt hơn, vì trong nó có sẵn lửa!
Kứt cả 1 lũ!
Cả Yankee mũi tẹt lẫn mũi lõ!
|