Notes
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
|
Kỷ
niệm, kỷ niệm
Cùng
lúc đọc, viết. Truyện
ngắn đầu tay của tôi, Những Ngày Ở Sài Gòn, thai nghén tại nhà thương
sau khi
đọc một bài thơ của một người bạn, thi sĩ Cao Thoại Châu, trên báo Văn,
tiền
thân tờ Văn bây giờ, của Nguyễn Xuân Hoàng. Viết tại đỉnh cồn, một tay
bị băng
bột, phải tựa lên thành ghế, một tay viết. Ban đêm ngủ phải nằm sát
tường, để
có chỗ dựa cho cánh tay băng bột. [Vậy mà cũng vác cánh tay đi chơi với
‘Cô
Bé’. Thấy mọi người chăm chú nhìn, cô cười nói, họ nhầm anh với một anh
lính
chiến!]
Xong, gửi báo tuần báo Nghệ
Thuật. Truyện được đăng, sau đó được tòa soạn nhắn xuống lấy tiền nhuận
bút.
Nhân thế, quen Viên Linh, liền sau đó thay Thanh Nam
làm tổng thư ký. Anh xúi tôi
viết tiểu luận, phê bình, điểm sách, điểm phim! [Mới đây, gặp lại, anh
chìa cho
tôi xem, một trong những bài điểm sách đầu tiên của tôi, là cuốn Thị
Trấn Miền
Tây, của Viên Linh, đăng trên báo Văn Học Sài Gòn, không phải tờ Văn
Học Cali
bây giờ]
Tôi nói với ông anh. Ông bảo
sợ gì chuyện đó. Thì cứ viết, bằng cách giới thiệu những trào lưu văn
học thế
giới. Thấy tôi ngần ngại, ông bảo, Nguyễn Đình Thi cũng viết cuốn Triết
Học
Nhập Môn theo kiểu đó, vừa đọc, vừa dịch, vừa giới thiệu, vừa sáng tác.
Đừng sợ
sai, sai thì sửa. Không làm như vậy, chẳng bao giờ có tác phẩm.
Kinh nghiệm của Nguyễn Đình
Thi, qua ông anh, đã theo tôi suốt bao năm mê mải với mớ chữ. Tôi
cứ thế giới
thiệu, nào trào lưu hiện sinh [Tôi còn nhớ tên loạt bài viết cho Nghệ
Tthuật:
Thế nào là văn chương dấn thân?], tới những tác giả tiếp theo trào lưu
hiện
sinh như Roland Barthes, Gérard Genette... Tôi giới thiệu Beckett vào
năm 1965
- 1966, trước khi ông được Nobel vào năm 1969. Ra hải ngoại, vẫn ‘mửng’
đó, tôi
giới thiệu Borges, Steiner, Naipaul, Said... nghĩa là vừa đọc, vừa
[tập] dịch
[tiếng Anh].
Những Ngày Ở Sài Gòn,
thai
nghén tại nhà thương sau khi đọc một bài thơ của một người bạn, thi sĩ
Cao
Thoại Châu…
Không phải như vậy.
Những ngày viết
lâu rồi, nhưng bỏ trong ngăn kéo. Chỉ đến khi ăn mìn VC, và, trong khi
nằm dưỡng thương trên Đài, đọc bài thơ CTC trên tờ Nghệ Thuật, thế là
lôi ra, sửa sửa, rồi nhờ anh bạn Trần Công Quốc, nhân ghé Đài thăm, đưa
cho anh Tâm, tức TTT. Anh Tâm đem xuống cho Nghệ Thuật.
Bài thơ của CTC, là một bài thơ viết về chiến tranh. Hồi đầu, thơ CTC
đầy không khí chiến tranh, thí dụ như câu Xin lấy máu làm dầu soi sáng, cho đám Mít
nhìn rõ mặt nhau.
Sau này, thơ anh đầy đàn bà. Bài thơ nào cũng có đàn bà, hoặc bạn.
Truyện
ngắn Những Con Dã Tràng,
được viết ra, để giải tỏa một nỗi nhức nhối của đời sống, ngay sau khi
đọc Kẻ
Xa Lạ của Camus. Chỉ đến khi đọc Faulkner, và viết được cái
truyện ngắn Những
Ngày Ở Sài Gòn, thì Gấu biết mình sẽ có ngày trở thành nhà văn.
Chính cái
style, cái không khí truyện, cái giọng văn, cái hình dáng của một câu
văn, câu
nọ choàng lên câu kia, câu trước chưa thở hết cái hơi
thở của nó, thì câu sau đã hăm he choán chỗ, câu trước đẩy câu sau… cho
Gấu biết điều này.
Sau này, Gấu
để ý, chỉ có hai nhà văn Mít cũng viết như vậy, là Nguyễn Ngọc Tư, và
Mai Ninh.
Ở NNT, Gấu nghĩ, văn của bà là từ những dòng sông, những con rạch,
những
cánh đồng
bạt ngàn của Miền Nam trước khi đám Yankee mũi tẹt tàn phá chúng, tạo
nên.
Văn chương Bắc Kít, y hệt cái ao làng, một
thửa vườn, thửa ruộng nhỏ xíu, bị bờ ruộng, bị lòng người, tình người
bít chặt đến nghẹt thở. Bạn cứ thử đọc, bất cứ một ông nào, bà nào, là
thấy liền tù tì!
Đã thế lại còn hay triết lý, biện luận, giảng giải, lúc nào cũng sợ độc
giả ngu, không nhận ra tư tưởng thâm viễn của... chúng ông!
*
Lời giới thiệu:
Là
một nhà văn nổi tiếng ở hải
ngoại, nhưng với một độc giả, thí dụ như tôi, và
có lẽ, với chính tác giả, đến bây giờ, cả hai mới nhận ra giọng văn
đích thực,
của mình.
Hy
vọng sẽ có
dịp nói thêm, về một thứ tùy bút, giống như mưa mùa xa, theo
nghĩa chưa từng có, chợt về với khí hậu văn chương Việt Nam.
Nhưng
cũng
không hẳn như vậy, bởi vì đọc Mưa Mùa Xa, bỗng nhiên tôi liên tưởng
tới... Một Mối Tình:
Mưa vô mùa, nghĩa là hết một đợt dài lưu
diễn, tôi về quê, má tôi chặt lá, giúc
nếp cặm cụi ngồi gói bánh cà bắp, nấu một nồi tám đầy vun bánh, tôi hỏi
má gói
chi nhiều vậy, má cười...(1)
Như
vậy, đâu
phải bốn, mà chỉ có hai mùa, mưa và nắng, nhất là mưa, ở trong Mưa
Mùa Xa:
"Mưa
Sài Gòn
độ rất nhỏ.."
Và
"nhất là"
những câu như thế này:
"Rồi tôi, cô bé mười ba bấy giờ biết những
chấn động đầu tiên trong đời
qua màn mưa phả suốt đêm giới nghiêm, ngập ngụa những tờ truyền đơn ướt
nát,
những manh biểu ngữ rách bươm và gậy gộc lẫn nhang đèn vung vãi trên
vỉa hè sau
cuộc biểu tình tuyệt thực rầm rộ trước nhà, loa phóng thanh rền rĩ niệm
kinh
suốt buổi chiều. Lẫn trong tiếng nước đập rộn rã vào cửa liếp và những
chậu
kiểng mẹ trồng thay hàng dâm bụt với gốc tầm ruột xanh từng chùm đã đốn
đi,
thỉnh thoảng rú lên hụ còi xe quân cảnh tuần tiễu chạy rút giữa lòng
đường."...
Bạn
nhận ra
ngay, Sài Gòn của những ngày xuống đường, ở trong Mưa Mùa Xa,
Bạn
nhận ra
ngay, Miền Nam
ở trong Một Mối Tình.
Chỉ đến khi đọc Faulkner, và viết được cái
truyện ngắn Những
Ngày Ở Sài Gòn, thì Gấu biết mình sẽ có ngày trở thành nhà văn.
Chính cái
style, cái không khí truyện, cái giọng văn, cái hình dáng của một câu
văn, câu
nọ choàng lên câu kia, câu trước chưa thở hết cái hơi
thở của nó, thì câu sau đã hăm he choán chỗ, câu trước đẩy câu sau… cho
Gấu biết điều này. (1)
Sau này, Gấu
để ý, chỉ có hai nhà văn Mít cũng viết như vậy, là Nguyễn Ngọc Tư, và
Mai Ninh.
Ở NNT, Gấu nghĩ, văn của bà là từ những dòng sông, những con rạch,
những
cánh đồng
bạt ngàn của Miền Nam trước khi đám Yankee mũi tẹt tàn phá chúng, tạo
nên.
Văn
chương Bắc Kít, y hệt cái ao làng, một
thửa vườn, thửa ruộng nhỏ xíu, bị bờ ruộng, bị lòng người, tình người
bít chặt đến nghẹt thở. Bạn cứ thử đọc, bất cứ một ông nào, bà nào, là
thấy liền tù tì!
Đã thế lại còn hay triết lý, biện luận, giảng giải, lúc nào cũng sợ độc
giả ngu, không nhận ra tư tưởng thâm viễn của... chúng ông!
(1)
Bạn không tin ư?
Hãy thử nếm vài câu đặc Gấu!
Niên học cuối của Lan Hương ở
bậc trung học bắt đầu bằng những buổi
sáng sớm giá lạnh xô đẩy trí nhớ tôi tìm lại Hà Nội, tôi thức giấc sớm,
thân thể
rét run, bàng hoàng tưởng như đang run rẩy trong một buổi sáng nào đó
trong Hà
Nội, tưởng như chiến tranh đã hết.
... Mai, Mai, để anh kể cho em nghe về một thành phố mà anh vừa biết
yêu nó thì phải rời bỏ, một quãng đời của anh, bây giờ nhớ lại thấy đâu
đó
trong quá khứ những trái sấu vàng vương vãi, tiếng lá vàng xào xạc,
tiếng còi
mười giờ chạy dọc theo con phố Tràng Tiền. Mùa Thu, màu thu Hà Nội,
những lá
cây vàng úa, hàng cây hai bên đường hình như cao thêm, thành phố trang
nghiêm
và buồn rầu như đang trầm ngâm suy nghĩ, buổi sáng trong suốt không vẩn
một hạt
bụi, tiết trời lành lạnh người ta quên đi, rồi đột nhiên nhớ lại, và
chút giá lạnh
đã len vào tâm hồn; buổi chiều sẽ bất chợt trở về, những con đường sẽ
im lìm và
trầm lặng hơn như giấu giếm một tiếng thở dài; chúng như bị bỏ quên,
trừ một
hai cặp tình nhân đi lại, hoặc một hai đứa nhỏ tha thẩn… Để anh kể cho
em nghe
về một thành phố mùa thu có những hạt mưa nhỏ như những hạt bụi bay
trong gió,
mùa hè vàng nắng đã qua đi từ lâu cùng những buổi tắm sông, nằm trên
cát nóng bỏng,
nhìn thẳng vào mặt trời.
Trường
hợp
không có Radiophoto, thường
ngồi trơ cu lơ một mình trong lúc chờ bạn bè tại một bàn tại góc quán
Cái Chùa,
mơ màng tự hỏi không biết sáng nay cô bạn có giờ học tại Văn Khoa hay
không, mơ
màng tưởng tượng chiến tranh rồi sẽ qua đi, cô bạn rồi sẽ gặp một người
chắc
chắn hơn hẳn mi: Một người hoặc không nợ nần gì cuộc chiến nên không bị
nó hành
hạ đến trở thành khật khùng, hoặc thừa thông minh, thừa khôn ngoan để
cùng cô
thoát ra khỏi, cho dù người đó có yêu thương cô hay không thì mọi
chuyện cũng
chẳng liên can chi tới mi.
Tuyệt cú mèo!
*
Kỷ niệm, kỷ niệm
Một
thời để yêu, để hát, và để chết
Ngày
mai đi nhận xác chồng
Theo server, thì
3, trong số “top 10”, của 1011 search key phrases, của Tin Văn, là:
Phố vẫn hoang vu từ lúc em đi
Tiếng hát ru em còn nuối trên môi.
Và:
Ngày mai đi nhận xác chồng.
Ui chao, sao mà tuyệt đến như thế, hở Trời!
Nằm mơ cũng không thể tưởng tượng ra được, một điều tuyệt đến như thế.
*
Nhắc chuyện cũ, tác giả Lê Thị Ý cho biết thêm, “Bài thơ được chọn đăng
trên tờ
Tranh Ðấu của sinh viên Sài Gòn. Học giả Nguyễn Ðức Quỳnh đọc được đã
gửi cho
bạn ông là nhạc sĩ Phạm Duy và Phạm Duy đã phổ nhạc rồi cho phổ biến
trên các
đài phát thanh lúc bấy giờ. Chỉ sau một thời gian ngắn thì bị cấm.”
Nói về hoàn cảnh bài thơ được khai sinh, tác giả Lê Thị Ý cho biết,
“Nhà tôi ở
gần nhà xác trên Pleiku. Khi ấy vào những năm 1969, 70 chiến tranh đang
diễn ra
thật khủng khiếp. Không ngày nào nhà xác không nhận thêm được xác những
chiến
binh QLVNCH hy sinh tại chiến trường. Và những người vợ trẻ thì đứng
đầy quanh
nhà xác với những vành tang trắng thê lương nên hồn thơ được nhập đầy
những
cảnh thê lương ấy.
“Em không thấy được xác chàng,
Ai thêm lon giữa hai hàng nến trong?
Mùi hương cứ tưởng hơi chồng,
Nghĩa trang mà ngỡ như phòng riêng ai...”
*
Cái chi tiết về NDQ đọc, và gửi cho PD, tuyệt!
Có lẽ đã đến lúc phải viết về cái kỷ niệm nghe bản nhạc trong tù VC rồi
đấy.
Gấu bảo Gấu.
Gấu đã lèm lèm vài lần về kỷ niệm này, nhưng chưa viết hết về nó, theo
nghĩa,
chưa báo cáo độc giả Tin Văn, để được nghe bản nhạc đó, Gấu phải trải
qua những
cơ may huyền diệu, sau những đau khổ khủng khiếp như thế nào!
Gấu có cảm tưởng, bản nhạc PD sáng tác là chỉ để dành riêng cho Gấu,
trong cái
dịp trọng đại đó.
Nó ra đời là để chờ gặp Gấu, vào bữa đó.
Cái món quà con K trao cho Gấu, khi Gấu đi vô tù VC để gặp nó!
*
Bài
hát Ngài
Mai Đi Nhận Xác Chồng thực sự không liên
quan gì tới Gấu, và gia
đình,
nhưng, có vẻ như, chỉ để cho Gấu được thưởng thức, lần đầu tiên, bản
nhạc này,
thì Ông Trời quả là đã mất quá nhiều công phu, quá châu đáo, và thật là
đặc
nhỡn, thật là mắt xanh, với Gấu.
Nhưng,
ông
cũng chơi lại Gấu một cú thật đau, quá đau, vào lúc cuối đời, khi,
chỉ nghe một giọng nói qua điện thoại, từ một người đàn bà, đã từng gặp
cảnh trên đây, mà đã tưởng tượng ra, rằng là mình có thể làm sống lại
người đã chết.
Ui
chao sao mà
khùng đến như vậy!
Liệu
có phải
đó vẫn là hậu quả vết thương Bắc Kít, từ hồi còn thơ, từ một cô
gái Bắc Kít bị cả một miền đất bỏ đói?...
Call For The Dead
Cái
đoạn sau đây, thật tuyệt.
Nó cho thấy, tài năng của một nhà văn bậc thầy, theo nghĩa, chỉ bậc
thầy, vào
phút chót, mới tìm ra được sinh lộ, cho mình, và tác phẩm của mình.
Viết,
là nó phải như thế, chứ
đâu phải cái trò hề, vỗ ngực xưng tên, tao là nhà văn, là nhà phê bình,
nhà khảo luận đâu!
Theo
nghĩa trên, nhiều người,
trong có Borges, coi, tiểu thuyết trinh thám mới thực sự là… văn chương!
Smiley
was tired, deeply, heavily
tired. He drove slowly homewards. Dinner out tonight. Something rather
special.
It was only lunch-time now - he would spend the afternoon pursuing
Olearius
across the Russian continent on his Hansa voyage. Then dinner at
Quaglino's,
and a solitary toast to the successful murderer, to Elsa perhaps, in
gratitude
for ending the career of George Smiley with the life of Sam Fennan.
He remembered to collect his
laundry in Sloane Street,
and finally turned into Bywater
Street, finding a parking space about three
houses
down from his own. He got out carrying the brown paper parcel of
laundry,
locked the car laboriously, and walked all round it from habit, testing
the
handles. A thin rain was still falling. It annoyed him that someone had
parked
outside his house again. Thank goodness Mrs Chapel had closed his
bedroom
window, otherwise the rain would have ...
He was suddenly alert.
Something had moved in the drawing-room. A light, a shadow, a human
form; something,
he was certain. Was it sight or instinct? Was it the latent skill of
his own
tradecraft which informed him? Some fine sense or nerve, some remote
faculty of
perception warned him now and he heeded the warning.
Without a moment's thought he
dropped his keys back into his overcoat pocket, walked up the steps to
his own
front door and rang the bell.
It echoed shrilly through the
house. There was a moment’s silence, then came to Smiley's ears the
distinct
sound of footsteps approaching the door, firm and confident. A scratch
of the
chain, a click of the Ingersoll latch and the door was opened, swiftly,
cleanly.
Smiley had never seen him
before. Tall, fair, handsome, thirty-five odd. A light grey suit, white
shirt
and silver tie - habillé en diplomate.
German or Swede. His left hand remained nonchalantly in his jacket
pocket.
Smiley peered at him
apologetically: 'Good afternoon. Is Mr Smiley in, please?'
The door was opened to its
fullest extent. A tiny pause. 'Yes. Won't you come in?'
For a fraction of a second he
hesitated. 'No thanks.
Would you please give him
this?' He handed him the parcel of laundry, walked down the steps
again, to his
car. He knew he was still being watched. He started the car, turned and
drove
into Sloane Square
without a glance in the direction of his house. He found a parking
space in Sloane Street,
pulled in and rapidly wrote in his diary seven sets of numbers. They
belonged
to the seven cars parked along Bywater Street.
What should he do? Stop a
policeman? Whoever he was, he was probably gone by now. Besides there
were
other considerations. He locked the car again and crossed the road to a
telephone kiosk. He rang Scotland Yard, got through to Special Branch
and asked
for Inspector Mendel. But it appeared that the Inspector, having
reported back
to the Superintendent, had discreetly anticipated the pleasures of
retirement
and left for Mitcham. Smiley got his address after a good deal of
prevarication, and set off once more in his car, covering three sides
of a
square and emerging at Albert
Bridge.
He had a sandwich
and a large whisky at a new pub overlooking the river and a quarter of
an hour
later was crossing the bridge on the way to Mitcham, the rain still
beating
down on his inconspicuous little car. He was worried, very worried
indeed.
*
Trong cuốn
này, có hai cú thần sầu.
Smiley trước khi về nhà, ghé tiệm giặt ủi lấy quần áo. Về tới nhà, tính
lấy
chìa khoá mở cửa, nhưng "linh tính mách bảo", thay vì vậy, lại giơ
tay gõ. Cửa mở, một ông thò ra, anh lễ phép nói, đại khái, tôi là nhân
viên
tiệm giặt ủi, tới giao quần áo…
Tay sát thủ, do cũng không rành mặt S. nên bị lừa, nhưng liền sau đó,
hắn làm
thịt, hụt, S.
Cú thứ nhì, là cú xẩy ra trong The Last Act.
Màn này mới đúng là mise en abime, kịch trong kịch.
Một tuyệt cú. Chính cú này mới thực sự cho chúng ta thấy tài nghệ của
Le Carré.
Salman Rushdie đọc không nổi Le Carré, chê dài dài, trong một viết in
trong Quê
hương tưởng tượng. Có vẻ như tay này không mê truyện trinh
thám, điệp viên.
Nhưng Ông Trời quả là thương Gấu, sợ Gấu bỏ qua, và sợ Gấu buồn, trong
những
nằm tù tại nhà tù quốc tế Bangkok, bèn nhờ anh bạn tù người Malaysia
nằm kế bên
đưa cho Gấu cuốn này.
Nhờ đọc nó, mà hồn ma của Gấu, ở trong những hang cùng ngõ hẻm, những ổ
điếm,
tiệm hút, những trại tù, sống dậy, và trở thành hồn thiêng của... Sài
Gòn!
"Trong những đêm chập chờn mất ngủ, hồn
thiêng của thành phố thức
giấc ở trong tôi, tôi lại tưởng đây là hồn ma của chính mình đang lang
thang
trên những nẻo đường xưa cũ, sống lại cái phần đời đã chết theo cùng
với Sài
Gòn, bởi cái phần đời đó mới đáng kể."
Một thành phố mà tôi đã chết ở trong, nay sống lại, chỉ để kể về nó…
*
Vòng hoa trao tặng Pamuk (1) vinh danh nhà văn Nobel 2006 một cách nào
đó, là
kết hợp của hai vòng hoa, của Gấu, tặng Sài Gòn, viết khi ở nhà tù
Bangkok, câu
trên, và ở trại tị nạn Thái Lan:
Nhìn bước đi của thời gian, của thành phố trong cơn
tuyệt vọng chạy đua với
chiến tranh, trong nỗi hối hả đi tìm ông chủ đích thực, sau những ông
chủ thuộc
địa, thực dân cũ, thực dân mới... cuối cùng khám phá ra đó chính là kẻ
thù.
Lần
Cuối Sài Gòn
(1)
"who in the quest for the melancholic soul of his native
city has
discovered new symbols for the clash and interlacing of cultures."
"Người mà trong khi tìm kiếm linh hồn sầu muộn của thành phố quê hương
của
mình, đã khám phá ra, những biểu tượng mới cho cuộc đụng độ và quấn
quít lấy
nhau, của những nền văn hoá."
Tuyệt!
*
Cuốn tiểu thuyết giới thiệu với chúng ta, anh chàng điệp viên cù lần bị
vợ bỏ: George Smiley
|