tháng tư
người. đây khuôn mặt. vách. ngăn
tháng tư. về đốt. mùa đông. thắp. người
tàn chưa. một nén. thời gian
thanh xuân. lờ. lượn. lẫn. qua bên. đời
tháng tư. khập. khễnh. khóc. cười
tháng tư. in. dấu cuối. người. nứt. đôi
Đài Sử
*
Người Mỹ nghĩ gì về Nỗi buồn
chiến tranh
PXN
Note:
Cuốn tiểu thuyết của
Bảo Ninh không phải dễ đọc, ngay
cả đối với độc giả Mỹ. Lối viết theo “dòng ý
thức” của nhân vật Kiên, đảo lộn trình tự thời gian, chắp nối, đứt đoạn
sự
kiện, lồng “truyện trong truyện”, đã khiến nhiều người khó theo dõi nội
dung
tác phẩm.
PXN, trong bài viết trên
1. Câu
trên, là của PXN, hay trích dẫn từ những nguồn của bài viết?
2. Trước “Nỗi buồn”, đã có cái gọi là ‘dòng ý thức’ trong cõi văn Bắc
Kít?
NQT
*
Chuyện
tình Mít
kể, đương thời, thì có NNT. Truyện số 1 của nữ văn sĩ “miệt vườn, đặc
sản
Miền Nam”,
là Một
Mối Tình.
Truyện ngắn mới nhất:
Lâu
rồi mới viết chuyện tình mà
chẳng hay ư?
Chuyện tình lồng trong chuyện tình, lồng trong
chuyện tình. Cái cô Bê phải có một mối tình lớn, vì nó mà bỏ xứ mà đi,
và mối
tình trắc trở này chắc là mắc mớ tới một người đàn ông có vợ, và bị vợ
bỏ chạy
theo thằng khác [đây là "mô típ đặc sản" của NNT, như trong Một Mối
Tình, trong Cánh Đồng Bất Tận]. nếu không, cô không để ý tới anh chàng
có đứa
con bị sốt], rồi còn mối tình thương hại anh học trò em trai cô chủ nữa.
Thú thực, viết
như thế, thì Gấu này phải chịu là Thầy!
Đặc
sản Miền Bắc
thì có em Phương, trong Nỗi Buồn
Chiến Tranh, chửi anh Kiên, Yankee mũi
tẹt,
mày ngu quá, đâu còn đêm nào như đêm nay….
Hay em gì gì đó, trong Trăng Goá,
do
sặc sụa
mùi nước đái tại Ga Hàng Cỏ khi tiễn Yankee vào Nam
chiến đấu mà nhận lời cầu hôn Thủ
Trưởng, hay anh cu Sài của Nê Nựu, Đảng bảo lấy ai thì lấy người đó!
"Chẳng
còn đêm nào như đêm nay
đâu. Anh muốn hiến đời anh cho một sự
nghiệp gì đó, còn em quyết định sẽ phung phí đời mình, sẽ huỷ diệt nó
trong
cuộc chiến này".
Gấu
đọc War
Sadness
*
Tại sao Bảo Ninh tịt ngòi?
Gấu tin rằng, chỉ Gấu mới trả lời nổi câu hỏi hắc búa của đám mũi lõ,
về nhà
văn nổi tiếng nhất xứ Mít.
Why Vietnam's best-known author has stayed
silent
Fifteen years after Bao Ninh's admired war novel, he explains his fears
about
publishing a sequel
Suzanne Goldenberg in Hanoi
Sunday November 19, 2006
The Observer
Nhật Ký TV
Tại sao nhà văn nổi tiếng của
Việt Nam
im tiếng sau
cuốn đầu tay?
Đây là câu chuyện
của một người lính được đặt để trong khung cảnh của những trận đánh, và
chiến
trường thì đầy những xác chết đã thối rữa, và thêm vào đó, là linh hồn
bị tra
tấn đến rách bươm ra, của một chàng trai trẻ, lên đường phục vụ xứ sở
của mình,
và khi nó ra lò vào năm 1991, lập tức tác giả nổi lên như cồn tại Việt
Nam.
Tác giả không hề
in gì nữa, mặc dù người ta tin rằng, ông đã hoàn tất một cuốn tiếp theo
về
chiến tranh mà ông đặt tên là Steppe, và ông ngần ngại chưa đưa in.
'I stopped myself. I kept holding myself back,' Ninh told The Observer
in a
rare interview at his home in a section of central Hanoi favoured by middle-ranking
officials.
'I compared everything I wrote to everything I wrote in the past, and
it's not
natural like it was before.'
"Tôi tự kìm tôi lại, tôi tự kìm tôi lui về phía sau", Bảo Ninh nói
với phóng viên tờ Người Quan Sát, trong một cuộc phỏng vấn hiếm hoi tại
nhà của
ông, trong một khu trung tâm Hà Nội, nơi được đám nhân viên nhà nước
bậc trung
ưa thích. "Tôi so sánh mọi chuyện tôi viết với mọi chuyện tôi viết
trong
quá khứ, và nó không có vẻ tự nhiên như trước."
Về kỹ thuật
viết,
Nỗi Buồn là một hồi ức lộn xộn, một cách hết sức tự nhiên, như tình
trạng “da
beo”, của cuộc chiến. Người đọc có thể nhẩy vô bất cứ đoạn nào và lập
tức toàn
bộ cuốn sách phơi mở, mời gọi. Chất thơ của hồi tưởng, kỷ niệm, ở, ngay
cả
những đoạn tàn nhẫn nhất, khi viết về pháo bầy, bom trải thảm.
Tác giả nhận diện đứa con tinh thần của ông: “Đây chỉ là một sáng tác
dựa trên
cảm hứng, [được] chỉ đạo [bởi] của sự rối bời”.
Sartre, đọc Âm Thanh và Cuồng Nộ, của Faulkner, nói, đây là kỹ thuật
của sự hỗn
độn, và ông khẳng định: Kỹ thuật tiểu thuyết luôn qui chiếu về một siêu
hình
học của tiểu thuyết gia. Với Faulkner, một siêu hình học về thời gian.
Đọc Nỗi Buồn, độc giả có thể mường tượng ra trục thời gian của nó, của
chuyện
tình đẹp, nghẹn ngào, đó là chuyến tầu định mệnh, khi Kiên đi vào Nam
chiến
đấu, và Phương chạy theo, rồi “tai nạn” xẩy ra.
Và, đây mới là ý nghĩa đích thực, mang tính “uyên nguyên, bi đát” của
cuốn
truyện, của nỗi buồn: “Kiên có thể tha thứ cho cuộc chiến, nhưng không
thể tha
thứ cho cuộc tình”.
Như chúng ta đã biết, truyện lúc đầu có tên “Thân phận tình yêu”.
Cái tít này mới đúng với nó.
Và còn đúng cho cả một miền đất.
Toàn truyện, mọi hồi tưởng, về chiến tranh, lập tức kèm theo, một hồi
tưởng về
cuộc tình, về tai nạn, về nỗi đớn đau một lần để lỡ. “Chẳng còn đem nào
như đêm
nay đâu. Anh muốn hiến đời anh cho một sự nghiệp gì đó, còn em quyết
định sẽ
phung phí đời mình, sẽ huỷ diệt nó trong cuộc chiến này
cc 1906
Cái sự bành trướng về phía Nam là
số phần
của giống dân quần tụ tại đồng bằng sông Hồng, lúc nào cũng nơm nớp hai
hiểm
họa, giặc Bắc và lũ lụt. An Nam nhất thốn thổ, mảnh đất sông Hồng nhỏ
quá,
người cứ đẻ mãi ra, đất thì chỉ có thế, ruộng thì càng ngày càng co lại
vì bờ
nhiều hơn ruộng, ruộng thì ngày càng cằn cỗi vì con đê sông Hồng chặn
hết mọi phù
sa mầu mỡ, nước sông ngày càng đục ngầu, mầu như mầu máu. Kể từ khi có
Đàng Trong,
là toàn thể cộng đồng Bắc Hà nhìn về nó, như là Miền Đất Hứa. Thành ra
giải
phóng Miền Nam
thống nhất đất nước, hai miền chan hòa, là giấc mơ đẹp nhất của xứ Bắc
Kít.
Nhưng không ai có thể ngờ được, nằm bên dưới giấc mơ đẹp nhất, là Cái
Độc, Cái
Ác của một miền đất.
Chỉ đến khi lấy được Miền Nam
thì Cái Ác mới lộ diện.
Phải đầu hàng, không có bàn giao bàn giếc mẹ cái gì hết! Bố khỉ!
Mày phải đầu hàng, vì tao là kẻ chiến thắng, đất đai của mày, nhà của
mày, vợ
con của mày, của cải của mày, căn cước của mày… tất tất của tao, của
chúng ông,
tất tất đều chiến lợi phẩm. Hiểu chưa, chú gà tồ Big Minh!
Source
Trời ở nơi nào ta ở đây…
Nguyễn Ngọc Tư
"Wherever I am, Germany
is"
Thomas Mann
Gấu ở đâu Mít ở đó!
And I step ashore in a fine
rain
To a city so changed
By five years of war
I scarcely recognize
The places I grew up in,
The faces that try to
explain.
But the hills are still the
same
Grey-blue above Belfast.
Perhaps if I'd stayed behind
And lived it bomb by bomb
I might have grown up at last
And learnt what is meant by
home.
Derek Mahon
Giận dữ lưu vong
Và tôi bước xuống bến tầu Xề
Gòn
Dưới cơn mưa Xề Gòn thật mịn
màng
Về với thành phố quá đỗi đổi
thay
30 năm nội chiến từng ngày
Tôi không làm sao nhận ra
Những nơi chốn mà tôi đã từng
lớn lên
Những khuôn mặt cố giải thích
Nhưng bến tầu thì vẫn bến tầu
Những ống khói tầu thì vẫn
mệt lả
Nơi tôi ném mẩu thuốc cuối
cùng xuống dòng sông thì cũng vưỡn còn
Tôi ra đi nơi này vưỡn thế!
Có lẽ nếu tôi đừng đi, và cứ
lì ở lại
Và sống với Xề Gòn từng trận
hỏa tiễn VC réo ngang đầu
Từng trận B52 rải thảm quanh
thành phố
Sau cùng tôi sẽ trưởng thành
Và biết ‘nhà’
nghĩa là cái quái gì
Note:
Có thể, cái tít bài viết Cô Tư
được ‘gợi hứng’ từ Thomas Mann.
Và nếu như thế, Cô Tư thường ghé... TV?
Karl
Marlantes, cựu binh Mẽo,
đã bỏ ra 30 năm để viết tác phẩm đầu tay về cuộc chiến mà anh trải
qua tại
Việt Nam.
Matterborn,
dầy 650 trang, nhà xb Grove/Atlantis, 2010.
Nó đã bị hơn một nhà xb vứt vô
thùng rác.
GNV
không mê truyện viết về chiến
tranh. Chẳng cần chuông gọi hồn ai, mà cũng dư biết kẻng gọi hồn Gấu đó.
Kẻng tù
VC, và cái kỷ niệm tuyệt
cú mèo, lần phê thuốc lào tại nông trường Phạm Văn Cội Củ Chi, ngay sau
Phỏng Dái. (1)
Nhưng, nhân tiện VC đốt pháo
hoa mừng ngày 30 Tháng Tư, TV sẽ giới thiệu bài viết về cuốn trên, trên
tờ Poets
& Writers May/June 2010. Thử coi, có hách hơn của bạn văn VC
của
GNV, Bảo
Linh, với cuốn Lỗi Buồn Chiến Tranh!
(1)
Sá gì mấy
cuộc bể dâu
Câu thơ
"Nhớ bạn như
đang nhớ thuốc lào", [bạn ở đây là Phan Lạc Phúc, tức ký giả Lô Răng],
của
Thanh Tâm Tuyền, tuy thoát thai từ ca dao (nhớ ai như nhớ thuốc lào, đã
chôn
điếu xuống lại đào điếu lên), nhưng chỉ những ai đã từng ở tù Vi Xi,
thì mới
cảm thấy hết được cái nỗi nhớ, và cùng với nó, là cái nỗi say, và kẻ
hèn này
cũng đã từng có một kỷ niệm huy hoàng (kinh hoàng, đúng hơn), về nó.
Ở trong tù hút thuốc lào bằng
khẩu ba zô ka, và, tôi không biết trại tù miền bắc ra sao, chứ ở trại
tù miền
nam, thường là cả lán chỉ có một khẩu, và, bạn biết rồi đấy, cái bi
thuốc lào
đầu tiên buổi sáng, khi đang còn mắt nhắm mắt mở (đang còn say ke), nó
mới ngon
làm sao, say làm sao, và mới nhớ làm sao, những ngày sau này, khi không
còn
được ở trong trại tù!
Nhà văn
gốc Do Thái viết văn
bằng tiếng Hung, Imre Kertéz, được giải Nobel năm rồi, đã nói đến những
giây
phút hạnh phúc ngắn ngủi, ở một nơi thỉnh thoảng có mặt trời là Lò
Thiêu, tôi
cứ thử tưởng tượng, nếu ông đi tù vi xi, chắc chắn phải thêm vào "một
chỗ
dưới mặt trời" - mượn cái tên phim có cô đào Taylor và chàng Monty
Cliff –
tức khoảnh khắc hạnh phúc mà điếu thuốc lào mang lại.
Như
trên đã viết, cả phòng
chỉ có một khẩu ba zô ka, thành thử trước khi đi ngủ, "trại viên"
thường tìm cách giấu khẩu súng, riêng cho mình, để sáng sớm hôm sau, là
người
đầu tiên nhét bi thuốc, châm que diêm bắn một phát, rồi ngã lăn đùng
ra, mặc kệ
trời đất xoay mòng mòng...
Nhà thơ Thanh Tâm Tuyền cũng
đã tả cái thú bắn thuốc lào này, trong
Thơ Ở Đâu Xa:
Thơ thuốc lào
Ngồi chơi hút điếu thuốc lào
Tạm quên những lúc gian lao
ưu phiền
Điếu thông đóm nỏ thuốc êm
Thử coi sẽ thấy đảo điên đất
trời
Bạn tù ơi lửa châm rồi
Rít cho ròn rã mê tơi cõi
lòng
Tựa lưng nhả khói thong dong
Tít say lú lấp cả mong với
chờ
Kể chi vợ dại con thơ
Sá gì chuyện cửa chuyện nhà
mai sau
Sá gì mấy cuộc bể dâu
Loay hoay chỉ tổ bạc đầu mà
thôi
Này đây trà đậm chén mời
Long Giao còn thú tuyệt vời
nào hơn
Sáng bữa đó,
"bạn tù", "trại viên", tức kẻ hèn này hân hạnh là người đầu
tiên nạp đạn. Vừa nhả khẩu súng, chưa kịp ngã lăn đùng ra để phê, thì
tiếng
kẻng "tập hợp, chào cờ!" rùng rợn đã ré lên!
Thế là "chàng"
cứ thế bò, lăn,
lê, mắt nhắm tít, để "kìm"
cơn say, nhằm hướng sân trại, đâu biết rằng tất cả bạn tù, lẫn quản
giáo, đang
"chiêm ngưỡng" từng bước "lăn trầm" của "chàng"!
Trong Tuyển Tập Tạp Ghi cũng có những dòng "sám hối, giải oan cho một
trận
thuốc lào này," của Lô Răng, khi cô con gái út khuyên ông, "Đừng hút
thuốc lào nữa bố ơi, con chịu không nổi." (trang 66).
Đấy là cô "lịch sự", không nói thêm, "... vì nó ‘hôi’ lắm"!
Source
Ngô Tự
Lập
Khoa Quốc tế - Đại học Quốc
gia Hà Nội
Ông Hồ,
như ở đây được NTL
thổi là cha đẻ của văn học viễn tưởng Mít, thực sự chỉ là một ‘phóng
tác gia’.
Và những truyện mà Cụ Hồ chôm của người rồi viết lại theo ý của ông, là
đều
nhằm mục đích chính trị cả.
Miền Nam có HHT được gọi là
ông vua thể loại này, chỉ khác, ông cho biết, ông chôm của ai, còn Bác,
thì để
lại một nghi vấn, hy vọng đời sau có kẻ cố tình lầm, thổi Bác thành cha
đẻ của
văn học viễn tưởng Mít!
Gấu
này, hồi nhỏ đọc Ngọn Cỏ
Gió Đùa, của Hồ Biểu Chánh, mê quá, đến khi đọc Những Kẻ Khốn Cùng của
Victor
Hugo, cứ lầm bầm chửi anh Tây Mũi Lõ thuổng anh Mít Nam Bộ, ấy là vì
truyện của
HBC tuy phóng tác, mà đặc chất Miền Nam. Borges cũng đã gặp tình trạng
này, khi
đọc một bản dịch -dịch chứ không phải phóng tác – và khi đọc nguyên
tác, lắc
đầu, không hay bằng bản dịch, là vậy. Đây là những phép lạ của ngôn
ngữ, và tài
năng của người phóng tác.
Trường hợp Bác Hồ, Bác nhắm
một ý đồ ở bên ngoài văn chương.
Vào thời đó, Bác cũng không
nghĩ đến chuyện thuổng hay không thuổng. Giống trường hợp Khái Hưng,
cũng đã từng
phóng tác một truyện ngoại, của Langelaan, thành Bóng người trong
sương mù, (1) câu
chuyện anh lái tầu hoả, được hồn vợ nhập vào một con bướm cứu mạng, khi
cố ngăn
xe lửa vì cây cầu phía trước đã bị bão đánh sập.
NTL còn thổi Bác thành nhà tiên
tri. Không hiểu Bác có tiên tri ra một đất nước băng hoại như hiện nay?
(1)
Lần đó, đi cùng với ông bạn
thân. Ông này sau đi với Gấu, xuống Ba Xuyên đưa xác thằng em Gấu về
Sài Gòn.
Lượt về Gấu đi máy bay C.130 cùng cái xác thằng em, trong chiếc quan
tài, ngoài
gỗ, trong kẽm. Cũng nhờ tài xoay sở của một ông cố vấn Mẽo tại phi
trường Sóc
Trăng. Thằng em, sĩ quan Thủ Đức, ra trường biệt phái đơn vị địa phương
quân lo
an ninh phi trường. Ông bạn, nhà giáo bị động viên, đi xe đò trở về Cần
Thơ,
nhiệm sở của ông lúc đó. Xe của ông thứ nhì. Xe thứ nhất xơi nguyên một
trái
mìn VC. Gấu có kể qua truyện này một hai lần rồi. Nó làm Gấu nhớ tới
câu chuyện
Bóng Người Trong Sương Mù của Khái Hưng. Hồi nhỏ, đọc truyện này,
Gấu hơi
bị ấn tượng [thuổng cách nói của VC], nhưng hóa ra rằng thì là, ông
thuổng
truyện ngoại quốc. Của tay Langelaan, tác giả một truyện ngắn được coi
là kinh
dị số một của thế kỷ, Con
Ruồi , đã từng được dịch
đăng trên tờ Bách
Khoa, Sài Gòn, trước 1975.
Gấu tin rằng thì là, thằng em trai của Gấu, đã xúi ông bạn đừng đi
chuyến xe
đầu.
Cũng như Gấu đã từng mường tượng ra cái chết của thằng em, ngay từ khi
nó bị
gọi đi Thủ Đức.
Đúng ra, ngay từ khi Gấu chết hụt ở nhà hàng Mỹ Cảnh.
Như thể, Thần Chết, bắt hụt thằng này, thì tóm thằng kia.
Chính vì vậy mà ông bạn HPA không làm sao đọc ra "cái tầng hầm", của
đoạn văn sau đây, bởi thế, ông mới chửi, sao lại có một thằng mê gái
thê thảm
đến trở thành lố bịch, như mày, hử Gấu?
Gấu
cũng đã từng bị lừa, như
NTL.
Với NTL, thì ông giả đò bị
lừa, còn Gấu, bị lừa thực tình, khi đinh ninh Sến cô nương là tác giả
Thiên Sứ.
Hoá ra truyện phóng tác.
Phóng tác, nhìn một cách nào
đó, thì cũng là một hình thức đạo văn, nếu cố tình không cho biết
nguyên tác.
Giấc ngủ mười năm có thể
khiến ta liên tưởng đến chuyện Từ Thức, nhưng tôi muốn so sánh nó với
Rip Van
Winkle của văn hào Mỹ Washington Irving.
NTL
Chắc
chắn là Bác thuổng Irving,
vì Bác mê Mẽo
lắm, như PXA.
Bác đã từng thuổng Mẽo, để viết
bản tuyên ngôn độc lập, không nhớ sao?
Trong số những người làm sống
lại nhân vật Rip Van Winkle này, có Koestler.
Trong Bóng đêm giữa ban ngày,
có anh tù tên là Rip Van Winkle, suốt ngày lảm nhảm câu “Vùng lên, hỡi
những nô
lệ ở trên thế gian này”, nhưng do bị công an nện nặng quá, bị mát cái
đầu, thay
vì “Vùng lên…”, thì là, “Tùng lên…” (1)
Gấu nghi, tay NTL này cũng
đang ‘giả đò’ là một Rip!
Hay "thực sự" là?
*
(1)
….
Chiến tranh ngăn chặn quá khứ
một quê hương phải rời bỏ, ngăn chặn tương lai, và cùng với nó, tất cả
những
ước mơ khiến chúng tôi nhìn rõ nỗi thất vọng của nhau, cùng cách thức
mà từng đứa
lựa chọn để biểu lộ nỗi phiền muộn của mình… Lãng tìm cách tự cứu, tập
Yoga, ăn
cơm gạo lức muối mè, xa lánh bạn bè, những bức thư của anh thường tận
cùng bằng
câu, "Bao giờ thì hoà bường?" Không bao giờ anh dùng từ "hoà bình",
như sợ hãi, ghê tởm… hoà bường, hoà bường, trong trí tưởng tượng của
tôi, người
bạn những năm trung học trở thành Rip Van Winkle, nhân vật của
Koestler, gã tù
nhân khốn khổ suốt ngày lảm nhảm khẩu hiệu ghê gớm nhất thời đại,
"Bebout
les Damnés de la terre!"; "bebout" thay vì "debout",
"Vùng lên hỡi những kẻ trầm luân…" biến thành "Tùng lên, tùng
lên…". Còn Vưu đọc đi đọc lại một cuốn sách cũ nát bấy, khi tôi hỏi tìm
gì, anh trả lời, "Les pages érotiques" (Những trang khiêu dâm). Tường
tự tạo cho mình những cơn khoái lạc, tưởng tượng trên thế gian không
còn đàn
bà… Chúng tôi không chết vì đã chót sinh ra, đã chót già, nhưng chết vì
cuộc
chiến không phải do chúng tôi gây nên, và không phải chúng tôi muốn
tiếp tục,
"Tôi năm nay hai mươi tuổi và không cho phép bất cứ một ai được nói, đó
là
tuổi đẹp nhất trong đời một người"....
Những ngày ở Sài Gòn
*
NTL là một trong những tay phán
nhảm nhất, về đủ thứ trên đời, chỉ vì anh nghĩ là anh có cái khiên
chống đỡ những
lời chỉ trích, là cái mảnh bằng to tổ bố của anh, những gì gì “khoa
cuốc
tế, đại học cuốc da’, thí dụ!
GNV, lần về Hà Nội có gặp. Ở ngoài đời
thấy có vẻ cũng được, tuy hơi nổ!
Có lần anh viết về bạn anh là nhà
phê bình
lớn NTS, nhảm quá, Gấu nực, bèn đi một đường sửa sai.
Được cái,
không giận,
còn gửi mail, cám ơn, và chúc tết.
NTL
giống hệt một tay ở hải
ngoại, nhưng tay này thì không có cái tính không giận như NTL.
Độc hơn nhiều!
Cũng dựa vào mảnh
bằng tiến sĩ gì gì đó, phán tứ lung tung loạn cào cào.
Có một cái blog, và có một bầy
đệ tử.
Đọc,
có cảm giác, một thứ Mộ Dung Phục, sau khi thất bại giấc mộng hưng
quốc, phục
quốc, bèn thành lập vương quốc ảo, với một bầy con nít, mỗi lần vua
phán
là bầy tôi hoan hô, xong, ngửa tay xin kẹo!
Làm gì
có thứ văn hóa quyền lực
ở Foucault!
Suốt
đời Foucault băn khoăn
nhiều chuyện, trong có chuyện discours & pouvoir.
Discours: Bản văn viết/văn nói.
Không phải văn hóa, culture.
Theo
ông, bất
cứ một
thứ "đít cua", cho dù hiền hoà cỡ mấy, thì đều ẩn tàng quyền lực,
ít, hoặc nhiều.
Nói, ta
bắt ngươi phải nói,
Nghe ta bắt ngươi phải nghe,
như Blanchot phán.
Gấu
này, trong bài viết từ đời xửa đời xưa, về ‘ông
anh của ông ta’ ["anh thì anh"], là Võ Phiến, đã lèm bèm về chuyện này
một lần,
nhân phải phân biệt hai cõi văn, một, Miền Bắc, một Miền Nam, trong
thời chiến tranh, và một nữ văn sĩ ra đi từ Miền Bắc khen nức nở, chú
phân
tích đúng
quá!
Tiện
đây, post lại
*
Khi đọc Alain, Võ Phiến không
nhìn ra một Weil ở phía sau. Do đó, ông không đọc được Đỗ Long Vân, một
người
cũng say mê Alain. Cuộc sống ẩn dật, từ chối mọi đặc quyền của Đỗ Long
Vân
(suốt đời sống ẩn dật, khi bị bắt đi trình diện nhập ngũ đã không trưng
bằng cấp,
giấy tờ chứng minh giáo sư đại học, bằng lòng làm binh nhì...) có thể
bị coi là
không bình thường, nhưng chưa trầm trọng như Weil: ngay cả người thân
của bà,
André Weil, cũng kết luận, tính khí của bà vượt quá mức bình thường.
Còn tướng
de Gaulle nói thẳng thừng: người đàn bà này khùng.
Đỗ Long Vân, theo tôi, không
chọn con đường tự huỷ, có lẽ vì đã đọc, rất mê, và đã từng viết về Kim
Dung, và
đã nhận ra, chỉ ở trong thế rỗng ruột (hư trúc), mới giải được ván cờ
ma quái.
Hư Trúc (nhân vật trong chuyện chưởng của Kim Dung) khi đi nước cờ,
không hề
nghĩ chuyện thua thắng: đấy mới là vấn đề. Võ Phiến khi đọc Zweig,
không thấy
Dostoevsky, không nhận ra sự thiếu sót của phân tâm học, muốn đơn giản
con
người như một sinh vật bị bịnh. Theo như tôi được biết Võ Phiến không
chịu được
những trào lưu "thái quá", không phải chỉ về tư tưởng, mà cả ở trong
ngôn ngữ. Có vẻ như ông không chịu nổi thơ dịch. Không chịu nổi Thanh
Tâm
Tuyền.
Võ Phiến rời Việt Nam ngay
1975, ông không có "cơ hội" ở lại chịu chung với cả miền Nam những
cay đắng khổ nhục sau đó. Ở lại là chết, nhưng do bỏ đi "sớm", ông
không cảm nhận được nỗi vinh quang và nhục nhằn của kẻ ở lại: một cách
nào đó,
ông không cảm nhận sự thực, về "thất bại trong chiến thắng", đối với
những người Cộng Sản, và do đó ông không "trực giác" cơ hội thống
nhất đất nước, không phải theo kiểu chiếm đoạt Miền Nam: chỉ ở trong
nhục nhã
cay đắng của Miền Nam thất trận, chúng ta mới có thể hiểu những năm
tháng ghê
rợn cả một miền đất sống dưới tai trời ách nước là chủ nghĩa Cộng Sản;
và ôm
lấy những đồng bào ruột thịt Miền Bắc.
Đây là một tất
yếu lịch sử.
Những chuyện Bắc Tiến, giải phóng Miền Bắc, những ngày 1954 chỉ để nói
cho vui,
để lên tinh thần... tại sao vậy? Bởi vì nếu coi ngôn ngữ mới là căn
phần của
con người, văn chương Miền Nam không hề mang chất đế quốc, không hề
nhắm tới
quyền lực. Từ một văn chương như thế làm sao có thể đi xâm chiếm Miền
Bắc, cho
dù là để giải phóng?
Văn Học Tổng Quan của Võ
Phiến, đoạn nói về nhà văn Miền Bắc thoắt chốc vào Nam ra Bắc, dưới
những bút
hiệu khác nhau, rồi giả dụ Miền Nam cũng làm như vậy, là quá tếu và
không hiểu
cả hai miền, còn hạ giá (hay quá đề cao?) nhà văn Miền Nam. Bởi vì, văn
chương
Miền Nam, bản chất của nó, không mắc mớ gì đến tinh thần chiếm đoạt,
tranh ăn
thua, còn Miền Bắc, vẫn nằm trong dạng khai hoá, vẫn tự coi như là
quyền năng
chính thống, theo kiểu, cần dậy cho mày một bài học, và phải trả bằng
xương
máu, bằng đất đai: Đấy là ý nghĩa của nhiệm vụ khai hoá!
Một
cách nào
đó, nếu
chúng ta nhìn ra tương quan dây mơ dễ má, giữa Cách Mạng Pháp, và chủ
nghĩa
Cộng Sản, cùng lúc chúng ta nhận ra tính thực dân của văn học hiện thực
xã hội
chủ nghĩa: đây vẫn là một thứ văn chương quyền lực. Nhìn theo cách thế
đó,
chúng ta còn nhận ra tính giai đoạn của dòng văn chương phản kháng ở
trong
nước. Nó phải qua đi, để lộ ra con người với ngôn ngữ, những lời nói
lành lặn
của nó...
"Tại sao ta không thể
yêu, những gì chúng yêu, nếu chúng chiếm được cuộc đời, ta đành chọn hư
vô", mê cung dành cho nhân vật trong Cát Lầy của Thanh Tâm Tuyền là
vậy.
Đừng nhìn thơ tự do, dòng văn chương Sáng Tạo, Văn Chương Kinh Nghiệm
Hư Vô
(Huỳnh Phan Anh), như là một "cái đuôi" của dòng văn chương hiện sinh
Pháp. Chúng là những con chim báo bão, cho một hư vô huỷ diệt, của
những trại
tù sắp tới... Khi bị những nhà phê bình Miền Bắc "tra hỏi" (Trong khi
họ xây dựng miền bắc xã hội chủ nghĩa, những nhân vật tôi mọi nô lệ này
đi
đâu?) tác giả Bếp Lửa đã "nhẹ nhàng" yêu cầu, hãy đặt những câu hỏi
đó ra cho chính các ông. Nên nhớ, những nhà văn Miền Nam, những tác
phẩm
"chống Cộng" của họ chỉ có, khi "bị đòn": Giải khăn sô cho
Huế, Địa Ngục Có Thực, Mùa Hè Đỏ Lửa, Vòng Đai Xanh... Ngay cả Võ Phiến
cũng
vậy; sợ Cộng Sản, sợ mất Miền Nam quá ông mới la làng, còn nhẩn nha
được là ông
lại nghiên cứu chiều sâu con người, dò tìm cội rễ của một bài chòi!
Chúng ta đã lầm một cách thê
thảm, Mac Namara nói vậy, không đúng mà cũng không sai: người lính Việt
Nam
Cộng Hòa không thua trên chiến trường, mà thua vì tính người: họ chưa
bao giờ
coi người lính Miền Bắc là kẻ thù tuyệt đối. Họ không hề được trang bị
bằng một
thứ văn chương quyền lực.
Nhìn theo cách đó, chúng ta
mới thấm được những dòng thơ "thiền", giọng điệu cảm khái, tráng sĩ
"biên đình" của những Nguyễn Bắc Sơn, Tô Thùy Yên... hay những lời ca
"đồn anh đóng bên rừng mai, nếu mai nở làm sao biết mùa xuân đã về".
Đánh giặc, súng nổ ầm ầm, thần chết hỏi thăm từng giây, từng phút, bất
cứ lúc
nào, nhưng cứ hở ra được một chút là lại "thiền"! Vinh danh người
lính Việt Nam Cộng Hòa là đúng, chẳng có gì chuế cả, nhưng cố vực họ
dậy, giữa
vòng dây oan nghiệt của lịch sử là bi thảm hoá một huyền thoại, là tự
hài lòng
với nỗi bi thảm: nạn nhân của phi nhân.
Thua trận, nhục nhã thật, nhưng
thà
rằng thua, mà vẫn giữ được "con người"! Làm người lính thiền, chắc
chắn là hơn làm đao phủ thiền!
Thi sĩ không bao giờ là nạn nhân (J.
Brodsky).
Mỗi người lính, như Nguyễn Bắc Sơn, Tô Thùy Yên, Khoa Hữu, Cao Thoại
Châu, Luân
Hoán... là một nhà thơ, người lính bảo vệ ngôn ngữ, và trong khi bảo vệ
ngôn
ngữ, chống lại những điều dối trá, phi nhân, họ bảo vệ con người.
Nhà
văn một
kẻ sống sót, là vậy.
VP: Nhà văn BD
Có lần,
Foucault giải thích
cho một sinh viên:
Quyền lực không phải là cái
nghĩa [le sens] của bản văn/nói. Bản văn/nói là một chuỗi những phần tử
thao tác
ở bên trong một cơ chế tổng quát của quyền lực, le discours est une
série d’éléments
qui opèrent à l’intérieur du mécanisme général du pouvoir. Hậu quả là,
phải coi
bản văn/nói như là một chuỗi những biến động, như những biến
động chính
trị, và qua chúng, quyền lực được chuyên chở và hướng về [véhiculé et
orienté].
TV sẽ đi vài đường giới thiệu
Foucault, nếu rảnh!
Điều
Foucault lèm bèm về liên
hệ giữa bản văn và quyền lực, Mít nói ra, một cách thật là giản dị, qua
câu chuyện
cái lưỡi.
Một bữa ông chủ ra lệnh cho đầy tớ mổ lợn,
và phán, mang về cho tao cái ngon nhất.
Ông hầu đem về cái lưỡi.
Lần sau, ra lệnh, cái khốn
nạn nhất.
Ông hầu đem về lại cái lưỡi!
Luỡi
không xương, nhiều đường
lắt léo, là vậy!
Hà, hà!
Thành
thử làm gì có thứ văn hóa
‘là’ quyền lực, văn hóa [là] chiến tranh, mà có thứ văn hóa phục vụ
chiến tranh, văn
hóa xúi người ta đi giết người.
30.4.2010
Si tu
lis les premières pages
du Manifeste communiste, c'est le plus fameux éloge du capitalisme
qu'on ait
jamais vu.
Nếu bạn đọc những
dòng đầu tiên của Tuyên ngôn CS, thì đó là những dòng vinh
danh hiển hách nhất chủ nghĩa tư bản mà người ta đã từng đọc.
Hannh Arendt
Cái cú 30 Tháng Tư 1975, ngay
VC thổi nào là những đỉnh cao thời đại, bước ngoặt lịch sử…. gì gì đi
nữa, cũng
chưa xứng với nó!
Dân Mít, Bắc Kít, đúng hơn, được ông Trời cho phép có mặt ở trên cõi
đời này,
là để có giấc mơ này, và làm sao thực hiện nó.
Chỉ đến khi thực hiện được nó, thì mới hỡi ơi, vì đúng lúc đó, mất nó!
“Nó”
liên quan đến cái cực
tốt, và cái cực xấu của cái gọi là Bắc Kít.
Cái cực tốt của Bắc Kít tạo ra hình ảnh Thiên Sứ của Sến Cô Nương. Nhờ
nó có
giống dân Bắc Kít, ở kế ngay tên Đại Hán[g] Gian Ác mà vẫn trường tồn!
Cái cực xấu, là Cái Ác Bắc Kít, tạo ra Lò Cải Tạo!
Tạo ra… Anus Mundi, mang cái thúi Bắc Kít đi reo rắc cùng khắp
thế giới,
biến cả thế giới thành bãi đánh hàng, khiến cả thế giới khiếp sợ gọi là
họa
Hoàng Quỉ.
Và sau cùng hủy diệt giống Mít!
Giống
dân nào, được nhân loại
nằm mơ, sáng ngủ dậy, biến thành nó: Bắc Kít.
Giống dân nào, ngủ dậy thấy mình biến thành bọ: Bắc Kít!
*
Một
lần, cũng đã lâu, Gấu đi giang
hồ vặt, cùng vài bạn văn, tới thăm một ông chưa từng quen biết.
Chủ nhân, ông bạn chưa từng quen biết, là một tay sành rượu. Nhất là
rượu bồ
đào.
Ông khoe, rượu của ông là từ bên Pháp gửi qua, thứ quí, hiếm, lâu đời.
Trong
khi chén chủ chén khách, ông cho biết, có một ông bạn [Gấu đoán, chắc
là ông
ta], rất khoái những bài Tạp Ghi của Gấu, và chưa từng bỏ qua một bài
nào [thời
gian Gấu giữ mục Tạp Ghi cho báo Văn Học của NMG].
Được khen, khoái quá, mũi phổng quá, Gấu quên cảnh giác, tố thêm, Gấu
này
thường là đoán ra đoạn chót, không cần phải coi hết một cuốn phim, khi
được
biết chủ nhân là một tay mê phim, và mê làm phim.
Ông có vẻ bực, thằng khốn này huênh hoang quá, nhưng, nói đến phim nào
là nó
biết phim đó, hay là thử phim này...
Ông lôi ra một phim, dựa theo một câu chuyện Nhật.
Tuyệt, tuyệt. Gấu tỉnh cả rượu, và xin lỗi chủ nhân, Gấu này chịu thua,
không
thể nào đoán ra đoạn kết của phim.
*
Sau này, được coi nguyên tác, chuyện anh chàng hôi chi, Gấu
mới càng
phục tay đạo diễn phim.
Đoạn cuối của phim khác hẳn nguyên tác.
Thần kỳ hơn nhiều.
Cái
chương chót, hay đúng
hơn, cảnh chót, của phim Hoichi cụt tai,
chính là cái lễ 30 Tháng Tư đúng ra là phải như thế, thế mới ly kỳ!
Gấu đã
đòi phen, tính kể ra,
nhưng lại sợ làm bực người chưa coi phim.
[Mày nói mẹ nó ra hết rồi, còn cái đếch
gì mà coi nữa! Ui chao, lại nhớ tới ông Trạng Quỳnh và câu chửi của
ông, đụ má
thằng nào bảo thằng nào!] (1)
Kể ra,
một cách nào đó, cũng
là một cách tưởng niệm 30 Tháng Tư.
Năm tới chắc gì còn thằng cha Gấu nữa, và biết đâu, nhà nước ta khi đó
lại biến
giấc mơ của GNV thành hiện thực!
Ui chao
đúng là… Ngụy không
biết thân Ngụy, đũa mốc đòi mâm son, tiền ít muốn hít đồ thơm….!
Hay,
muộn quá chăng?
Muộn còn hơn không!
(1) Hồi
còn con nít đi xem
ciné, Gấu có cái tật không làm sao bỏ được, bô bô kể cảnh sắp sửa xẩy
ra, vì đã
coi rồi, ciné thường trực [permanent] mà, cho tới một lần, bị một ông
ngồi phía
sau, kéo tai Gấu, xách lên, như xách một con gà, phán, mi mà không câm
miệng lại,
tao nhét cái NHT nhét vô miệng sĩ phu Bắc Hà bi giờ!
30.4.2010
Đề
nghị
công nhận Nghĩa trang Quân đội Việt Nam Cộng hoà là Chứng tích Lịch sử
Quốc gia
Tạ Chí Đại Trường
Cái
chương chót, hay đúng
hơn, cảnh chót, của phim Hoichi cụt tai,
chính là cái lễ 30 Tháng Tư đúng ra là phải như thế, thế mới ly kỳ!
Gấu đã
đòi phen, tính kể ra,
nhưng lại sợ làm bực người chưa coi phim.
[Mày nói mẹ nó ra hết rồi, còn cái đếch
gì mà coi nữa! Ui chao, lại nhớ tới ông Trạng Quỳnh và câu chửi của
ông, đụ má
thằng nào bảo thằng nào!]
Kể ra,
một cách nào đó, cũng
là một cách tưởng niệm 30 Tháng Tư.
Năm tới chắc gì còn thằng cha Gấu nữa, và biết đâu, nhà nước ta khi đó
lại biến
giấc mơ của GNV thành hiện thực!
*
Gấu bật mí thêm một nấc nữa:
Cái xen chót, có tí liên quan tới đề nghị của TCDT, trên!
'It's a problem people have had to come to
terms with at different times in
history: what do you do in a period of defeat?'
Khi Miền Nam
thất trận, bạn làm gì?
Khi
Miền Nam thất trận,
GNV đi tù, và nhờ đi tù, Gấu khám
phá ra Miền Nam,
và đó là thời gian tuyệt vời nhất trong đời Gấu, chán thế. Đành phải
cám ơn VC
một phát!
Trước
1975, Gấu chưa từng đi
ra khỏi Sài Gòn, theo cái nghĩa bị đánh bật ra khỏi nó, sống cái đời tù
nắng mưa
mưa nắng trên các nông trường cải tạo, nào Phạm Văn Cội Củ Chi, nào Đỗ
Hoà, Nhà
Bè, nhờ vậy mà tìm lại được cuộc sống, hòa mình vào được với cuộc sống.
Nhờ một
bạn văn ở trong nước, Gấu mới đây được đọc lại một số bài viết trước
1975, và bồi hồi sống
lại những ngày ở Sài Gòn, ban ngày cầy hai job, quanh quẩn với công
việc, tối về
đọc sách, nghe súng, nghe bom nổ đâu đó, và tưởng tượng
ra cuộc chiến ở bên ngoài cuộc đời của mình, và nếu có ảnh hưởng tới
nó, thì chỉ
là nỗi sợ.
Ra hải
ngoại, đọc Brodsky viết
về những ngày tù của ông tại Hắc Hải, và tâm sự của ông những ngày đó,
cũng có
phần giống GNV. Ông cũng bị tống đi tù vì là thành phần ăn bám, có hại
cho đất nước,
cho nhân dân, ông cũng tìm ra hạnh phúc trong khi đi tù, khi bị đánh
bật ra khỏi
thành phố quê hương của ông là St. Petersburg:
Khi
được hỏi ông nghĩ gì về
những năm tháng tù đầy, Brodsky nói cuối cùng ông đã vui với nó. Ông
vui với
việc đi giầy ủng và làm việc trong một nông trại tập thể, vui với
chuyện đào
xới. Biết rằng mọi người suốt nước Nga hiện cũng đang đào xới "cứt
đái", ông cảm thấy cái gọi là tình tự dân tộc, tình máu mủ.
Tôi
hết
còn tin vào nơi chốn ấy
*
Cái cuộc chiến
vừa qua, ngay
đám Bắc Kít,
thì cũng chưa có một tên nào nhìn ra cái đẹp thần sầu của nó. Cái đẹp
thần sầu
này là kết tinh của tất cả những gì làm nên con người Mít, và khiến cho
giống
dân này còn trường tồn cho đến ngày này, trong khi nhiều giống dân bảnh
hơn nó,
tạo ra những nền văn minh hiển hách hơn nhiều cái thứ văn minh sông
Hồng, vậy
mà cũng chìm vào quên lãng.
Chính cái làm cho nó không bị tiêu diệt, đến đúng ngày 30 Tháng Tư, trở
thành
cái tiêu diệt nó, hai mặt của một đồng tiền, là vậy.
Moi, je traine le fardeau de la
faute collective, dis-je, pas
eux.
Jean Améry viết, trong Vượt quá tội ác và hình phạt, Par-delà
le crime et le châtiment.
Gấu cũng có thể nói như thế [Bảnh thật!]: Tớ mang cái gánh nặng của Cái
Ác Bắc Kít, đâu phải
chúng!
Gấu đọc ba cái “nhìn lại cuộc
chiến” của
chúng là thấy tởm, là vậy!
30.4.2010
Old
dogs have more dignity
Comfort them since you pity them
Chó già giữ giá
An ủi chúng, kể từ khi cám cảnh chúng.
Beckett: Waiting for Godot (1)
Giả như
sau 30 Tháng Tư 1975, chúng ta có cái nhà Mít
đàng hoàng, thì không thể nào có những tác phẩm như Ba Người Khác
của Tô
Hoài, Đi tìm cái tôi đã mất của Nguyễn Khải, Hồi ký Nguyễn Đăng
Mạnh,
hồi ký Tô Hải…
Chính nỗi thất vọng sau 1975, về đất nước, khiến những tác giả đó phải
nhìn lại
đời của họ, và đều nhận ra một điều, họ đều đã phải chịu nhục, chịu
khổ, chịu
hèn.. với một điều kiện: giải phóng Miền Nam, thống nhất đất nước
cùng xúm
nhau lại xây cái nhà Mít.
Old dogs have more dignity, chó già giữ giá, có nhiều phẩm giá..
là theo
nghĩa đó.
Chính cái sự thú nhận tôi là thằng hèn, là "dignity" của họ!
Thành thử chúng ta không thể có một thái độ nào khác, mà là:
Comfort them, since you pity them.
[Trong them, có us. NQT]
(1) Mấy câu trên, là từ nhật ký của Gấu, những ngày ở trại tị nạn Thái
Lan, 1989-1994.
Mấy câu trong nhật ký những ngày đầu đến Xứ Lạnh, liên quan tới
dignity:
The ideal death takes place amid loved ones
The greatest dignity to be found in death is the dignity of the life
that
preceded it
Hope resides in the meaning of what our lives have been.
Ba câu trên đều nói về cái nhà Mít sau chiến tranh:
Cái chết lý tưởng là chết giữa những người thân thương.
Phẩm giá lớn lao nhất kiếm thấy được ở trong cái chết là phẩm giá cuộc
đời trước
khi cái chết xẩy ra.
[Đường ra trận mùa này đẹp lắm?]
Hy vọng thì nằm ở trong ý nghĩa cuộc sống của chúng ta.
*
Quái thật, không lẽ lúc nào Gấu cũng bị cuộc chiến nó hành, chỉ trừ
những lúc
nghĩ đến một BHD, hay một cô bạn, hay một cô học trò?
To have seen nothing or almost nothing except the face of a girl from Buenos Aires, a
face that
doesn't want you to remember.
Borges: Labyrinths Epilogue
Chẳng thèm nhìn ai, ngoại trừ khuôn mặt BHD, và cô nói, ta cấm mi không
được
nhớ tới ta.
*
V/v trong "them" có "us".
Cái phẩm giá mà Miền Nam
có được, là khi đi tù VC, đi tù cải tạo!
Cái phẩm giá mà VC có được, là ở trong những hồi ký, những tự vấn, như
của Tô
Hải.
Có người đặt vấn đề, tại sao cuối đời, họ mới dám nói ra? Tại sao Víp
Va Ka hấp
hối mới dám xì ra "một triệu người vui nhưng cũng có một triệu người
buồn"? Tại sao "Thượng đế thì cười" với Nguyễn Khải, khi ông sắp
sửa đi, tại sao bánh vẽ Chế Lan Viên....?
Ấy là vì cái chiến thắng đỉnh cao tuyệt vời quá. Không dễ gì mà thoát
ra khỏi
cái bóng của nó đổ xuống cả nửa hậu thế kỷ!
Và còn kéo dài qua tân thế kỷ!
Đúng như Trần Văn Toàn phán, về Hegel: Cái bóng của Hegel phủ kín Marx,
và còn
kéo dài ra mãi!
Chúng ta sở dĩ để mất Miền Nam vì nghĩ lầm, tưởng bở, anh Yankee mũi
tẹt tốt
hơn anh mũi lõ, một nưóc Mít thống nhất hơn hai nửa nước Mít, thành thử
để cái
bóng của Marx phủ quá xuống cả Đàng Trong!
NKTV
Tôi tin
rằng, có một sự huỷ
diệt Miền Nam.
Chiến thắng của Miền Bắc đã huỷ diệt nếp sống nhân bản hài hòa của Miền
Nam.
Sự huỷ diệt còn được đám VC miệt vuờn hỗ trợ, ăn theo. Những cuộc biểu
tình đòi
đất của đồng bào Miền Nam như đang xẩy ra, sự nghèo khổ đến tận cùng,
phải bán
con, qua những vụ lấy chồng người nước ngoài, bán cả con nít qua nước
láng
giềng... đó là những bằng chứng hiển nhiên của tội ác huỷ diệt.
Khủng khiếp hơn cả, là sự huỷ diệt niềm tin, vào người anh em ruột thịt
Miền
Bắc.
*
Khi nào văn chương trong nước dám đụng vô những chuyện như trên, về
"Trái
tim của bóng đen" [Hà Nội], về Khải Huyền Dối Trá [Giải phóng Miền Nam,
thống nhất đất nước], về Con Bọ [hiện tượng Chúa Sẩy Thai], thì lúc đó,
mới có
thể nói đến phê bình văn học.
Theo
nghĩa trên, Steiner đã từng phán về Lukacs: Vào thời của ông, thật khó
mà
làm, một phê bình gia. Bởi vì, đúng như đồng chí Nguyễn Văn Linh đã
từng nói,
có quá nhiều việc khẩn cấp cần phải làm ngay.
*
GEORG
LUKACS AND HIS DEVIL'S PACT
In the twentieth century it is not easy for an honest man to be a
literary
critic. There are so many more urgent things to be done. Criticism is
an adjunct....
.... Lukacs has always held himself responsible to history. This has
enabled
him to produce a body of critical and philosophic work intensely
expressive of
the cruel and serious spirit of the age. Whether or not we share
his
beliefs, there can be no doubt that he has given to the minor Muse of
criticism
a notable dignity. His late years of solitude and recurrent danger only
emphasize what I observed the outset: in the twentieth century it is
not easy
for an honest man be a literary critic.
But then, it never was.
G. Steiner: Georg Lukacs và tờ hợp
đồng với quỉ
Vào thế
kỷ 20 thật khó mà là một phê bình gia nếu là một người lương thiện.
Và, quả như thế thực!
NKTV
Đọc mấy bài dưới đây:
Rồi đọc tờ báo Tây, viết về xã hội bên Tây.
Andrew Lam
Ba mươi lăm năm sau cuộc chiến, câu
chuyện của Việt Nam
là sự phản
bội
And
even Ho Chi Minh, father
of Vietnam’s
Communism, it turned out, wasn’t safe from betrayal either. According
to a few
in Vietnam
who knew the inner working of the party, Uncle Ho apparently spent the
last few
years of his life under house arrest, his lover murdered and children
taken
away from him. It is what the novelist Duong Thu Huong, now living in
exile,
wrote about in her latest book, “Au Zénith,” a novel based on the
unofficial
history of Ho Chi Minh’s last years. Huong herself knew betrayal
intimately.
Once a member of the youth brigade in the Communist movement, she later
was
under house arrest for her books criticizing Communism, especially in “Paradise of the Blind.” Government officials
called her
“traitor slut.”
[Và
ngay cả Hồ Chí Minh, người
cha của Chủ nghĩa Cộng sản tại Việt Nam, hoá ra cũng không
thoát khỏi
sự phản bội. Theo một số ít người Việt hiểu biết nội tình của đảng, Bác
Hồ đã
trải qua những năm cuối của đời mình trong cảnh bị quản thúc tại gia,
người yêu
của ông bị giết chết và con cái bị lấy đi. Đấy là những gì tiểu thuyết
gia
Dương Thu Hương, hiện sống lưu vong đã viết trong cuốn sách mới nhất
của bà là
"Đỉnh cao chói lọi", một tiểu thuyết dựa trên lịch sử (2) không chính
thức về những năm cuối đời của Hồ Chí Minh. Bản thân bà Hương nếm mùi
bị phản
bội một cách sâu đậm (1). Từng là đoàn viên thanh niên trong phong trào
Cộng sản,
về sau bà bị quản thúc tại gia vì những cuốn sách phê phán Cộng sản,
đặc biệt
là cuốn "Những thiên đường mù." Các quan chức chính quyền gọi bà là
"con mẹ phản quốc."]
(1)
Từ "intimately", “mật
thiết”, dịch là "sâu đậm" thì không ra ý của tác giả.
Phải làm sao
kiếm ra một từ diễn cảnh phòng the, mà bị bội phản, mới ra cái ý "Huong herself knew
betrayal
intimately"!
Mít ta có một "hình ảnh", áp dụng vô đây hết sẩy con cào cào:
Trao duyên lầm tướng cướp.
Đúng là trường hợp DTH. Ngay từ thời còn con gái, là
đã một lòng một dạ theo Đảng. Rồi bị Đảng lừa, ngay đúng đêm động
phòng, thế mới hết
ý "betrayal intimately"!
Còn Bác Hồ, ngoài chuyện bị bội
phản, còn mắc đòn gậy ông đập lưng ông: Suốt đời Bác tự khoe một lòng
một dạ với
dân, đến không màng chuyện trai gái, thành ra há miệng mắc quai, đành
để chúng
làm thịt vợ, lấy mất đứa con, không cho gặp mặt bố.
(2)
history,
ở đây, nên dịch là
“tiểu sử”, của Bác. Dịch "lịch sử", sợ hiểu sai đi, thành lịch sử
nước Mít, thì bỏ mẹ cả lũ Mít chúng ta!
Cái
tít bài viết, nguyên tác tiếng Anh mạnh hơn nhiều, so với cái tít tiếng
Việt: 35 năm sau cuộc chiến, phản bội là câu chuyện của Việt Nam;
Thirty Five Years After The War, Betrayal is Vietnam's
Story.
*
Intimate:
-thân mật, mật thiết, thân
tính, quen thuộc
-riêng tư, riêng biệt; ấm cúng
-chung chăn chung gối; gian dâm, thông dâm
-(thuộc) bản chất; (thuộc) ý
nghĩ tình cảm sâu sắc nhất; sâu sắc (lòng tin...)
Từ điển trên net
\
LUXE OU
LUXURE? Alcool, sexe
et drogue font souvent partie des soirées de la Côte d'Azur
(ici, au VIP Room, à
SaintTropez). Une consommation mondaine difficile à quantifier.
L’Express,
12-18 Mai, 2010:
Les folies des milliardaires
Cận cảnh chuyện ăn chơi của
các thiếu gia Sài thành
May 20, 2010
Việt
Nam trong thì hiện tại
là một Việt Nam ở phía cuối của xã hội không tưởng của Orwell, như được
miêu tả
một cách châm biếm trong Trại Súc Vật, nơi mà "mọi súc vật đều bình
đẳng
nhưng một số súc vật thì bình đẳng hơn những con khác."
Andrew Lam [Bài đã dẫn]
Tờ Asia Literary Review, [Đọc văn Á châu] số mới nhất, có
bài viết của
Andrew Lam, Love your Parents, Follow
Your Bliss, kể câu chuyện ông chọn viết văn thay vì làm y sĩ, ngược
lại ý
muốn của cha mẹ, và một số bài dành cho Miến điện.
Bài xã
luận, Editor’s Notes,
viết:
Ở Rangoon,
người
ta nói, Orwell viết câu chuyện của Miến điện trong ba cuốn tiểu thuyết,
không
phải một, và họ gọi ông là Nhà Tiên Tri. Những ngày Miến, Burmese
Days, là câu chuyện quá khứ thực dân thuộc địa của Miến, Trại
Loài Vật, Animal Farm, những năm khủng
khiếp dưới chế độ độc tài của tướng Ne Win, và 1984:
Ác mộng ngày hôm nay, tạm dịch cụm từ “the soulless dystopia
of today”.
GNV lèm
bèm hoài về con bọ
VC, thì cũng là để nói về “the soulless dystopia of today”!
30.4.2010
Phim Thái Lan giành giải
Cành cọ vàng
Đề tài phim 'cũng' liên quan
tới
Lễ Tưởng Niệm 30 Tháng Tư năm tới!
Hiện giờ chúng ta có 3 “mấu
chốt”, clues, để tiên đoán lễ tưởng niệm 30
Tháng Tư 2011, nếu đúng như sự tưởng tượng của GNV:
1. Phim Chàng Hôi Chi Cụt
Tai [cú
thần kỳ chót phim]
2. Đề nghị của Tạ Chí Đại
Trường liên quan tới mồ mả lính Ngụy.
3. Phim Thái Lan mới ẵm
giải Cọ Vàng, và đề tài của nó [The
director thanked "all the spirits and all the ghosts in Thailand.
They
made it possible for me to be here."]
"bố lếu bố láo một
cách thật là tuyệt vời", wonderfully eccentric, chữ của tờ L.A.
Times, sẽ là ý nghĩa của lễ tưởng niệm
30 Tháng Tư 2011!
It was a great
night for a
guy named Joe, as Apichatpong Weerasethakul's "Uncle Boonmee Who Can
Recall His Past Lives," a film as wonderfully eccentric as it
sounds, won the Palme d'Or at the 63rd Festival des Cannes.
Thai director Weerasethakul,
who tells people to call him Joe because of the difficulty Westerners
have
pronouncing his name, has made a one-of-a-kind dreamy ghost story about
a man
who is on speaking terms with all manner of supernatural beings.
"This is like another
world for me. This is surreal," the director said on accepting the
prize
at the Palais des Festivals on Sunday night.
After telling jury president
Tim Burton, "I really like your hairstyle," he thanked "all the spirits
and all the ghosts in Thailand. They
made it possible for me to be here."
Source
*
Truyện chàng
Hôichi cụt tai
Nguyên tác : Hirai
Teiichi dịch
Lafcadio Hearn (từ Anh ra Nhật)
Người dịch : Nguyễn Nam Trân (từ tiếng Nhật)
Vài trăm năm trước ở vùng
Akamagaseki có một chàng mù tên gọi Hôichi (Phương
Nhất). Hôichi nổi danh về tài đánh tì bà và hát theo điệu đàn. Cái tài
đánh đàn
kể truyện anh chàng vốn có từ ngày còn bé. Khi hãy còn là một gã thiếu
niên,
tài chàng đã vượt cả thầy học. Chả thế mà mấy chốc Hôichi đã trở thành
nhạc sư
tì bà, sở trường về khúc "Truyện hai nhà Minamoto-Taira tranh hùng (1).
Người ta bảo khi Hôichi chơi đến đoạn nói về cảnh thủy chiến ở Dan no
Ura thì
não nùng ai oán đến "quỉ thần cũng phải cảm thương nhỏ lệ".
Lúc Hôichi chưa có danh chi, chàng ta rất nghèo. May nhờ có một người
tri kỷ
nâng đỡ anh. Người ấy là hòa thượng trụ trì chùa A Di Đà, một nhà tu
hành tinh
thông cả thi ca âm luật, lâu lâu vẫn gọi Hôichi đến chùa đánh tì bà cho
cụ
nghe. Hòa thượng thấy chàng trẻ tuổi tài cao, thường mến muốn giúp đỡ
đến độ
mời chàng đến trọ hẳn. Hôichi cảm lòng tốt của cụ, bèn nhận lời. Từ đó,
Hôichi
vào ở hẳn một gian hậu liêu. Cảm cái ơn cho nơi ăn chốn ở, hễ đêm nào
không có
khách mời chơi đàn, Hôichi vác tì bà đến đánh để hòa thượng giải sầu,
và như
thế thành lệ.
Chuyện xảy ra vào một buổi chiều mùa hạ. Hôm đó, một đàn việt có tang
ma, sư cụ
phải đi đọc kinh suốt đêm, mấy chú tiểu chú điệu đều tháp tùng. Hôichi
ở lại
canh chùa một mình. Trời nóng hầm, Hôichi lò mò ra ngoài hàng hiên
trước phòng
ngủ để kiếm chút hơi mát. Hàng hiên này nhìn ra khu vườn nhỏ phía sau
chùa.
Hôichi ra ngồi đây với ý định chờ sư cụ về nhưng ngồi một mình mãi
không làm gì
cũng buồn, chàng mới bắt đầu dạo một khúc tì bà. Quá nửa đêm mà sư cụ
vẫn chưa
về. Hôichi dợm vào phòng nằm duỗi tay chân một chút thì thấy không khí
trong
phòng hãy còn nóng, chàng ta mới ra ngoài lại. Vừa trở ra, Hôichi bỗng
nghe
tiếng chân người từ cánh cổng sau tiến lại gần. Ai đó đi xuyên qua cảnh
vườn
con, tiến về phía hàng hiên. Đang phỏng đoán như thế thì chàng ta thấy
bước
chân kia đã tới sát trước mặt mình, đứng sựng lại. Nhưng người đó không
phải là
hòa thượng. Một giọng to, khỏe cất lên gọi tên chàng mù. Giọng trịch
thượng, kẻ
cả như giọng samurai gay gắt gọi người dưới:
- Hôichi!
Hôichi quá kinh hoàng đến độ trong một chốc không cất thành tiếng.
Giọng nói
kia lại như ra lệnh:
- Hôichi!
- Thưa vâng!
Chàng mù lí nhí trả lời chả bù với giọng nói nhanh như gió cuốn của
người lạ.
"Thưa tôi mù loà, không thấy đường. Vị nào đang gọi tôi đấy ạ..."
- Ngươi chớ sợ.
Giọng nói bỗng có phần dịu lại, người lạ tiếp lời: "Ta nhân đóng quân ở
gần vùng này, có việc mới ghé qua đây. Chủ quân của ta là bậc cao quí,
xưa vẫn
ra vào chỗ cung cấm. Nay bề trên và đoàn tuỳ tùng của ngài ghé trọ qua
đêm ở
vùng Akamagaseki này, biết đến trận quyết chiến ở Dan no Ura nên ghé
vãng cảnh.
Bề trên nghe đồn tài kể chuyện của ngươi rất cao diệu, ngài muốn nghe
một khúc.
Vậy ngươi hãy mau mau lấy đàn theo ta đến chỗ dừng chân của các bậc tôn
quí.
Các vị ấy đang chờ ngươi đó!"
Thời ấy, samurai đã ra lệnh thì mọi người phải răm rắp tuân theo.
Hôichi vội
vội vàng vàng xỏ dép, vác đàn, đi theo người lạ. Người vũ sĩ nắm tay
Hôichi một
cách gọn gàng, kéo chàng ta đi nhanh như tên bắn. Bàn tay người lạ rắn
như thép
nguội, mỗi bước đi, bên sườn có tiếng lách cách như thể đang mang giáp
trụ. Có
lẽ người lạ là vũ sĩ cận vệ của một nhà quyền thế nào đó. Cái sợ hãi
buổi đầu
đã bớt dần. Hôichi điềm tĩnh trở lại và trong lòng bắt đầu rộn lên một
niềm
hãnh diện. Bởi vì anh chàng nhớ ra lúc nãy người lạ có nhắc đến mấy chữ
"một bậc cao quí ngày xưa vốn ra vào chỗ cung cấm", như vậy tài đàn
của mình đã lọt đến tai một bực đệ nhất công hầu nào rồi. Vừa nghĩ đến
đó thì
người vũ sĩ bỗng dừng bước. Hôichi lắng tai nghe và có cảm tưởng hai
người đang
đứng trước một cánh cổng lớn. Ở chốn xa thành thị phố xá như thế này,
ngoài
chùa A Di Đà chắc không làm sao có một cái cổng lớn cỡ này. Hôichi đang
nghi
hoặc thì tùy giả đã cất tiếng dõng dạc:
- Khai môn!
Không phải đợi lâu, có tiếng song hồng mở nặng nề, hai người đã bước
vào bên
trong cửa. Đi qua khỏi một khu đình viên khá rộng, cả hai đến một cánh
cửa
khác. Dừng chân ở đó, tuỳ giả lại hô lớn:"Có ai trong đó không, xin
được
bẩm đã đem Hôichi về đến đây rồi". Nói xong, có tiếng chân người từ bên
trong đi ra, lại có tiếng vách giấy mở ra, tiếng rèm cửa cuốn lên,
giọng đàn bà
con gái xì xào. Nghe họ trò chuyện với nhau, Hôichi thầm nghĩ những
người này
phải là bọn thị tỳ trong một phủ đệ. Chàng mù đâm ra lo lắng không biết
người
ta sẽ dắt mình đi đâu. Chưa kịp nghĩ ngợi gì, có người đã đưa tay dắt
chàng ta
đi lên năm sáu bậc thang. Đến bậc cao nhất, có lệnh phải cởi dép. Bàn
tay đàn
bà lại tiếp tục dắt Hôichi đi qua những khu hành lang lát gỗ nhẵn thín
và dài
tưởng chừng bất tận. Chàng mù rẽ quặt không biết bao nhiêu lần ngõ
ngách, cột
trụ, xuyên qua mấy gian phòng trải chiếu rộng thênh thang trước khi
được đưa
vào trong một gian đại điện. Hôichi nghĩ ôi chao, đại điện này hẳn là
nơi tụ
tập các vị tôn quí vì hắn nghe tiếng vạt áo lụa chạm nhau sột soạt như
tiếng lá
trong rừng xao động, tiếng người đông đảo đang trò chuyện với nhau. Họ
đang thì
thầm những gì, Hôichi không hiểu rõ nhưng ngôn từ họ dùng là của nơi
gác tía
lầu son.
Hôichi được lệnh cứ tự nhiên. Người ta bày trước mặt chàng một tấm nệm
tròn,
mềm mại và bảo ngồi lên. Hôichi đang nắn lại giây đàn thì một giọng đàn
bà đã
cất lên, dường như tiếng của lão chủ quản trong cung:
- Mi hãy so dây, bắt đầu dạo khúc "Truyện Heike" cho bề trên thưởng
thức đi. Nhưng nếu bà ta chỉ nói chừng đó thì Hôichi không biết phải
bắt đầu từ
đâu. Truyện nhà Taira dài lắm, kể biết mấy đêm mới xong. Hôichi mới
đánh bạo:
- Dám thưa Truyện Heike khá dài, một buổi không sao kể hết. Chẳng hay
bề trên
muốn nghe đoạn nào?
Hỏi đến đây thì giọng lão bà lại trả lời:
- Hãy kể cho ngài nghe đoạn quyết chiến ở Dan no Ura. Trong cả một
Truyện
Heike, đoạn này nghe buồn thấm thía nhất đấy.
Hôichi bèn từ từ cất giọng, kể lớp nói về trận thủy chiến khủng khiếp.
Tiếng
đàn khéo làm sống lại nào là tiếng mái chèo quạt nước, tiếng đoàn
thuyền lao
lên xung trận, tiếng tên bay xé gió, tiếng chân rầm rập xen với tiếng
quân reo
hò, tiếng đao kiếm giáp trụ chạm vào nhau soang soảng, tiếng người bị
đâm ngã
ùm xuống nước. Trong lúc Hôichi đang ra sức trình tấu, chung quanh
người nghe
đã bắt đầu xuýt xoa tán thưởng. "Làm sao lại có tay đàn tuyệt vời như
thế
nhỉ" , "Ngay ở kinh đô, cũng chưa nghe ai đánh hay đến vậy",
"Dưới gầm trời này, hỏi ai hơn được Hôichi!", bao nhiêu lời khen tặng
lọt vào lỗ tai chàng mù. Trong lòng Hôichi rộn một niềm tự hào, chàng
lại ra
sức đàn hát. Tán thưởng tưởng còn như không dứt thì chung quanh bỗng
nhiên trở
lại im lặng như tờ. Lúc ấy, khúc đàn đã tiến dần đến đoạn tả thảm cảnh
nhà
Taira, một đoàn người đẹp, trẻ thơ, bỗng nhiên gặp cảnh tuyệt mệnh,
thương tâm,
nhất là cảnh hai bà phi bồng ấu chúa trầm mình dưới giòng nước bạc.
Người nghe
ai nấy ngậm ngùi thở dài, chợt nổi lên đâu đây tiếng nấc tức tưởi nghẹn
ngào
rồi tiếng khóc oà vang. Tiếng khóc vỡ ra như không cầm lại được, chính
Hôichi
cũng phải ngạc nhiên không ngờ mình đã động mối thương tâm của người
nghe đến
thế. Tiếng khóc kéo dài một hồi lâu rồi như vơi đi, bốn bề bỗng yên
tĩnh trở
lại. Trong cái im lặng đó, giọng bà lão lại cất lên:
- Người đàn như thế thật trên đời có một không hai. Đã đành từng nghe
tiếng
người đồn dãi nhưng hôm nay xem mi trổ tài mới biết lời đồn kia còn
thua sự
thật. Đức vương thượng rất hài lòng. Ngài còn giáng chỉ cho chúng ta
bảo phải
ban cho mi nhiều tặng vật để thưởng công. Vậy kể từ đêm nay, trong suốt
sáu
đêm, mỗi đêm ngươi phải tới đây đánh đàn tiếp cho chúng ta nghe. Nếu
đức ngài
không phải lên đường thượng kinh gấp, thì ngày mai, cũng vào giờ khắc
này, sẽ
có người gọi mi tới dinh nầy. Kẻ dẫn đường cho mi hôm nay ngày mai sẽ
đến đón.
Ta chỉ có một điều căn dặn ngươi là chuyện bề trên ngự đến vùng
Akamagaseki
này, ngươi không được hé môi cho ai. Đức Ngài vi hành tới vùng này nên
không
muốn trong hay ngoài biết. Hôm nay như thế là xong, ngươi có thể lui về
chùa
được rồi.
Hôichi rạp mình chào xong, bàn tay thị nữ lại dắt chàng ta ra tận cửa,
ở đó,
người tùy giả lúc nãy đã đợi để đưa hắn về chùa. Vũ sĩ đưa Hôichi trở
lại mái
hiên chùa, rồi từ giã quay về. Lúc Hôichi trở lại chùa trời đã sáng
bạch nhưng
việc anh ta qua đêm ở ngoài, chẳng có ai để ý. Hòa thượng coi bộ đêm đó
về
khuya lắm, tưởng là chàng mù đã đi ngủ từ lâu nên chẳng bận tâm. Sáng
hôm sau,
Hôichi có nằm nướng một chút lấy sức nhưng cái chuyện kỳ lạ đêm qua,
anh ta
không để lọt ra ngoài một tiếng. Nửa đêm hôm đó, người vũ sĩ lại đến
tìm Hôichi
đi trình tấu ở chỗ các bậc tôn quí hội họp, và cũng như đêm trước,
chàng thu
lượm được muôn ngàn lời tán tụng. Tuy nhiên, trong lúc Hôichi đi đánh
đàn, ở
chùa người ta bỗng phát giác sự vắng mặt của chàng mù. Khi về chùa lúc
hừng
sáng, chàng ta được gọi đến trước mặt sư cụ. Sư cụ không bằng lòng chút
nào,
luôn miệng trách mắng:
- Hôichi, ta nói điều này chỉ vì ta lo cho ngươi thôi. Đã mù lòa, một
thân một
mình mà bỏ chùa đi đâu suốt đêm đến sáng. Thật không có gì nguy hiểm
hơn. Nếu
có đi đâu sao không bảo tụi nhỏ đứa nào nó dắt đi mà tự ý đi một mình
như vậy.
Thế chớ đến nay, người đã đi những đâu?
- Bạch sư cụ thứ lỗi cho con. Chỉ vì con có chút việc riêng mà ban ngày
ban mặt
không thu xếp xong phải kéo đến tối đấy ạ.
Hòa thượng coi mòi Hôichi không chịu nói thực, cụ không bực mình mà chỉ
ngạc
nhiên. Đây là chuyện không bình thường chút nào, hẳn có lý do chi đây.
Hoặc giả
chàng mù này đang gặp chuyện gì chẳng lành, bị ai lừa lọc gì chăng. Lo
thì lo
nhưng hỏi thêm không tiện, hoà thượng chỉ còn biết ra lệnh cho mấy điệu
phải
trông chừng nhất cử nhất động của chàng mù. Hễ mà đến đêm Hôichi còn bỏ
chùa đi
đâu nữa thì phải tức tốc theo dõi.
Đêm ấy, khi Hôichi vừa ra khỏi chùa thì đã có người biết. Mấy chú tiểu
chú điệu
liền xách lồng đèn theo dấu anh chàng. Thế nhưng trời đang mưa, đường
tối mịt.
Bọn nhà chùa vừa ra tới ngõ lớn thì đã hút mất bóng Hôichi. Làm như thể
Hôichi
có chuyện phải nhanh chân đi gấp. Không thấy đường mà đi được nhanh như
thế
thật có trời mới hiểu, nhất là đường sá gập ghềnh. Bọn nhà chùa bèn thử
xuống
dưới xóm, đến những nhà Hôichi quen biết xem hắn ta có ghé đó không. Họ
điểm
từng nhà hỏi thăm, không sót đâu cả thế mà chẳng ai rõ tung tích chàng
mù. Lúc
không còn biết đi đâu mới theo ven bãi lui gót trở lại chùa thì họ chợt
hoảng
kinh. Trong khu nghĩa địa chùa A Di Đà, bổng văng vẳng tiếng tì bà dồn
dập.
Phía khu mộ địa tối om vẫn chập chờn đôi ba ánh lửa ma trơi như mọi
hôm. Theo
ánh lửa đèn lồng, bọn trai trẻ nhà chùa rốt cục tìm ra Hôichi trong
nghĩa địa.
Giữa cơn mưa tầm tã, Hôichi đang ngồi thẳng lưng trước lăng Thiên Hoàng
Antoku,
tay đàn miệng hát, dáng điệu đau đớn thiết tha, kể sự tích cuộc tranh
chiến ở
Dan no Ura. Chung quanh Hôichi toàn là bia, là mộ, ngổn ngang gò đống,
và trên
đó, hàng hàng lớp lớp những ngọn lửa quỉ lạnh lẽo chập chờn. Từ trước
đến giờ,
chắc chắn chưa có ai thấy một nơi nào mà ma trơi tụ tập nhiều như ở đây.
- Chú Hôichi ơi, chú ơi!
Bọn trai trẻ gào lên. "Chú Hôichi ơi, ma nó ám chú rồi!"
Chàng mù như không đếm xỉa gì đến lời nói đó. Không những thế, chàng ta
càng
mạnh tay đàn, cao giọng hát, dồn hết tâm lực như kể truyện trận quyết
chiến Dan
no Ura. Bọn nhà chùa nắm vai Hoichi, lay lấy lay để và nói như thét vào
tai
:"Chú Hôichi, chú Hôichi ơi, theo bọn tôi về chùa thôi!" Bỗng lúc đó,
Hôichi quay lại chúng, nói như mắng:
- Trước mặt bậc cao quí như thế này mà chúng mày dám ồn ào. Coi chừng
mất đầu
đấy nhé!
Lời nói chẳng ăn nhập gì đâu vào đâu làm bọn trai trẻ nhà chùa không
khỏi phì
cười. Đã đến mức này thì họ biết Hôichi gặp đúng của gì rồi. Họ bèn hè
nhau
dùng sức kéo Hôichi dậy và bốc hắn về chùa. Theo lời dạy của sư cụ, họ
thay
quần áo khô và cho hắn ăn hắn uống. Thế rồi hòa thượng giục Hôichi phải
tường
trình về hành vi lạ lùng của hắn.
Ban đầu, Hôichi còn trù trừ không muốn nói nhưng cuối cùng, nghĩ đến sư
cụ xưa
nay vẫn chu đáo với mình, mà mình lại làm phiền, mới đem tình thực giãi
bày. Từ
chuyện người samurai nửa đêm đến tìm mình cho đến những chuyện gì đã
xảy ra từ
đó đến nay, đều thuật lại cho nhà sư.
Hòa thượng lúc đó mới nói:"Hôichi, thật tội nghiệp cho ngươi. Ngươi
đang
gặp nạn lớn đấy. Khổ nỗi là ngươi không chịu kể cho ta chuyện này sớm
hơn. Trăm
điều nguy khốn xảy đến cho ngươi cũng vì do cái tài đánh đàn tì bà. Tuy
nhiên,
lúc này ngươi phải tỉnh táo để tìm cách chấm dứt cơ sự này. Mấy đêm nay
ngươi
chẳng đi đánh đàn ở nhà ai cả, chỉ ra ngồi ở khu mả họ Taira trong
nghĩa trang
nhà chùa đó thôi. Thật ra, hồi hôm, bọn nhỏ nó tìm ra ngươi giữa đêm
mưa trước
lăng thiên hoàng Antoku đấy. Có thể là ma dẫn lối quỉ đưa đường cho
ngươi nhưng
những gì ngươi đã gặp đều là huyễn ảnh thôi. Một khi đã nghe lời ma quỉ
thì
chúng sẽ trói buộc ngươi mãi mãi. Nay đã đến tình cảnh này chỉ còn có
cách
không bao giờ chịu nghe theo chúng nữa, nếu không có ngày chúng phanh
thây.
Thật đấy, chẳng chóng thì chầy chúng sẽ giết ngươi thôi... Mà này,
Hôichi, hôm
nay lại có đàn việt mời đi cầu siêu suốt đêm, bắt buộc ta phải rời
chùa, không
thể ở bên ngươi được. Dầu sao, trước khi đi ta cũng sẽ viết kinh lên
trên người
để làm bùa hộ mạng cho ngươi.
Trước khi tắt nắng, hòa thượng bảo Hôichi phơi trần ra rồi cùng tăng sĩ
trông
việc sổ sách kho đụn, cả hai lấy bút lông xúm lại viết kinh lên người
chàng mù.
Từ ngực đến lưng, cả trên đầu, trên mặt, tay chân, cùi chỏ... ngay cả
gan bàn
chân cũng được chép đầy Ban Nhược Tâm Kinh, coi như toàn thân không
thiếu chỗ
nào. Chép kinh xong, hòa thượng mới ôn tồn:
- Đêm nay, khi ta đi xong, ngươi nhớ ra ngồi chỗ hàng hiên hậu liêu mà
chờ. Tất
nhiên ma kia sẽ đến đón. Thế nhưng dù có chuyện gì xảy ra chăng nữa,
nhất thiết
ngươi không được trả lời, không được động đậy. Cứ câm như hến, ngồi đấy
thiền
định theo phép Tam Muội, chuyên tâm vô niệm cho ta. Hễ ngươi rục rịch
hay mở
mồm là ngươi tới số đó nhé. Nói vậy chứ ngươi đừng sợ hãi gì, có gì xảy
ra cũng
chớ mở miệng kêu cứu, kêu cứu chỉ tổ chết sớm. Cứ làm đúng từng li từng
tí lời
ta căn dặn thì ngươi sẽ thoát hiểm từ đây.
Tối đến, hòa thượng cùng tăng sĩ thủ kho ra đi. Hôichi đúng lời sư cụ
dặn, ra
ngồi trước hàng hiên. Chàng mù đặt cây đàn tì bà trên sàn ván, ngồi
nghiêm
trang nhập định. Tâm thần yên ắng, không một tiếng ho khẽ, không một
hơi thở
mạnh. Cứ như thế, Hôichi ngồi chờ từ giờ này sang giờ khác. Dần dà, đã
nghe
tiếng chân bước từ chỗ phía khách vãng lai tiến về phía mình. Tiếng
chân đi
ngang cửa gỗ, thông qua khu vườn đến bên hàng hiên, dừng lại trước mặt
Hôichi.
- Hôichi! Vẫn cái giọng khỏe, oang oang, cất tiếng gọi. Thế nhưng lần
nầy,
chàng mù nén thở, im tiếng, châu thân bất động.
- Hôichi! Tiếng quát lần thứ hai lanh lảnh rợn người. Lần thứ ba nó trở
nên hằn
học.
- Hôichi!
Hôichi vẫn ngồi im như tượng đá. Giọng nói kia không giữ được sự bực
bội:
- Không trả lời! Quái! Thằng khốn nạn kia nó biến đi đâu nhỉ?
Tức khắc đã nghe tiếng chân bước thô bạo lên hiên. Tiếng chân xáp gần
Hôichi
rồi bỗng nhiên khựng lại. Hôichi cảm thấy trống ngực đập thình thịch,
người run
lẩy bẩy. Bên cạnh, vẫn không có một tiếng động nào.
Thoạt nhiên , cái tiếng nói thô bạo kia bỗng ghé sát bên tai chàng mù:
- Tì bà thì có mà nhạc sĩ tì bà không thấy. Chỉ có hai cái lỗ tai treo
ở đây!
... Có tai mà không nghe để trả lời. Chắc muốn trả lời mà không có
miệng. Cả
người chỉ còn lại cặp tai! ... Được rồi, đến thế này thì ta chỉ còn
cách đem
cặp tai này cho bề trên để có chứng cứ là ta đã làm đúng mệnh lệnh của
ngài.
Chỉ trong một sát na, Hôichi đã cảm thấy hai ngón tay cứng như thép
nguội giật
lấy tai hắn ta, rồi xoẹt, hai tai đã đứt lìa. Khỏi phải nói chàng mù
đau nhói
đến tâm can nhưng cắn răng không thốt nửa lời. Tiếng chân kia từ từ
bước xuống
khỏi hàng hiên, đi qua khu vườn, xa dần về phía cổng hậu rồi mất hút.
Hôichi
cảm thấy hai bên đầu có cái nước gì nóng nóng đang ròng ròng chảy xuống
nhưng
vẫn không dám đưa tay lên sờ.
Tờ mờ đất, hòa thượng mới khăn gói về chùa. Đến nơi, cụ đã tức tốc chạy
xuống
phía hiên hậu liêu. Bỗng sư cụ dẫm lên cái gì nhờm nhớp, trượt chân
suýt ngã.
Rồi cụ bỗng hoảng hốt vì dưới ánh sáng ngọn đèn lồng, đó là một vũng
máu. Nhìn
ra thì trên hàng hiên, Hôichi vẫn ngồi chính tọa trong tư thế nhập
định, từ vết
thương, máu nhỏ xuống nhuộm đỏ cả người.
- Hôichi đó hả ! Sư cụ ngạc nhiên kêu "Trời Phật ơi, làm sao đến nỗi bị
thương thế này ? "
Nghe tiếng hòa thượng, Hôichi biết nguy hiểm đã qua, bật lên khóc rồi
bù lu bù
loa kể sự thể những gì xảy ra đêm qua.
- Tội nghiệp ơi là tội nghiệp !
Hòa thượng không cầm được tiếng than. "Trăm sự cũng tại ta bất cẩn.
Viết
kinh lên khắp người của ngươi mà lại không viết lên tai. Thấy chỗ tai
hẹp, khó
viết ta mới cậy thủ kho viết giùm, mà chính ta cũng chẳng chịu kiểm xem
hắn có
viết cho chưa. Để đến nỗi này là do ta sơ ý... Nhưng có hối cũng đã
muộn, điều
gấp rút bây giờ là trị liệu cho ngươi chóng bình phục. Hôichi, chớ có
buồn nữa,
phải vui lên vì kể từ nay, tai qua nạn khỏi rồi. Chắc chắn ma quỉ chẳng
còn đến
đây hạch sách quấy nhiễu ngươi nữa đâu ."
Nhờ lương y tận tâm, chẳng bao lâu, vết thương của Hôichi đã lành lặn.
Câu
chuyện kinh dị xảy đến cho chàng mù được đồn đãi nhanh chóng, danh
tiếng chàng
nổi lên như cồn. Bao nhiêu nhà giàu có cao quí đua nhau tới vùng
Akamagaseki để
thưởng thức ngón đàn của chàng, thi nhau cho vàng tặng lụa. Chẳng mấy
lúc
Hôichi trở thành giàu có. Thế nhưng vì câu chuyện quái dị kể trên mà
Hôichi
mang cái hỗn danh là "chàng Hôichi cụt tai".
Nguyên tác : Hirai Teiichi dịch
Lafcadio
Hearn (từ Anh ra Nhật)
Người dịch : Nguyễn Nam Trân (từ tiếng Nhật)
(đã đăng ở Hợp Lưu)
Chú thích
(1) Cuộc thư hùng giữa hai giòng họ quyền thần Taira, (Bình, còn gọi là
Heike
(Bình gia)) và Minamoto (Nguyên, còn gọi là Nguyên thị (Genji)) thời
trung cổ
Nhật Bản, cũng giống như những cuộc tranh phong Trịnh Nguyễn, Lê Mạc
của ta.
Tháng 3 năm 1185, danh tướng Yoshitsune nhà Minamoto đánh tan đoàn
chiến thuyền
Taira ở Dan no Ura và mở màn cho chính trị mạc-phủ Kamakura. Cả một nhà Taira bị diệt
vong,
thiên hoàng Antoku (cháu ngoại họ Taira, tuổi hãy còn thơ) cũng chết
trong trận
thủy chiến. Sinh hoạt của hai giòng họ đã để lại những cổ điển bất hủ
như Genji
monogatari (Nguyên thị vật ngữ), một tác phẩm phong lưu được coi như
truyện
Kiều của Nhật, hay anh hùng ca Heike monogatari (Bình gia vật ngữ).
Kết cục
của truyện như trên,
khác hẳn trong phim, đại khái như sau:
Ngày hôm sau, tất cả triều
đình, hồn ma quân cán chính… của cả một miền đất, ban ngày ban mặt, cứ
như diễn
binh, tới trình diện họ Trịnh, nghe họ Trịnh hát rong kể lại cuộc oan
khiên là
giải phóng mà biến thành ăn cướp, là trận đánh làm thịt Miền Nam.
Nghe xong,
bao nhiêu hồn ma, như được thanh tẩy, cứ thế chìm dần vào “vương quốc
bên kia”,
từng hồn ma, chờ đến lượt mình đầu thai…
"Giữa
những 30 Tháng
Tư", sẽ có một 30 Tháng Tư, là ngày hội Rửa Oan, Thanh Tẩy, Tảo Mộ, Xá
Tội, Người Chết Người Sống Gặp Nhau, nghe đọc ca dao, nghe kể chuyện
tình bằng
nồi ngô khoai, nghe tiếng guốc mộc gõ lạch cạch át tiếng đô la...!
Như cú chót trong phim chàng Hôi Chi Cụt Tai.
Hà, hà!
30.4.2010
Dân Thái
chiến đấu đòi dân chủ
mấy tháng nay.
Bây giờ, tới lúc đếm xác chết!
Hình Paris Match, 20-26 Mai, 2010
Sun,
May 30, 2010 1:36:44 PM
Ông đúng là 1 kẻ vô học
From: Thái Du Trương
To: TV
Hà,
hà!
Cóc mở miệng!
Gấu
này, sợ có học hơn ông Thái Dúi!
Nhưng với một tên VC mất hết nhân tính, như ông, thì đành phải tỏ thái
độ vô
học thôi. (1)
(1)
Ngoài bài này, còn bài của
anh Trương Thái Dúi, cũng cùng một tông,
đem đủ thứ anh hùng vĩ nhân
trong lịch
sử ra đọ với Bác.
Lịch sử quả có nhiều vĩ nhân.
Nhưng những huyền thoại về họ
thường là được đám đệ tử, hậu thế phịa ra, để phù hợp với vĩ nhân, và
sự nghiệp
để lại cho đời.
Cứ giả như Bác Hồ là vĩ nhân,
thì cái sự nghiệp của ông là cái gì nếu không phải là những tai ương,
những điêu
tàn, đổ nát, lòng nguời ly tán?
Yêu hay ghét Bác Hồ thì cũng đâu
có thay đổi được thực tại đất nước?
Cần mở
ngoặc thêm về Ngô Đình Diệm và sự
thất bại không thể nào khác của
ông ta ở đây. Một lãnh tụ không có huyền thoại đã là không ổn, ngoài ra
họ Ngô
lại còn là một giáo dân Thiên Chúa.
Thái Dúi (1)
(1) Bạn
phải đọc ngược, thì mới
ra tên của anh này.
Diệm thất bại, là
đúng. Ông
không có huyền thoại, theo cái kiểu tự đút ống đu đủ vào đít mình thổi
mình, mà chỉ có bi thoại, như cả một Miền Nam có bi
thoại, là một
lòng một dạ tin vào thằng anh ruột Bắc Kít của nó.
Nhân vật Diệm này, là do niềm
tin về một lực lượng thứ ba, và một Mít hoàn toàn Mít, theo nghĩa quốc
gia, dân tộc, không Việt gian, Pháp gian và nhất là không Cộng sản. Đây
là đề tài
cuốn Người Mỹ Trầm Lặng của
Greene. Khi tác giả viết truyện đó, ông
không thể ngờ, nó tiên tri ra thời hậu chiến Mít, chứ không phải là ở
thời khi
bắt đầu, với cú bom xe đạp ở Catinat.
Đây cũng là điều dân
Miến nói
về nhà tiên tri Orwell:
Tờ Asia
Literary Review, [Đọc văn Á
châu] số mới nhất, có bài viết của Andrew Lam, Love your Parents,
Follow
Your Bliss, kể câu chuyện ông chọn viết văn thay vì làm y sĩ, ngược
lại ý
muốn của cha mẹ, và một số bài dành cho Miến điện.
Bài xã luận, Editor’s Notes, viết:
Ở Rangoon,
người ta nói, Orwell viết câu chuyện của Miến điện trong ba cuốn tiểu
thuyết,
không phải một, và họ gọi ông là Nhà Tiên Tri. Những ngày Miến, Burmese
Days,
là câu chuyện quá khứ thực dân thuộc địa của Miến, Trại Loài Vật, Animal
Farm, những năm khủng khiếp dưới chế độ độc tài của tướng Ne Win,
và 1984:
Ác mộng ngày hôm nay, tạm dịch cụm từ “the soulless dystopia
of today”.
*
ngoài ra họ Ngô lại còn
là một giáo dân Thiên
Chúa.
Đúng là đồ khốn kiếp!
Obama đen thùi lùi mà làm tổng thống Mẽo đấy!
Tín hữu Ky Tô không phải là Mít.
Dân Nam Bộ cũng không phải Mít.
Chỉ Bắc Kít là Mít.
Đó là lý luận của những tên Thái Dúi, Đông B này.
Đọc blog của chúng,
giọng đầy
hận thù với Ky Tô giáo, chúng gọi là Kiêu dân.
Kiêu sao bằng Bắc Kít?
Ác sao bằng Bắc Kít?
Độc sao bằng Bắc Kít?
Cứ coi tình trạng đất nước bây
giờ thì rõ.
Bác Hồ,
như hồ sơ mật Điện Cẩm
Linh ngày càng làm lộ ra, là một người bán mình cho Đệ Tam Quốc Tế.
Người ăn lương
của Đông Phương Cục, và là nhân viên của cơ quan này, suýt mất mạng
trong vụ
Stalin thanh trừng đám cựu trào. Những điều trên bây giờ đều là những
sự kiện,
facts, không phải huyền thoại. Bác Hồ có thể là vĩ nhân, nhưng không
phải hoàn
toàn của dân Mít chúng ta. Chán thế.
Ngô
Đình Diệm mang trong ông
huyền thoại về một con người Mít hoàn toàn Mít, không đảng phái, không
Đệ Tam, Đệ
Tứ, không Việt gian bán nước cho Tây, cho Tầu, cho Liên Xô. Cùng với
huyền thoại về một vĩ nhân Mít hoàn toàn Mít đó, là huyền thoại về một
lực lượng thứ ba, như Gấu
đã từng lèm bèm nhiều lần, đây là đề tài của cuốn Người Mỹ
Trầm Lặng của Greene. Fowles khuyên anh chàng Mẽo ngây thơ,
trầm lặng, mang Phượng về Mẽo, quên mẹ nó lực lượng thứ ba đi: lịch sử
diễn ra đúng
như vậy, nước Mẽo đã dang tay đón bao nhiêu con người Miền Nam bị cả
hai bên bỏ
rơi, những cô Phượng ngày nào.
NT vs HCM
Từ
trước giờ Gấu viết Gấu đọc, bạn văn VC chắc có đọc, chẳng dám lên
tiếng, rồi VC không phải bạn văn, hẳn
là đọc, nhưng cũng vờ. Vậy mà hai cú chúng lên tiếng liền tù tì, là cú
dám đụng
vô Hoàng Cầm, bây giờ là Bác Hồ, và cháu ngoan của Bác là anh Thái Dúi!
Cũng thú!
Cái
nick Thái Dúi này, Gấu
mượn của một anh bạn tù. Do tên tiếng Việt rất dễ trùng, nên đám tù
phải đặt nick
để
phân biệt.
Một trong những cái nick tuyệt vời nhất mà Gấu còn nhớ là Sơn Mê Ô, tức
Sơn
Méo; rồi Thái Dúi, Hùng Võ Sĩ, Thành Tô Ma… Gấu, không có nick, và bởi
vì Gấu
là tên già nhất, chúng gọi là Bố, thời gian ở Đỗ Hòa, Nhà Bè. Một phần
còn là
vì Gấu lo công việc y tế trong Đội, anh nào muốn nghỉ một ngày lao
động, là
phải năn nỉ Gấu.
Anh Thái Dúi này, mơ biết mấy, thì cũng chẳng mong có 1 ngày đuợc làm
người tù cải
tạo!
Ban cho đặc ân như vậy, mà còn chửi Gấu là kẻ vô học!
*
Nhưng, Gấu thực sự không tin,
tay Thái Dúi này hiểu được nỗi đam mê, thèm 'hỗ trợ thế giới', thèm có
được 1, chỉ 1, và chỉ 1 mà thôi, 1 ngày cải
tạo, như
TCS thèm 1 ngày lính, như anh chàng Kiệt trong Bếp Lửa của TTT, thèm
trở về để kịp chết vì cuộc chiến, như là
một anh sĩ quan VNCH bị lầm là VC!
Cái anh
tù Thái Dúi, Gấu nhớ
ra rồi. Đó là thời gian tù ở nông trường Phạm Văn Cội, Củ Chi, cũng rất
ư là
thiên đường. Nông trường nằm lẫn trong dân, ngay đằng sau lều là
nhà dân, thành thử tắm rửa, đánh răng, rửa mặt gì gì cũng chạy qua bên
đó; ngược
lại, do dân đói hơn tù, nên bao nhiêu phần ăn tù, thường nhường hết cho
dân, vì
tù khi đó, mới giải phóng mà, còn có thăm nuôi đầy đủ, và cũng không xa
thành
phố.
Kỷ niệm
thật tuyệt, lần Gấu Cái lần đầu tiên thăm nuôi. Đám tù túa ra nhìn
ngắm, tấm tắc, có anh
còn có vẻ tủi thân. Thái Dúi bỗng chêm một câu giữa những ồn ào, lần
sau chị đi
thăm nuôi, nhớ mặc áo dài, tụi này thèm nhìn cái áo dài thành phố quá!
Nhưng lần đầu Gấu Cái đi thăm
nuôi tại nông trường Đỗ Hòa, thì thật quá thê luơng, nhưng về già, nhớ
lại vẫn
thấy tí tức cười!
*
Những Bí Ẩn Về Nguyễn Tấn
Dũng
Hoàng Dũng Cập nhật :
01/06/2010 01:28
Ông
Hoàng Dũng ký tên dưới bài này không biết có thực
không, song những "bí sử thâm cung" mà ông kể, chúng tôi đã được nghe
từ cửa miệng của một cộng tác viên trực tiếp của ông Nguyễn Văn Linh
(khi ông
Linh làm tổng bí thư). Tất nhiên, cũng phải thêm là chúng tôi xin giới
thiệu
bài này với "sự dè dặt thường lệ". Nhân tiện, cũng xin "bật
mí" he hé một sự việc khác. Việc này không do ông Linh nói với ai cả.
Bạn
đọc có thể vào mục hình ảnh của Google, bảo nó bấm hình ông Nguyễn Văn
Linh và
hình ông Lê Hồng Anh (đại tướng công an, bộ trường bộ công an). Xin cứ
so sánh
hai nét mặt, rồi rút ra kết luận, hay ít ra là một giả thuyết.
Note:
Cái Sa Pô này là của
"người chúng ta ở Paris"!
Cũng một thứ
nằm gầm giường như nhà đại phê bình
mà thôi!
Dân Mít đâu cần mấy thứ chuyện "bật mí" này?
Con thằng chó chết nào dân Mít cũng từ chết đến… chết!
Đặc
biệt, từ thuở còn thanh
niên cụ Hồ đã có một mối tình đầu rất đẹp với một người con gái miền
Nam (sự
thật này đã được nhà văn Sơn Tùng sưu tầm và công bố trong bài viết “đi
tìm Út
Huệ”), do vậy cụ Hồ có một ấn tượng và thiện cảm đặc biệt với những
người phụ
nữ Nam bộ. Biết thế nên Bộ chính trị đã chỉ đạo cho Trung ương cục miền
Nam, mà
lúc này Nguyễn Văn Linh là Bí thư Trung ương cục, phải kín đáo tìm kiếm
trong
số những cán bộ, du kích miền Nam một vài cô gái còn trẻ, đẹp để đưa ra
miền
Bắc phục vụ cụ Hồ và các vị trong Bộ chính trị. Thời điểm đó thì Võ Văn
Kiệt
đang là ủy viên Trung ương cục được cụ Nguyễn Văn Linh tin tưởng tuyệt
đối và giao
cho trực tiếp phụ trách nhiệm vụ đặc biệt này. Trong số vài cô gái
tuyển lựa
được lúc đó đang chuẩn bị bố trí bí mật đưa ra miền Bắc, có một cô còn
trẻ và
rất sắc sảo họ Phan. Giữa lúc đó thì tình hình chiến sự đang diễn ra
khá ác
liệt nên không thể đưa các cô đi ngay được và rồi không hiểu thế nào mà
ông
Kiệt lại quan hệ dan díu với chính cô gái họ Phan kia. Đến lúc sự việc
vỡ lở
thì cô gái đã có thai được mấy tháng rồi. Thế là cô ta phải ở lại và
cái bào
thai đó chính là vị tổng Giám đốc Tracodi : Phan Thanh Nam
sau này.
Quà
Miền Nam
dâng Bác mà Sáu Dân cũng nếm trước. Giả như cô gái không dính bầu, thì
đúng là Bác hưởng sái!
Hay là cũng tính buôn vua, như Lã Bất Vi?
Ôi
chao, bây giờ thì Gấu giải
ra được cái thai đố ẩn tàng trong câu phán khủng khiếp của Kafka rồi:
"Trong cuộc chiến đấu
sinh tử
tay đôi giữa mi và thế giới, hãy hỗ trợ thế giới."
“Dans le combat entre toi et
le monde, seconde le monde”
“In the duel between you and
the world, back the world.”
Franz Kafka, “Suy nghiệm về tội
lỗi, đau khổ, hy vọng và con đường thực sự, le vrai chemin”.
*
“Trước kia, tôi không hiểu tại
sao người ta không trả lời câu hỏi của tôi, bây giờ tôi không hiểu tại
sao tôi
lại cho rằng tôi có thể đặt câu hỏi. Nhưng thật ra tôi không tin gì cả,
tôi chỉ
hỏi để hỏi, vậy thôi”
«Autrefois je ne comprenais
pas qu'on pût laisser ma question sans réponse, aujourd'hui je ne
comprends pas que j'aie pu croire
possible de questionner. Mais je ne croyais pas du tout, je
questionnais
seulement.»
(Franz Kafka, « Méditation sur
le péché... »)
Mi phịa
ra nỗi đau Lò Cải
Tạo, mi đúng là thằng khùng!
Mi phịa ra
Cái Ác Bắc Kít, mi
thuổng Anus Mundi, Hậu Môn Thế Giới, của Milosz, mi…
*
« Tu peux t'abstenir des
souffrances du monde, tu es libre de le faire et cela répond à ta
nature; mais
cette abstention est peut-être précisément la seule souffrance que tu
puisses
éviter. »
(Franz Kafka, « Méditation sur
le péché ... »)
Mi có thể tránh né khổ đau của
thế giới, mi vô tư làm chuyện đó, bởi vì mi là như thế; nhưng biết đâu
đấy, cái
sự tránh né này chính là nỗi đau khổ độc nhất mà mi có thể tránh né!
NAISSANCE D'UN ADJECTIF
«
Kafkaïen, ienne, adj. (v.
1950). Qui rappelle "atmosphère oppressante des romans de Kafka. "
L'adjectif qualificatif -
reconnu officiellement par le Petit Robert - est le reflet d'une gloire
ambiguë, mais certaine, qui n'a pas toujours servi l'écrivain, à la
fois
célèbre et méconnu. Alexandre Vialatte, le premier traducteur en
français, s'en
irritait déjà il y a vingt ans. "En 1926 ( ... ), je croyais lancer un
des
princes de l'humour. Je retrouve un roi des ténèbres."
Tôi tưởng tôi giới thiệu một
trong những ông hoàng tiếu lâm, hóa ra là vì vua của đêm đen
Vialatte, dịch giả Kafka ra
tiếng Tây, 1926
Un
homme souterrain
L'écrivain praguois était un
rat de l'écriture qui n'avait besoin que d'une plume et d'une lanterne
pour
survivre
Người dưới mặt đất
Nhà văn Prague là một con chuột
chữ chỉ cần một ngòi viết và một ngọn đèn soi để sống sót.
Ui chao
lại nhớ lần đầu tiên
đến nhà bạn C…. (1)
Ui chao lại nhớ những lần len lén bò dậy trong khi cả nhà yên giấc, mò
ra cái
bàn, bật ngọn đèn, y chang một tên ăn trộm...
(1)
Ngay từ những ngày đầu tới
chơi, thấy anh T. ngồi co cả hai chân lên ghế, trước một cái bàn nhỏ ở
góc nhà,
tôi đã tưởng tượng, phải nói là đã mơ ước, tương lai của mình sau này
rồi sẽ y
hệt như vậy...
Một
Người Anh
Hình
căn cước
Trong
hồi ký của Nguyễn Hiến Lê, khi về già, sau 1975,
ông có kể, về một lần ông bị đau, mà không làm sao tìm ra căn do, sau
nhờ một ông
bác sĩ khám phá ra, da qui đầu của ông chưa được cắt.
Gấu nhớ chuyện này, khi đọc cuốn La Circoncision, của Bernhard
Schlinh, tác giả Người đọc chuyện, The Reader.
Gấu khám phá ra ông khi đọc truyện trinh thám, policier, Mùa hè ở
Mã nhật
tân, có lúc tưởng là có hai ông khác nhau, nhưng chỉ một.
Qua một nhân vật trong La Circoncison (1), một thứ "tân truyện",
dài hơn truyện ngắn, ngắn hơn truyện dài, kiểu Kẻ Xa Lạ, Bếp Lửa,
tác
giả cho rằng, người Do Thái đã phát minh ra cái trò cắt da qui đầu, để
có con
chim “thật ra trò”, [không mềm như bún, thì cứ nói đại ra ở đây].
Ở Tây phương, theo như Gấu được biết, khi bé trai sinh ra, là họ cắt da
qui đầu
liền tù tì, để ngăn trường hợp như đã xẩy ra với NHL.
Lễ cắt da qui đầu, La Circoncision, là câu chuyện 50 năm sau Đệ
nhị chiến,
Andi, một anh cu Đức, và Sarah, một hĩm Do Thái, gia đình sống sót Lò
Thiêu,
thử sống tình yêu, mặc dù gánh nặng quá khứ.
Đọc, GNV lẩn thẩn tự hỏi, hay là mình phịa ra cái trò ‘đau đáu nỗi đau
Lò Cải Tạo’
cho Bắc Kít, Yankee mũi tẹt?
Chúng có bao giờ đau nỗi đau này đâu!
(1)
Gấu coi lại, đây là một trích đoạn từ truyện dài,
Tình trốn chạy, Amours en fuite
De
même, tandis que j'écrivais sur Auschwitz et la
torture, je ne comprenais pas encore clairement que ma situation ne
pouvait se
ramener entièrement au concept de "victime nazie" ; ce
n'est qu'en arrivant à la fin de mon travail et en méditant sur la
nécessité et
l'impossibilité d'être juif que je me reconnus aussi dans l'image de la
victime
juive.
Jean Améry
Chỉ một thằng Bắc Kít di cư 1954, thí dụ như
Gấu, thì mới đau cái 'đau thắng trận 30 Tháng 4 1975', tới hai lần:
Một, như là ‘nạn nhân Nazi’, một, như là ‘nạn nhân Do
Thái’!
Moi, je
traine le fardeau de la faute collective, pas
eux.
Jean Améry
Tớ, Gấu Nhà Văn, vác gánh nặng Lò Cải Tạo, không phải chúng!