Notes
1
2
|
Tôi viết về
những người cam chịu lịch sử
Note:
Đây là
thứ lịch sử "của đám đông" mà Cao Hành Kiện rất tởm.
Cũng là thứ lịch sử
mà cả một đất, Miền Nam, "cam chịu", cho dù cuộc chiến đã chấm dứt, để
có được sự
phát sinh ra con bọ VC.
*
Tôi
muốn đề
cập đến một mặt khác của chiến tranh, chính xác hơn là nói đến những
người tham
gia chiến tranh một cách đặc biệt, chưa từng được nhắc đến trong các
cuộc tổng
kết, các buổi hội thảo, những người tham gia chiến tranh bằng việc đi
tù. Những
người đóng góp vào cuộc chiến không phải bằng sinh mạng của mình mà
bằng tự do
của mình. Với kinh nghiệm sống trong một đất nước liên tiếp có những
cuộc chiến
tranh, tôi hiểu chiến tranh không chỉ đến một mình. Bao giờ nó cũng có
một người
bạn đồng hành: Nhà tù. Đó là người anh em sinh đôi của chiến tranh.
Trong chiến
tranh, việc gìn giữ hậu phương là vô cùng quan trọng. Hậu phương là gốc
rễ, là
cội nguồn, là căn cứ bảo đảm sống còn cho tiền tuyến, cho chiến đấu và
chiến thắng.
Khẩu hiệu:
Dù phải đốt cháy dẫy Trường Sơn cũng vẫn chiến đấu tới thắng lợi hoàn
toàn đã
thể hiện rõ quyết tâm của miền Bắc giành chiến thắng bằng bất kỳ giá
nào. Sự có
mặt của 50 vạn sĩ quan và binh lính Mỹ cùng quân đội các nước đồng minh
như Nam
Triều Tiên, Úc,... tại miền Nam Việt Nam đã đẩy miền Bắc Việt Nam vào
những năm
tháng cực kỳ gay go gian khổ: Dốc toàn bộ nhân lực, vật lực, hy sinh
tất cả cho
cuộc chiến.
Trong cuộc
chiến tranh khốc liệt này, miền Bắc thực hiện chủ trương pha lê hoá hậu
phương.
Những người đã từng cộng tác với Pháp, với Mỹ, những người có biểu hiện
thiếu lòng
tin vào sự lãnh đạo của đảng Cộng Sản, những phần tử đáng ngờ, những kẻ
trộm cắp,
du thủ du thực,... tóm lại tất cả những gì là vẩn đục so với yêu cầu
trong như
pha lê của một xã hội cần pha lê hoá, đều bị tập trung cải tạo và đó
được coi
là một biện pháp không thể thiếu. Hơn nữa, nó còn có ý nghĩa răn đe
những người
khác, hướng tất cả vào mục tiêu chung.
BNT
Chưa từng có
những dòng biện minh nào tởm lợm hơn, cho tính thú vật của một chế độ
toàn trị,
như là những dòng này. NQT
*
Và,
ai cho anh cái quyền viết
về những người cam chịu lịch sử đó?
*
The
Writer as Migrant
Phát ngôn viên và Bộ lạc: The
Spokesman and The Tribe
Ở vào lúc khởi nghiệp, nhà văn thường phải vật lộn
với những câu hỏi, anh là
ai, viết cho ai, mắc mớ thế nào, mà viết? [to whom, as whom, and in
whose
interest does he writes?].
Những câu trả lời sẽ hé ra tầm nhìn, đề tài, và có khi còn quyết định
luôn văn phong
của anh ta.
Hắc búa nhất là câu hỏi, viết cho ai? Bởi vì câu này liên quan tới ý
nghĩa, cảm
quan, về căn cước và truyền thống của nhà văn, và cả hai món này, thì
đều không
luôn luôn vũ như cẩn, và có thể thay đổi.
Những câu trả lời lúc thoạt đầu của tôi, xem ra thật giản dị. Trong lời
nói đầu
của cuốn Giữa những im lặng, Between Silences, cuốn thơ đầu của
tôi, tôi
viết, “Như là một kẻ may mắn tôi nói cho những người không may mắn, đã
đau khổ,
đã chịu đựng, và đã tàn tạ cuối cuộc đời, và những người đã sáng tạo ra
lịch sử,
và cùng lúc, bị nó biến thành điên khùng, và bị huỷ diệt bởi nó”. Tôi
nhìn tôi
như là một nhà văn Trung Quốc viết bằng tiếng Anh nhân danh những con
người bị
tiêu trầm, không có cả một dịp may để mà cất tiếng nói. Vào lúc đó, tôi
chưa hề
mảy may quan tâm đến sự đa đoan rắc rối, và có những điều không thể nào
làm được,
của một người chọn một vị thế như thế, đặc biệt là một con người như
tôi.
Quá
nhiều thành
thực, chân thành, tâm địa tốt… là một điều nguy hiểm. Nó có thể làm nổ
tung cái
đầu!
Ha Jin
“Như là một kẻ may mắn tôi nói cho những người không may mắn, đã đau
khổ, đã
chịu đựng, và đã tàn tạ cuối cuộc đời, và những người đã sáng tạo ra
lịch sử,
và cùng lúc, bị nó biến thành điên khùng, và bị huỷ diệt bởi nó”.
Câu phán của Ha Jin, bảnh hơn của nhà văn BNT!
Sự có mặt của 50 vạn sĩ quan và binh lính Mỹ cùng quân
đội các nước đồng
minh như Nam Triều Tiên, Úc,... tại miền Nam Việt Nam đã đẩy miền Bắc
Việt Nam
vào những năm tháng cực kỳ gay go gian khổ: Dốc toàn bộ nhân lực, vật
lực, hy
sinh tất cả cho cuộc chiến.
OK. Nhưng sau đó, chiến thắng rồi, thì sao?
Với kinh nghiệm sống trong một đất nước liên tiếp có
những cuộc chiến tranh,
tôi hiểu chiến tranh không chỉ đến một mình. Bao giờ nó cũng có một
người bạn
đồng hành: Nhà tù. Đó là người anh em sinh đôi của chiến tranh.
Tù cải tạo đâu phải... bạn đồng hành của chiến tranh?
*
Khi
vinh danh Cao Hành Kiện,
là HLV Thuỵ Điển làm rõ ra điều này: Lịch sử con người chống lại lịch
sử đám đông. Cái mới của văn học nhân
loại, ngày nay, đó
là: Đây là tiếng
nói của cá nhân, như tên một bài
tiểu luận của CHK: The
voice
of the individual.
Đây là một bài viết tuyệt vời
của ông, và bất cứ nhà văn nào cũng nên đọc, để hiểu ra một sự thực,
văn học
thế giới đã hoàn toàn thay đổi, đã thực hiện được một bước ngoặt vĩ
đại: Khi
một trí thức đối đầu với một xã hội, như là một cá nhân, sự hiện hữu
của anh ta
càng là thực. Nếu cái ngã của một trí thức tan biến cái
ngã lớn lao tập thể, cái gọi là “chúng
ta’, cái ngã cá nhân không còn nữa. [When the intellectual
confronts society as an individual, his existence is more real. If the
self of
the individual is dissolved in the collective big self, or what is
known is
‘we’, the individual self no longer exists.]
I
am a
Chinese writer, only
one person, and I cannot represent others. China
for me is not that huge race
or abstract nation; it is simply the cultural background that manifests
itself
in my writings, the culture's impact on me since my birth, and the
modes of
thought, nurtured by the Chinese language, that I use in my writings. I
also
acknowledge the influence of Western cultures, and I am interested in
the other
cultures of Asia and the cultures of
African
races and others. The idea of a pure racial culture in this era of
cultural
fusion is a slogan to cheat people, and nothing more than a myth.
Cao
Hành Kiện: Tiếng nói cá
nhân
Tôi
là một nhà văn Trung
Quốc, chỉ một người, và tôi không thể đại diện những người khác. Trung
Quốc đối
với tôi không phải là một giống dân lớn đó hay một quốc gia trừu tượng;
nó giản
dị là một cái nền tảng văn hóa tự biểu tỏ qua những bài biết của của
tôi, một
vết hằn văn hóa lên tôi ngay từ khi ra đời, và những lề thói tư tưởng,
suy
nghĩ, được nuôi dưỡng bằng ngôn ngữ Trung Quốc, mà tôi sử dụng trong
những bài
viết của mình. Tôi cũng thừa nhận ảnh hưởng của những nền văn hóa Tây
phương,
và tôi quan tâm tới những nền văn hóa khác của Á châu, và những nền văn
hóa của
những sắc dân Phi châu, và những sắc dân khác. Ý nghĩ về một nền văn
hoá ròng,
của riêng một sắc dân nào đó, tại một miền mà mọi nền văn hóa được nung
chẩy,
hoà nhập trộn lẫn vào như thế, thì chỉ là một khẩu hiệu, để lường gạt
dân
chúng, chẳng khác gì một huyền thoại.
*
Literature
as Testimony: The
Search for Truth
Nobel
Jubilee Symposium on
Witness Literature delivered in December 2001 at The Swedish Academ,
Stockholm
THE TOPIC I
WlSH TO DISCUSS
is literature and testimony. I am presuming that those here today will
not
object to the claim that literature testifies to human existence, and
would
agree that truth is the minimum requirement for such literature.
Literature is
subservient to nothing but truth, and in this domain of the free
spirit, the
writer obeys only one command: to search for that truth. In fact, truth
has
always been the most fundamental criterion of literature - that is, if
literature that transcends practical utilitarianism continues to be
valued,
still justifies personal suffering, and is still worth writing.
Đề
tài mà tôi mong được bàn
bạc ở đây là văn chương và chứng tích. Tôi cứ giả dụ như là quí vị có
mặt tại
đây sẽ không phản đối, về một phát biểu, rằng, văn chương là đế chứng
tỏ hiện
hữu của con người, và cũng sẽ đồng ý, rằng, sự thực là một đòi hỏi tối
thiểu
cho một thứ văn chương như thế. Văn chương thì chẳng phụ thuộc chi,
ngoài sự
thực, và trong miền tinh thần tự do này, nhà văn chỉ vâng theo một mệnh
lệnh:
hãy tìm kiếm sự thực. Đúng ra, sự thực luôn luôn là tiêu chuẩn cơ bản
nhất của
văn chương – nghĩa là, nếu văn chương mà vượt thoát ra được, thăng hoa
ra khỏi
được cái cái chủ nghĩa duy dụng thực tế, và vẫn tiếp tục có giá trị,
vẫn làm
chứng được về những đau khổ của của từng cá nhân con người, và vẫn đáng
để
viết.
Tuy
nhiên, trong thế kỷ vừa
mới chấm dứt [thế kỷ 20], chính trị xen vào văn chương, kìm kẹp nó tới
một mức
xưa nay chưa từng có trong lịch sử nhân loại. Cái trò lưu manh lường
gạt ý thức
hệ, trước đây cũng chưa hề có, biến văn chương thành tuyên truyền chính
trị,
hay sử dụng nó vào những mục tiêu chính trị. Cách mạng văn chương và
văn chương
cách mạng đã chẳng sáng tạo ra một thế giới mới đẹp đẽ, thay vì vậy,
tước đoạt
của văn chương cái bản chất cơ bản của nó, hứa hẹn biển máu, và, viện
tới sự
hung bạo ngôn ngữ, biến miền tự do tinh thần thành bãi chiến trường.
Cái
thứ văn chương dấn thân
chính trị thì đại trà ở cả Tây lẫn Đông. Phê bình văn chương chủ yếu là
chỉ để
chụp mũ chính trị cho nhà văn, hoặc tả phái hay hữu phái, tiến bộ hay
bảo thủ.
Dưới những chế độ toàn trị, những cái mũ như trên mới vô cùng khốn nạn,
cùng
cực khốn nạn. Nếu một nhà văn không yêu nước, vậy nó là một tên phản
quốc; nếu
nó không cách mạng, thì là một tên phản động, không có vị trí ở giữa,
nước đôi.
Nhật ký
Đọc
bài viết của Bùi Ngọc Tấn,
Gấu nhớ đến một bài khác, trên net [đã post lại trên Tin Văn, nhưng mò
không
ra], viết về một vụ mấy anh VC xử tử Việt Gian, hồi đầu “Cách Mạng”, và
trước
khi chết, mấy anh Việt Gian hô lớn:
Hồ Chí Minh muôn năm!
Bị Bác Hồ làm thịt, mà vưỡn
hoan hô Bác Hồ và lũ quỉ sứ đệ tử của Bác.
Thế mới ghê!
Đâu có khác gì trường hợp Bùi
Ngọc Tấn!
*
In
Andrei Makine's Dreams
of My Russian Summers, the narrator meditates on how to bear
witness:
"And they [the Russians who were busy writing personal memoirs] did not
understand that history had no need for all these innumerable little
Gulags. A
single monumental one, recognized as a classic, sufficed." (36). As
this
implies, the writer should be not just a chronicler but also a shaper,
an
alchemist, of historical experiences.
The writer should enter history
mainly through the
avenue of his art. If he serves a cause or a group or even a country,
such a
service must be a self-choice and not imposed by society. He must serve
on his
own terms, in the manner and at the time and place of his own choosing.
Whatever
role he plays, he must keep in mind that his success or failure as a
writer
will be determined only on the page. That is the space where he should
strive
to exist.
Phát
ngôn viên và Bộ lạc: The
Spokesman and The Tribe
Lịch sử Yankee mũi
tẹt không
cần đến ba cái lẻ tẻ, là mấy anh tù, cải tạo hay không cải tạo.
Nếu
BNT tự chọn cho mình làm
cái kẻ viết cho những kẻ cam chịu lịch sử, thì OK.
Nhưng
Đảng đếch cần anh làm
chuyện này!
*
Sự thực, cái trang Tin Văn
được dựng lên, không phải để viết văn, để làm thơ, mà để cảnh báo
về...
Cái Ác Bắc Kít!
Nhưng
bi giờ, già quá rồi,
hay nói như Đức Phật Sống, “Hết
Hy Vọng”, hay,
nói như Đức Khổng Tử, "Đạo
ta hỏng rồi", Gấu quyết định, ngưng đọc, chỉ viết về những ngày hạnh
phúc,
khi ở tù VC!
Những ngày ‘cam chịu’ lịch sử!
NQT
*
Còn một thứ lịch sử 'Những người đã chết đều có thực', nhưng
bị... thuổng mất rồi!
Xin coi Tự Kiểm
Nhưng, quả có một nhà văn
Nga, chuyên viết về cái gọi là cam chịu lịch sử. Đó là Makine.
Tác phẩm mới nhất của nhà văn
Nga, Andrei Makine, Goncourt 1995, Cuộc
đời của
một người vô danh, La Vie d’un homme inconnu, vẫn là một tác
phẩm viết
về cuộc chiến. Nhân vật người lính già của ông, Volki, đã từng kinh qua
cuộc
vây hãm Leningrad,
cuộc chiến,
trại tù Goulag… Nước Nga được làm nên từ những con khủng long vô danh,
tuyệt
tích giang hồ đó.
Khi được hỏi, “Comment est-ce
possible?”
Làm sao có thể có chuyện đó? [L’Express, 29 Tháng Giêng, 2009],
ông trả
lời:
Có cả một thế hệ những con người như thế bị bỏ vào thùng rác của lịch
sử. Họ đã
dâng hiến hết cuộc đời của họ cho xứ sở, cho cuộc chiến, và bây giờ họ
bị coi
như là những quái vật, des extraterrestres. Tôi muốn viết về họ, những
con quái
vật bị bỏ lại khi con nước thủy triều lịch sử đã rút xuống. Nếu văn
chương có
một lý do hiện hữu, thì đó là, nó cho những con người đó lời nói của họ.
Nhìn như thế, thì Mít chưa hề có thứ văn chương tham dự cuộc chiến,
đừng nói
chuyện ngoảnh mặt. Chẳng lẽ bao đời sau, nhìn lại cuộc chiến, thì lại
vẫn thứ
“Đường ra trận mùa này đẹp lắm” ư?
Trong
chiến tranh,
làm chuyên viên vô tuyến viễn ảnh cho hãng UPI, Gấu này đã từng nhìn
thấy những
chùm ảnh, thí dụ, của ba anh bộ đội bị xiềng vô một khẩu súng máy, vô
phương bỏ
chạy, và khi anh thứ nhất bị bắn chết, thì anh thứ nhì dùng chiếc xích
sắt kéo
khẩu súng về chỗ anh nằm, và bắn tiếp. Chúng ta chưa hề được nghe tiếng
nói của
những con người đó, hay của một anh đào ngũ, hay trốn vô chiến trường
Miền Nam,
và cả gia đình bị liên lụy, bố mẹ bị bắt giam, gia đình bị cúp tem
phiếu lương
thực, bị phỉ nhổ, bị làm nhục
Và
Makine nói
thêm, luôn có một điều gì đó để mà gìn giữ trong một thời đại.
[Il y a toujours quelque chose à sauver dans une époque].
*
Một
trong những
người cam chịu lịch sử Gấu biết được, là Cô Hồng Con, con gái một gia
đình địa
chủ, bị dân làng Thanh Trì, quê hương của Gấu, nhốt trong căn nhà của
bố mẹ, sau khi đã làm thịt họ. Đói,
bịnh thương hàn, khát nước, nửa đêm, cô bò qua hàng rào lửa, tới bờ ao
ngay ngoài cổng, và
gục chết
ngay nơi bờ ao.
Lần
về lại Đất
Bắc, sau khi nghe bà chị kể, Gấu đau lòng quá, bà chị chắc là cũng nhận
ra, bèn an ủi,
hồi đó "phong trào" mà, thôi bỏ qua đi em!
Những dòng
biện minh của BNT, thì cũng giống như thái độ của bà chị của Gấu, thôi
mà, cam
chịu lịch sử đi mà.
Khốn
nạn thật!
*
Ông đã gánh cây thập ác đi trọn
con đường trần ai của mình.
Không vứt xuống.
Không chạy trốn.
Không gục ngã.
Không dừng bước.
Và dẫu không là Chúa, ông đã được phục sinh.
PXN
*
Bảnh
thật!
Bảnh
hơn cả Chúa, bởi vì Chúa vác thập tự, té lên té xuống!
Ông
thì Thấy Phật.
Ông
thì Phục Sinh, và sau đó, còn được qua Mẽo. Được Mẽo chi
tiền biểu diễn show WJC.
Thảm
thật!
*
Lịch
sử một đất
nước, một dân tộc thường được biết đến như lịch sử những cuộc chiến
tranh. Lịch
sử Việt Nam càng chứng tỏ điều ấy. Những cuộc chiến tranh chống phong
kiến
phương Bắc (Trung Hoa), những cuộc chiến tranh với Chiêm Thành, và
những cuộc
chiến tranh “mở mang bờ cõi”. Đó là chưa kể những cuộc nội chiến như
Trịnh -
Nguyễn phân tranh kéo dài bao nhiêu năm tháng.
BNT
Cuộc
nội chiến Trịnh Nguyễn phân tranh và cuộc chiến “đỉnh cao” đều có
thể
được coi là mở mang bờ cõi, của sắc dân Yankee mũi tẹt.
Cả
lịch sử Mít đều có thể coi như lịch sử của sắc dân Yankee mũi tẹt,
và cùng với nó, nền văn minh sông Hồng, trong suốt chiều dài chống Bắc
Phương và mở mang
bờ cõi
Nam Phương.
Nhìn
như thế, chúng ta "đành phải"
gọi
đích danh cuộc chiến đỉnh cao: Ăn cướp Miền Nam!
Bởi
vì nếu thực sự là cuộc chiến giải phóng thống nhất đất nước, không
thể nào
có cái vụ Lò Cải Tạo.
Một
khi còn lấp liếm, còn đánh tráo sự kiện, danh xưng… thì còn lấn
cấn, khi
phải viết về những người cam chịu cuộc chiến.
Cái
vụ việc ‘pha lê hóa’ Miền Bắc trong chiến tranh, thì có khác gì
‘pha lê
hóa’ Miền Nam, bằng cách làm cỏ sạch Ngụy?
*
Bởi
là vì BNT nhắc đến Camus, mà ông lấy ra từ ông này, cái sự cam chịu
lịch sử, Gấu bèn lọ mọ gọ google, tìm nobel.org, thì nó ra trang này:
Official
Site of the Nobel Family Web site.
SHAME
!
Shame
on
those who would use violence upon innocents to achieve an end to their
means.
09/11/01
Click
here
to see some of the
Nobel
family web pages..
Administered by Zachariah Nobel
Looking for the
Nobel Foundation and the Nobel Prize winners? If so, then go on to
their proper location at:
http://www.nobel.se
*
Vòng hoa Nobel:
The Nobel
Prize in Literature 1957 [Camus] "for his important literary
production,
which with clear-sighted earnestness illuminates the problems of the
human
conscience in our times"
Diễn văn
Nobel của Camus:
... Le rôle de
l'écrivain, du même coup, ne se sépare pas de devoirs difficiles. Par
définition, il ne peut se mettre aujourd'hui au service de ceux qui
font
l'histoire : il est au service de ceux qui la subissent. Ou sinon, le
voici
seul et privé de son art. Toutes les armées de la tyrannie avec leurs
millions
d'hommes ne l'enlèveront pas à la solitude, même et surtout s'il
consent à
prendre leur pas. Mais le silence d'un prisonnier inconnu, abandonné
aux
humiliations à l'autre bout du monde, suffit à retirer l'écrivain de
l'exil
chaque fois, du moins, qu'il parvient, au milieu des privilèges de la
liberté,
à ne pas oublier ce silence, et à le relayer pour le faire retentir par
les
moyens de l'art.
[By the same token], the writer's role is not free from
difficult duties. By definition he cannot put himself today in the
service of
those who make history; he is at the service of those who suffer it.
Otherwise,
he will be alone and deprived of his art. Not all the armies of tyranny
with
their millions of men will free him from his isolation, even and
particularly
if he falls into step with them. But the silence of an unknown
prisoner,
abandoned to humiliations at the other end of the world, is enough to
draw the
writer out of his exile, at least whenever, in the midst of the
privileges of
freedom, he manages not to forget that silence, and to transmit it in
order to
make it resound by means of his art.
Cái câu BNT trích dẫn Camus, nguyên đoạn nó như trên.
Và như
thế, những kẻ cam chịu lịch sử này, đều là nạn nhân của chủ nghĩa toàn
trị, mà
chủ nghĩa CS là một trong số đó.
Nếu
BNT viết về nó, thì là để tố cáo cái chế độ khốn kiếp
đó, như ý Camus muốn nói, chứ sao lại bẻ quẹo qua:
Họ có quyền được chia sẻ
niềm tự hào, dù là sự tự hào nhục
nhã?
*
Họ đâu cần cái quyền
tự hào cà chớn đó?
Gấu
chẳng tự hào tí nào cả, khi "cam chịu lịch sử", từ 30 Tháng Tư 1975
tới khi bỏ
chạy thoát quê hương!
*
Câu của
Camus, dịch theo kiểu 'Anh Hai' của Gấu, đại khái như vầy, ‘nhà văn,
thay vì làm
tà lọt cho những kẻ làm ra lịch sử, thì làm bồi cho những kẻ chịu đựng
[không
phải cam chịu] lịch sử’, câu này Mít đọc không sướng bằng câu của
Greene (1).
(1) "The
novelist’s station" he [Greene] insists "is on
the ambiguous borderline"; a writer, like a double agent, “must be able
to
cross over, to change sides at the drop of a hat”.
Cái trạm sở của tiểu thuyết gia thì ở vùng biên cương mù mờ; nhà văn,
thì cũng
một thứ gián điệp hai mang, nhưng 'phải dám vượt lằn ranh, đổi bên liền
lập tức
khi cái nón [tai bèo] vừa rớt xuống'. Graham Greene .
*
Loyalty breeds treachery.
Trung thành sinh ra phản bội
Peter Kemp: The Human Factor, Introduction
*
Trung thành sinh ra phản bội.
Mấy ông nhà văn VC không thể nào hiểu ra điều này.
Nguyễn
Khải có thể đã mơ hồ hiểu ra, khi ông đổi trú sở, bỏ chạy
Hà Nội vô Sài Gòn, và nhập ngay vào với cái không khí biên cương mù mờ,
và viết
được mấy cuốn, nhưng lại chiếu sáng chúng bằng ánh sáng của Đảng. Bằng
sự trung
thành, đời đời biết ơn Đảng!
Giá mà ông có dũng khí, chắc là đã dám phản bội, và hiểu ra chân lý,
phản bội
mới đúng là trung thành với Đảng!
The Human Factor
The Voice of the Individual
I AM HIGHLY
SUSPICIOUS WHENEVER the name of a collective is invoked; I actually
become
afraid that this collective name will strangle me before I have the
chance to
say anything. "Chinese intellectuals" is a collective noun that I
cannot, of course, represent, and I am terrified that if it represents
me I
will be annihilated. However, it happens to be one of the issues for
discussion
today, and it may be said to be a very important issue.
Tôi
rất hơi bị nghi ngờ cứ mỗi khi tập thể lên tiếng. Tôi sợ nó bóp cổ tôi
lè lưỡi
ra, trước khi tôi thốt ra, dù chỉ một lời. "Tầng lớp trí thức Tầu" là
một danh từ tập thể mà tôi không thể đại diện, lẽ dĩ nhiên, và tôi sợ
đến khiếp
vía, nếu nó đại diện tôi, thì tôi sẽ tan biến vào hư vô!
Cao Hành Kiện
Quít làm, Cam chịu
[Lịch sử]
Note:
Đây là
thứ lịch sử "của đám đông" mà Cao Hành Kiện rất tởm.
Cũng
là thứ lịch sử
mà cả một đất, Miền Nam, "cam chịu", cho dù cuộc chiến đã chấm dứt, để
có được sự
phát sinh ra con bọ VC.
Câu
của
Camus - Par définition, il [l'écrivain] ne peut se
mettre aujourd'hui au service de ceux qui font l'histoire : il est au
service
de ceux qui la subissent - dịch theo kiểu 'Anh Hai'
của Gấu, đại khái như vầy, ‘nhà văn,
thay vì làm
tà lọt cho những kẻ làm ra lịch sử, thì làm bồi cho những kẻ chịu đựng
[không
phải cam chịu] lịch sử’, câu này, dân Mít miệt vườn đọc không sướng
bằng câu của
Greene (1).
(1) "The
novelist’s station" he [Greene] insists "is on
the ambiguous borderline"; a writer, like a double agent, “must be able
to
cross over, to change sides at the drop of a hat”.
Cái
trạm sở của tiểu thuyết gia thì ở vùng biên cương mù mờ; nhà văn,
thì cũng
một thứ gián điệp hai mang, nhưng 'phải dám vượt lằn ranh, đổi bên liền
lập tức
khi cái nón [tai bèo] vừa rớt xuống'. Graham Greene.
*
Cái vụ hoan
hỉ cam chịu lịch sử này, Gấu sợ văn sĩ VC Bùi Ngọc Tấn lấy hứng, không
phải từ Camus, mà
từ mấy thằng nhà văn Ngụy!
Thảo
Trường chẳng đã từng phán:
...
Cho tới năm 1975, tội lớn nhất của Cộng Sản, là thắng trận và chiến
công lớn nhất của Cộng Hòa là thua trận!
Gấu,
trong bài
viết về Sơn Nam, cũng đã thỏ thẻ:
Khi
còn ở Trại
Cấm, nhân có một cán bộ Cộng Sản thất sủng, bị anh em đồng chí tính cho
đi mò
tôm, nên đành phải vượt biển, và được đậu thanh lọc, rồi sau đó xẩy ra
một cuộc
tranh luận gay gắt giữa một số người. Người cán bộ đã nói thẳng ra một
điều: tại
sao các anh không giải phóng chúng tôi, tại sao các anh tạo ra tình
cảnh cả nước
phải đi ăn mày tình thương của toàn thể nhân loại... Khi lấy được Miền
Nam, có
thể giấc mơ muôn đời của Miền Bắc đã được thực hiện: Giải phóng cho
chính mình,
rồi sau đó, cho cả nước. Đối với lịch sử, Miền Nam chỉ có công: Thất
trận.
*
Tuy nhiên,
những lời phán như thế, là, trước khi có hiện tượng Chúa Sẩy Thai, hiện
tượng VC
ăn nhằm cứt phồn vinh giả tạo của Mẽo bỏ lại, và gen bị đột biến, biến
thành bọ,
thành ruồi.
Giá như có cái nhà Mít to lớn đàng hoàng, thì mới có chuyện hoan hỉ,
cam chịu lịch sử, ông nhà văn VC ơi! Ông nhảm quá!
Viết như thế
là làm nhục thêm một lần nữa, cái vụ đi "tù vì lương tâm"!
*
Cái ý tưởng
làm ‘nhục thêm một lần nữa’… tình cờ làm sao, đúng khi vừa viết ra, thì
Gấu đọc
được những dòng sau đây, trên tờ TLS May 29, 2009:
Như
vậy là những nạn nhân của Stalin chết thêm một lần thứ nhì, ở trong hồi
ức của nhân loại.
Ấy là vì nhân loại chỉ biết đến Lò Thiêu Auschwitz của Hitler, mà không
hề biết đến Lò Cải Tạo của Bác Xì, Bác Mao, Bác Duẩn!
*
Nhưng, như
Hitler của Steiner, đã từng biện minh cho cái Ác Lò Thiêu, nếu không có
nó, làm
sao có quốc gia Israel?
Nhờ
pha lê hóa
Miền Bắc, nên thắng cuộc chiến đỉnh cao chói lọi. Nhờ pha lê hóa Miền
Nam, đuổi
sạch giống Ngụy. Nhờ vậy mà nhân loại có thêm sắc dân, dân tộc ngồi
thuyền, boat people?
Liệu
có thể dịch
thuật ngữ “pha
lê hóa”, đặc biệt của BNT, sang tiếng Anh, tiếng U, là “cleansing”?
Ui
chao, đúng bong! Sau 30 Tháng Tư, những đợt đánh tư sản mại bản,
tống dân thành phố đi Kinh Tế Mới, tống sĩ quan Ngụy vào Lò Cải Tạo...
là đều nằm trong chủ trương pha lê hóa Miền Nam, "tẩy uế" nó, trước
khi đón ông chủ mới là Yankee mũi tẹt!
Nhà văn "phục sinh" BNT nếu thực sự là nhà văn, thì phải viết về những
kẻ cam chịu lịch sử đó!
*
“Après
Auschwitz, écrire un poème est barbare, et la connaissance exprimant
pourquoi
il est devenu aujourd'hui impossible d'écrire des poèmes en subit aussi
la
corrosion. »
Sau
Auschwitz, làm một bài thơ thì dã man, và sự hiểu biết dẫn giải ra cái
điều, tại
làm sao bây giờ đếch có thể mần thơ, chính sự hiểu biết đó cũng ‘cam
chịu’ sự bào
mòn.
T.
W.
Adorno, Critique
de la culture et société
Pour
les
écrivains d'après 1945, l'ambition la plus noble, et c'est ce qu'il a
bien vu,
était de trouver une langue et des formes servant la construction d'un
avenir
qui, dans son caractère négatif, posait l'événement Auschwitz comme
fondateur.
Cette ambition “antibarbare” subsiste. Dès 1944, Albert Camus
entrevoyait
l'ampleur de la tâche: « Ce qui caractérise notre siècle, ce n'est pas
tant
d'avoir à reconstruire le monde que d'avoir à le repenser. Cela revient
en fait
à lui donner son langage. »
Với
những nhà
văn sau 1945, tham vọng bảnh nhất của họ, là, tìm ra được một ngôn ngữ,
và những
thể loại, để xây dựng tương lai, và cái tương lai này, thì tiêu cực, và
đây phải
là bản chất của nó, và đặt cái biến cố Lò Thiêu như là cái nền, cái cột
đồng trụ.
Tham vọng ‘chống lại dã man’ này thì cứ phải giữ dịt lấy mãi. Ngay từ
năm 1944,
Camus đã ngộ ra điều này, và 'chàng' phán: "Điều đặc trưng của thế kỷ
của chúng ta,
thì không phải là xây dựng thế giới, mà tái suy tư về nó. Nói vậy thì
cũng có
nghĩa là đem đến cho nó một ngôn ngữ”.
Theodor
W.
Adorno: La
Culture est-elle morte à Auschwitz?
[Văn
hóa ngỏm
ở Lò Thiêu ư?]
Le Magazine
Littéraire số Tháng Giêng 2005, đặc biệt về Văn chương và Nhà tù [La litérature
et les Camps]
Sau
Lò Thiêu,
làm đếch gì có thứ nhà văn nhà thơ dễ dãi và sung sướng, hay thứ văn
chương ngây
thơ và vô tội?
Sau Tân Trào, đọc CKN2000, chỉ muốn hưởng mùi tù Tân Trào!
*
Hồi
đó “phong
trào” nó là như vậy. Bà chị Gấu giải thích. Còn BNT giải thích, “trong
cuộc chiến tranh khốc liệt này, miền Bắc thực hiện chủ
trương pha lê hoá hậu phương. Những người đã từng cộng tác với Pháp,
với Mỹ, những
người có biểu hiện thiếu lòng tin vào sự lãnh đạo của đảng Cộng Sản,
những phần
tử đáng ngờ, những kẻ trộm cắp, du thủ du thực,... tóm lại tất cả những
gì là vẩn
đục so với yêu cầu trong như pha lê của một xã hội cần pha lê hoá, đều
bị tập
trung cải tạo và đó được coi là một biện pháp không thể thiếu. Hơn nữa,
nó còn
có ý nghĩa răn đe những người khác, hướng tất cả vào mục tiêu chung.”
Tại
làm sao mà cả một miền đất lại nhắm mắt nhắm mũi đi theo "phong trào",
chấp nhận
pha lê hóa, thản nhiên nhìn một cô gái vô tội bị ‘bức tử’, như thế?
Những
nhà văn Đức, của thời hậu Nazi, cũng gặp tình trạng y chang, và cố gắng
giải thích,
nhưng không như BNT, tất nhiên!
Trước
Littell, tác giả Những kẻ thiện tâm,
cả nửa thế kỷ, trước Hannah Arendt
và ý niệm
sự "tầm phào của Cái Ác" của bà, vào đầu thập niên 1950,
Robert Merle, một trong tiểu thuyết gia lớn của
thời hậu chiến, đã dám chấp nhận sự thách đố, “nhìn vào vực thẳm”
[regarder l’abime],
với cuốn “Cái chết là nghề của tôi”
[La mort est mon métier]...
The Voice of the Individual
I AM HIGHLY
SUSPICIOUS WHENEVER the name of a collective is invoked; I actually
become
afraid that this collective name will strangle me before I have the
chance to
say anything. "Chinese intellectuals" is a collective noun that I
cannot, of course, represent, and I am terrified that if it represents
me I
will be annihilated. However, it happens to be one of the issues for
discussion
today, and it may be said to be a very important issue.
Tôi
rất hơi bị nghi ngờ cứ mỗi khi tập thể lên tiếng. Tôi sợ nó bóp cổ tôi
lè lưỡi
ra, trước khi tôi thốt ra, dù chỉ một lời. "Tầng lớp trí thức Tầu" là
một danh từ tập thể mà tôi không thể đại diện, lẽ dĩ nhiên, và tôi sợ
đến khiếp
vía, nếu nó đại diện tôi, thì tôi sẽ tan biến vào hư vô!
Tuy nhiên, đây
là một đề tài rất quan trọng.
Kể
từ thất bại
của Những cuộc cải cách 100 ngày,
năm 1898, tới Cách Mạng 1911,
trí thức, như là
chúng ta biết đến nó, qua quan niệm của Tây phương, bắt đầu xuất hiện ở
TQ. Trước
đó, theo tôi, giai cấp trí thức TQ chỉ gồm có những bậc văn nhân tài
tử, những nhà
học giả; họ, ngoài chuyện rất quan tâm tới cách ứng xử cá nhân, và văn
chương,
còn chú tâm tới yếu tố tinh thần. Họ mong sự toàn thiện, toàn mĩ, theo
những tiêu
chuẩn đạo đức của đạo Khổng. Triết học hướng về thiên nhiên, thuận theo
thiên
nhiên của đạo Lão đưa đến không hành động, đạo Phật không coi trọng cái
thân. Cách
ứng xử kỳ cục của những học giả của những triều đại Wei và Jin, sự ló
dạng của văn
hóa đô thị ở cuối triều Ming, tất cả đều chẳng thể nào cung cấp cho
giới trí thức TQ một
mảnh đất, để từ đó mọc lên chủ nghĩa cá nhân. Chủ nghĩa cá nhân thực ra
là sản
phẩm mới mẻ của những truyền thống duy lý của văn hóa Tín lành Tây
phương và sự nở rộ tiếp theo của chủ nghĩa tư bản.
Trí
thức TQ
không tạo ra được một giai cấp xã hội độc lập, so với giai cấp cầm
quyền, cho đến
thời kỳ văn hoá mới 4 Tháng Năm,
tiếp theo sự sụp đổ chế độ phong kiến và cơn lũ
tư tưởng Tây phương vào TQ. Một ưu tư về
chủ nghĩa cá nhân hiện đại manh nha xuất hiện cùng với sự khơi mào của
tư tưởng
chính trị Tây phương, nó đáp ứng nhu cầu chính trị, trước tiên và sự
thừa nhận giá
trị của những hoạt động tinh thần của một cá nhân chỉ là thứ yếu. Kết
quả là,
những trí thức TQ, như là những con người suy tư, bắt đầu nói với xã
hội, như là
từng cá nhân.
Than
ôi, tình trạng lý tưởng này không kéo dài. Tới thập niên 1930, tức là
muời năm
sau đó, những hỗn loạn ở trong nước, sự hăm dọa của nước ngoài, cách
mạng, và
chiến tranh, tất cả lại xô đẩy trí thức TQ vào những cuộc xung đột
chính trị để
cứu quốc gia và dân tộc. Liệu họ có ý thức được, hay không, và có lẽ,
những
duyên do tại sao, thì vượt ra khỏi tầm kiểm soát của họ, bởi vì họ,
chính họ, tự biến thành những món đồ để cho những đảng phái chính trị
lợi dụng để giết hại lẫn nhau. Mặc dù có một dúm nhỏ trong số họ, cố
gắng giữ sự
độc lập của mình, nhưng thật khó khăn vô cùng đối với họ, trong cái
việc suy
nghĩ và viết lách. Đây là cái kinh nghiệm bi thảm của giai cấp trí thức
hiện đại
TQ, ngay từ khi trứng nước của nó.
*
Ui
chao, sao
giống Mít thế, những ngày trước Cách Mạng Mùa Thu 1945!
Trong
những
cuốn ‘tiểu thuyết’ viết về viễn ảnh Con Người Xô Viết, khủng khiếp
nhất, chắc là
của Vladimir Sorokin, qua bài viết của Zinovy Zinik, trên TLS, 22 May
2009.
Sorokin
là một cult figure, ở trong những vùng đất mắc míu tới cái gọi là chủ
nghĩa toàn
trị. Thế mà Gấu này mù tịt, thật là xấu hổ! Tuy nhiên cái thế giới đó,
thì ai mà chẳng biết,
thế mới thú vị, là vì ông gọi là thế giới xếp hàng, như tên tác phẩm
của ông, The Queue.
Trong
những
cuốn ‘tiểu thuyết’ viết về viễn ảnh Con Người Xô Viết, khủng khiếp
nhất, chắc là
của Vladimir Sorokin, qua bài viết của Zinovy Zinik, trên TLS, 22 May
2009.
Sorokin
là một cult figure, ở trong những vùng đất mắc míu tới cái gọi là chủ
nghĩa toàn
trị. Thế mà Gấu này mù tịt, thật là xấu hổ! Tuy nhiên cái thế giới đó,
thì ai mà chẳng biết,
thế mới thú vị, là vì ông gọi là thế giới xếp hàng, như tên tác phẩm
của ông, The Queue.
*
Gấu
này đã có
lần bị một ông nhà thơ dởm mắng mỏ, tại sao cứ lải nhải về Faulkner,
tại sao không
chịu noi gương trong nước, đọc văn học Nga.
Tuy nhiên, lời
trách này mà “dành” cho mấy đấng nhà văn VC mới thật là xác đáng!
Cái sự báo cáo,
tôi viết cho những người cam chịu lịch sử - trong có tôi, lẽ tất nhiên
- và, báo
công, dù cam chịu lịch sử, họ vẫn có phần đóng góp trong chiến thắng
Miền Nam,
làm chúng ta thương hại cho mấy đấng nhà văn VC quá đi mất. Đám này quả
là mù tịt
về văn học TQ với những người Cao Hành Kiện, thí dụ, và văn học Nga,
gồm những
tác giả như Akhmatova, Brodsky, Solzhenitsyn… và luôn cả Pasternak, nếu
chúng
ta đọc những dòng Milosz viết về ông, và về Brodsky.
Milosz cũng
nhận ra như Cao Hành Kiện nhận ra, cuộc chiến của những nhà văn như
Pasternak là
một câu chuyện về một cá nhân vs [một] Caesar, nhưng với một khác biệt.
*
Người Về
Người về từ
cõi ấy
Vợ khóc một
đêm con lạ một ngày
Người về từ
cõi ấy
Bước vào cửa
người quen tái mặt
Người về từ
cõi ấy
Giữa phố đông
nhồn nhột sau gáy
Một năm sau
còn nghẹn
giữa cuộc vui
Hai năm còn
mộng toát mồ hôi
Ba năm còn nhớ
một con
thạch thùng
Mười năm còn
quen ngồi một mình trong tối
Một hôm có kẻ
nhìn trân
trối
Một đêm có
tiếng bâng quơ hỏi
Giật mình,
một cái vỗ vai
Hoàng Hưng
Gấu nhớ, trong
Gulag, có một đoạn Solz tả, về cái cảm giác giữa những
người đã
từng ở Gulag, và sau đó, được trả về đời. Họ nhận ra nhau ngay, giữa
phố đông
người. Chỉ ánh mắt gặp nhau, là biết liền đằng ấy và tớ đã từng ở trong
đó.
Gấu
mê nhất, câu "Một năm sau còn nghẹn giữa cuộc vui".
Nhưng
cũng lạ nhất, tò mò nhất, là cái thời gian "một năm sau".
*
Bài
thơ của Hoàng Hưng, như được biết, là một trong 100 bài thơ hay. Không
hiểu
thi sĩ có tiên tri ra được cái sự bí nhiệm của con số hay không, nhưng
có vẻ
như ông rất quan tâm đến nó, chỉ để "đếm" thời gian: vợ khóc 'một'
đêm. con lạ 'một' ngày.
Một
năm sau còn nghẹn giữa cuộc vui, hai năm sau còn
toát mồ hôi. Năm năm, muời năm... một hôm, một đêm...
Liệu
tất cả những cân đo đong đếm đó, là để qui chiếu về câu: Nhất nhật tại
tù
thiên thu tại ngoại?
Câu
này, lại trở thành một ẩn dụ, nếu so cảnh tại ngoại của ông, như được
miêu
tả trong bài thơ:
Có
vẻ như cái cảnh trở về đời kia, vẫn chỉ là, tù trong tù.
Tuy
nhiên, khi đọc như thế, có vẻ như hạ thấp bài thơ.
Bài
thơ Hoàng Hưng bảnh hơn cách đọc đó nhiều. Có cái vẻ thanh thoát, vượt
lên
trên tất cả của nhà thơ. Đây cũng là điều nhân loại tìm đọc Gulag của
Solz: Cái
thái độ đạo đức, nhân bản của tác phẩm và của tác giả, mới bảnh làm
sao. (1)
(1)
The book was also written as a treatise on the subject of survival. The
tone had been set in Solzhenitsyn's first published masterpiece, One
Day in the
Life of Ivan Denisovich (not included in The Solzhenitsyn Reader).
Unlike
another genius writing in this genre, Varlam Shalamov (a kind of
Russian
Primo Levi), who had exposed the prison camp as an unmitigated hell
where man
is stripped of any vestige of humanity, Solzhenitsyn's narrative is a
moral
fable of the condemned soul seeking, in the grueling
experience of
prison life, the light of spiritual rejuvenation. It gave hope. This
was
another reason why his writing was such a huge success in the West.
Giọng
kể của Solz là một thứ đạo đức kinh của một linh hồn bị đọa đầy tìm
mong
sự cứu cuộc, mặc khải, tái sinh, "trẻ mãi không già".(1)
Nó
đem đến hy vọng.
(1)
Đọc văn chưa thấy già, cho dù, nghe nói, sắp xuống lỗ. [Đa tạ. NQT]
The Solz. Reader
Câu thơ "Muời năm
còn quen ngồi một mình trong bóng tối" làm nhớ một
chi tiết về một nhà thơ trong nhóm Nhân Văn, [không nhớ là ai, NMG có
nhắc tới
trong một số Văn Học], ông quen ngồi một mình đến nỗi bóng in lên
tường, thành
một cái vệt, thời gian không làm sao xóa mờ.
Nếu
như thế, một người quen ngồi một mình trong bóng tối, cái bóng của
người đó
in lên tường mới khủng khiếp làm sao. Không ai có thể nhìn thấy nó, để
mà hỏi
thử, thời gian, khi nào xoá mờ!
Note:
Tình cờ, Gấu được đọc một bài thơ của một người tù Gulag, giọng
tương tự bài của Hoàng Hưng, nhưng tàn nhẫn vô cùng, thí dụ, bà vợ xỉa
xói, về
làm gì nữa, ai cần mà về, sao không chết mẹ ở trong đó....
Cái
kiểu về, và phục sinh, và nhìn lại quãng đời tù của BNT, và cảm
ơn chính sách pha lê hóa của nhà nước, sao thê thảm quá, chịu không
nổi, thú thực.
Cái
ý tưởng một người ngồi trong bóng tối, cái bóng đen của người đó
in lên tường đen, đêm đen, làm sao xóa mờ đi được, Gấu
cứ tự hào hoài về "ẩn
dụ" này! Bảnh thật! Sao Gấu tài thế!
Đâu có khác chi "công án thiền", tiếng vỗ của một bàn tay?
Ui
chao mới đọc bài viết trên TLS
June 12, 2009, về nhà văn Nam Tư cuối cùng, Danilo Kis, hóa ra ông cũng
được cả một lố
cao thủ
thổi, thí dụ, Susan Sontag, Nadine Gordimer, Salman Rushdie, và
Kundera. Riêng
Kundera gọi Kis là “great and invisible”: “Vĩ đại và vô hình”.
Cái
bóng đen của Hoàng Hưng, ngồi trong đêm đen, vẽ lên tường đen,
mà chẳng "vĩ đại và vô hình" sao?
Chỉ
thiếu tí ti phục sinh!
"Thiên
tài của một thời điểm, kinh nghiệm, nơi chốn đặc biệt". Nadine Gordimer
thổi
Kis
|
|